Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.17 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC

TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................4
1. KHÁI LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO ........................................................................................................4
1.1. Khái lược về sự hình thành Phật giáo .......................................................................4
1.2. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo ...................................................................5
1.2.1. Quan điểm triết học Phật giáo về thế giới .............................................................5
1.2.2. Tư tưởng triết học Phật giáo về nhân sinh.............................................................7
2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN
HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT ...................................................................10
2.1. Quá trình Phật giáo du nhập và phát triển vào Việt Nam.......................................10
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt ............11
2.2.1. Về mặt chính trị - xã hội ......................................................................................11
2.2.2. Về mặt tư tưởng ...................................................................................................12
2.2.3. Về mặt đạo lý .......................................................................................................12
2.2.4. Về mặt tư duy ......................................................................................................13
2.2.5. Về mặt ngơn ngữ .................................................................................................13
2.2.6. Về mặt văn hóa ....................................................................................................14
2.2.7. Về mặt văn học ....................................................................................................17
2.2.8. Về mặt nghệ thuật ................................................................................................19
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................22


ii


PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam với 54 dân tộc cùng chung sống trên một lãnh thổ hình chữ S . Nhắc đến
Việt Nam là nhắc đến truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái, sự chất phác mộc mạc của con người, sự thanh bình của cảnh sắc thiên nhiên
và khơng thể khơng nhắc đến sự đa dạng về văn hóa tín ngưỡng và phong tục tập quán.
Phật giáo là tôn giáo chiếm tỷ lệ lớn tại Việt Nam. Với sự xuất hiện rất sớm cũng như
gặt hái được những thành tựu to lớn và đôi lúc trở thành Quốc giáo ở giai đoạn lịch sử
thời Đinh, Lý, Trần, Lê. Ngày nay, Phật giáo đã và đang đi sâu vào đời sống thường
ngày của một bộ phận người dân Việt Nam, nhanh chóng thích nghi với lối sống của
người Việt, ảnh hưởng khơng nhỏ đến nhận thức, tính cách, đạo đức và văn hóa của
người dân Việt Nam. Những quan điểm trong giáo lý, giáo luật,…của Phật giáo gần với
đời sống tâm linh của người Việt, với những nét văn hóa Việt.
Triết học Phật giáo tuy bắt nguồn từ nền văn minh Ấn Độ cổ - Trung đại nhưng
được du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ thế II – Sau Cơng ngun và đã nhanh
chóng trở thành tơn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần con người Việt
Nam. Triết học Phật giáo với tư tưởng giúp con người hướng thiện. Đồng thời có những
quy tắc nhất định về lối sống, về cách đối nhân xử lý, về cách nhìn nhận, đánh giá các
sự vật, sự việc diễn ra trong đời sống hằng ngày.
Hiện nay, Phật giáo đã trải dài trên khắp lãnh thổ Việt Nam và tư tưởng Phật giáo
cũng được truyền bá rộng rãi đến khắp mọi nơi. Việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự
tác động của đạo Phật nói chung và tư tưởng triết học Phật giáo nói riêng đối với thế
giới quan, nhân sinh quan của con người là thật sự cần thiết vì có nhìn nhận đúng về
đạo, tư tưởng của đạo thì bản thân mỗi người theo đạo sẽ tự nhận thức được những việc
nên làm và không nên làm để đẹp đời, hợp đạo. Nhằm tìm hiểu về triết học Phật giáo
cũng như sự ảnh hưởng của tôn giáo này đến văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam,
tôi quyết định thực hiện đề tài “Tư tưởng triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng của triết

học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt”.

1


MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trình bày những nội dung, tư tưởng của triết học Phật giáo. Từ đó tìm ra sự ảnh
hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam.
Trên cơ sở đó nhìn nhận, đánh giá và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy những
ảnh hưởng tích cực và khắc phục những hạn chế của triết học Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần của người dân Việt hiện nay.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ các vấn đề:
- Nội dung tư tưởng của triết học Phật giáo.
- Thực trạng ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị tích cực của triết học
Phật giáo trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Phạm vi nghiên cứu
Ảnh hưởng của triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhằm làm rõ đối tượng nghiên cứu và đảm bào thực hiện những mục tiêu đã đặt
ra đối với đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, chú trọng phương pháp logic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp cũng như so sánh và gắn lý thuyết với thực tiễn.

Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Ý nghĩa lý luận
Hiện nay, có khá ít đề tài nghiên cứu về triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng của
triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. Đề tài này đã khái
quát một cách tổng quan nhất về triết học Phật giáo cũng như phân tích cụ thể sự ảnh
hưởng của triết học này đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam.

2


Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ góp phần giúp người Việt có những nhìn nhận, đánh giá,
hiểu rõ hơn về triết học Phật giáo. Từ đó, giúp bản thân mỗi tín đồ Phật giáo có những
tư tưởng đúng đắn về đạo, giúp họ sống tốt đời, đẹp đạo. Đồng thời, đề xuất một số giải
pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị tích cực của triết học Phật giáo trong xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.

KẾT CẦU CỦA TIỂU LUẬN
Tiểu luận gồm 3 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Phần 3: Kết luận

3


PHẦN NỘI DUNG
1. KHÁI LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO
1.1. Khái lược về sự hình thành Phật giáo
Xuất hiện vào khoảng trước thế kỷ thứ VI – Trước công nguyên do Siddharta (Tất

Đạt Đa) sáng lập. Ngài sinh sống tại phía Bắc Ấn Độ, có họ Gơtama thuộc bộ tộc Sakya,
sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm 563 – Trước công nguyên (Theo truyền thống Phật lịch,
tính vào ngày 15 tháng 4 và được gọi là ngày Phật Đản). Cha là Suddhodana (vua Tịnh
Phạn), trị vì dân tộc Sakya. Mẹ là hồng hậu Maya.
Năm 16 tuổi, Thái tử lấy vợ là nàng Yasodhara và sống trong cung điện. Thái tử
với bản tánh đa sầu đa cảm, với sự nhìn nhận về tình cảnh thống khổ của cuộc đời trong
những chuyến đi thăm thú đây đó ở ngồi cung điện đã khiến thái tử sớm có ý định từ
bỏ cuộc sống trần tục để tìm đạo lý cứu khổ cho bản thân và nhân loại. Thái tử quyết
định bỏ nhà ra đi vào năm 29 tuổi, ngay thời điểm này người vợ vừa hạ sinh đứa con
đầu lòng và cũng là đứa con duy nhất tên là Rahnala.
Thái tử lang thang khắp mọi nơi quanh thung lũng sông Hằng để cầu học đạo và
sử dụng mọi cách tu của các môn phái cũng như tu khổ hạnh để mong tìm được giải
thốt. Nhưng sau một thời gian, người đã nhận ra những cách tu này không đạt được kết
quả và quyết định tự chính mình đi tìm chân lý. Và đến một đêm, khi người ngồi dưới
gốc cây bồ đề, người đã chín ngộ, đạt được đại ngộ, giác ngộ nguồn gốc của khổ đau và
sinh tử. Lúc này, người đã 35 tuổi. Khoảng thời gian sau đó, người khơng ngừng đi khắp
nơi để truyền bá tư tưởng của mình và sang lập Phật giáo.
Trong khoảng thời gian ròng rã suốt 49 năm Phật không ngừng đem cái đạo diệt
khổ giảng cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt nam nữ già hay trẻ hay giai
cấp sang hèn gì cả. Phật viên tịch năm 80 tuổi, ở Kusinara. Sau này người đời suy tôn
người bằng nhiều danh hiệu: Đức Phật (Người giác ngộ), Ơng Bụt (Buddha – Nhà hiền
triết), Thích Ca Mâu Ni (Thánh Thích Ca). (Huỳnh Trí Cường, 2002)

4


Hình 1.1. Tượng đồng đức Thích Ca Mâu Ni, vị sáng lập ra Phật giáo
Nguồn: Lịch sử Phật giáo, 2008
1.2. Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo
1.2.1. Quan điểm triết học Phật giáo về thế giới

Triết lý Phật giáo về thế giới tập trung vào ba phạm trù cơ bản gồm: Vô ngã; Vô
thường; Duyên khởi.
Phạm trù “Vô ngã”
Vơ ngã là khơng có cái gọi là “ta”, vì vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” do
hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân con người cũng là do “ngũ
uẩn” hội tụ lại (sắc, thụ, tưởng, hành, thức). Cụ thể:
Sắc: gồm địa, thủy, hỏa, phong.
Thụ: là cảm giác, cảm thụ về sự khổ hay sướng đưa đến sự xúc cảm, linh hội với
thân và tâm.
Tưởng: là suy nghĩ, tư tưởng.
Hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
Thức: là nhận thức, ý thức về ta.
5


Phạm trù “Vơ thường”
Vơ thường “là khơng thường cịn”, mà vạn vật đều biến đổi trong từng giây từng
khắc theo chu trình sinh – trụ – dị – diệt, khơng có bất kì một thực thể nào vĩnh hằng
khơng sinh diệt.
Vô thường của đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời, nhằm bài trự
tính mê mẩn, đồng thời ngăn chặn những người chạy theo vật dục. Vô thường là một
định luật chi phối tất cả sự vật từ thân tâm cho đến hồn cảnh. Vì vậy, khi hiểu được
triết lý vô thường, con người sẽ giữ được tâm an, thản nhiên tiếp nhận những thay đổi
bất ngờ.
Phạm trù “Duyên khởi”
Mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong
đó, duyên là điều kiện giúp nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại có duyên mới
trở thành nguyên nhân khác. Nhân khác lại nhờ duyên mà thành kết quả mới và cứ như
vậy biến đổi không ngừng.
Quan điểm triết học Phật giáo về Nhân – Quả

Nhân được hiểu đơn giản là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân quả là một quy luật
tất nhiên, nêu rõ sự tương quan, tương duyên giữa nhân và quả. Theo quan niệm Phật
giáo thì gieo nhân nào ắt gặp quả nấy, gieo nhân lành gặp quả tốt, gieo nhân ác gặp quả
xấu.
Một nguyên nhân khác của nhân quả là quả trổ liên tục. Ví dụ như một nhà bác
học ln tìm tịi những kiến thức, tích lũy kinh nghiệm,…đến lúc tái sinh tất cả những
kiến thức kinh nghiệm ấy cũng được chuyển từ đời này sang đời khác.
Tóm lại, nhân quả là một định lý tất nhiên. Mọi sự vật, hiện tượng cấu thành, mọi
hoàn cảnh phước, họa, sang, hèn, vinh nhục đều do nhân quả mà thành. Hiểu rõ được
vấn đề này để cố gắn tu học, ăn ở hiền lành.
Thông qua các phạm trù Vô ngã; Vô thường; Duyên khởi và Nhân – Quả, triết học
Phật giáo cho rằng thế giới và con người được kết thành từ những yếu tố vật chất, yếu
tố đó là q trình vận động, biến đổi theo các quy luật Nhân – Quả khách quan. Đây là
quan điểm duy vật biện chứng sơ khai về thế giới.

6


1.2.2. Tư tưởng triết học Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện trong thuyết Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế là chữ Hán được dịch từ chữ Phạn Catvary Aryasatyani là Diệu: cao
quý, mầu nhiệm; Satya là Đế: sự thật, chân lý. Tứ Diệu Đế còn được gọi là Tứ Chân Đế,
Tứ Thánh Đế, Bốn Chân lý mầu nhiệm.
Khổ đế (Dukkha)
Được hiểu là chân lý về sự khổ. Phật cho rằng kiếp người là khổ, nỗi khổ ấy được
biểu hiện ở quy luật sinh – lão – bệnh – tử. Ngoài ra, nỗi khổ của kiếp người còn được
biểu hiện ở các khái niệm sau:
Ái biệt lý: nỗi khổ của sự chia xa, thương nhau mà phải xa nhau.
Oán tăng hội: nỗi khổ được hình thành từ chỗ ghét nhau mà chung sống với nhau.
Sở cầu bất đắc: muốn mà không được.

Thủ ngũ uẩn: khổ do thân xác con người tạo nên (Sắc; Thụ; Tưởng; Hành; Thức).
Tập đế (Sanudaya)
Là triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân của sự khổ
gọi là “Thập nhị nhân duyên” gồm: Vô minh; Hành; Thức; Danh sắc; Lục nhập; Thụ;
Ái; Hữu; Sinh; Lão; Tử.
- Vô minh: Là không sáng, sự mê muội, bất giác và cuồn sinh trong tâm thức. Là
nguồn gốc gây nên tội lỗi.
- Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
- Duyên danh – sắc: Sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
- Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan.
- Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
- Duyên thụ: Là cảm thụ, sự nhận thức trước tác động của thế giới bên ngồi.
- Dun ái: Tham ái, là sự u thích nảy sinh từ ham muốn dục vọng do cảm thụ
thế giới bên ngồi.
- Dun thủ: u thích rồi muốn chiếm giữ lấy.
- Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
7


- Duyên sinh: Là sinh mạng, sự ra đời, sinh thành do sự tồn tại.
- Duyên lão tử: Là già và chết đi do sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra vòng luẩn uẩn của nỗi khổ
đau nhân loại. (Tâm lý học Phật giáo, 1998)
Đức Phật nói rằng “Nếu khơng liễu tri (biết rõ) về năm uẩn hay 12 nhân dun, thì
khơng thể thoát ly sinh tử luân hồi”. Năm uẩn bao gồm: Sức; Thọ; Tưởng; Hành; Thức.
Nó tương tự như 12 nhân duyên. (Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo, 2000)
12 nhân duyên


=

Năm uẩn

Vô minh và hành

=

Hành uẩn

Thức

=

Thức uẩn

Dnh sắc

=

Năm uẩn

Thọ

=

Thọ uẩn

Ái, thủ, hữu


=

Hành uẩn

Sinh, lão – tử

=

Năm uẩn

Diệt đế (Nirodah)
Diệt được hiểu là chấm dứt, dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não,
đó là nguyên nhân đưa đến đau khổ và chấm dứt sự khổ đau. Đồng thời cũng có nghĩa
là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết Bàn (Nirvana).
Đạo Đế (Maga)
Đạo đế là chân lý về con đường giải thốt. Đó là thực hiện Bát Chánh Đạo gồm:
- Chánh kiến (Sammà Dithi): Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận
biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ, khơng còn vướng
bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.
- Chánh tư duy (Sammà Sankappa): suy nghĩ chân chính.
- Chánh ngữ (Sammà Vàcà): Chánh ngữ là lời nói chân thật khơng hư dối, có lợi ích
chính đáng.
- Chánh nghiệp (Sammà Kammanta): Hành động tạo tác cần phải sáng suốt chân chánh.
- Chánh mạng (Sammà Ajivà): Sống một cách chân chánh bằng nghề nghiệp lương thiện,
chính đáng khơng bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người khác.

8


- Chánh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần. Tiến đến mục

đích và lý tưởng mà Phật đã dạy.
- Chánh niệm (Sammà Sati): Niệm là ghi nhớ, nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ chân chánh. Ức niệm,
quán niệm
- Chánh định (Sammà Samàthi): Định nghĩa là tập trung tư tưởng tu tập thiền định.
Chánh định là tập trung tư tưởng vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý, lợi mình và
người.
Mối quan hệ giữa các chi pháp Bát Chánh Đạo là khơng thể phân ly, chi phần này
có trong chi phần kia. Bát Chánh Đạo có thể chia thành ba bước là: Giới; Định; Tuệ.
Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Định là Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Thực hiện đúng Bát Chánh Đạo sẽ đến
được cõi Niết Bàn.
Bên cạnh Bát Chánh Đạo thì cần thực hiện ngũ giới và lục độ.
Ngũ giới là năm điều ngăn cấm mà đức Phật sáng tạo ra để ngăn những tưởng niệm
ác, nói năng khẩu nghiệp, hành động bất chính. Nội dung cụ thể của năm điều răn gồm:
- Bất sát sinh – Không sát sinh: Sanh là chúng sanh, gồm tất cả động vật có tình thức.
Khơng sát sanh nghĩa là khơng được giết hại mạng sống con người.
- Bất đạo – Không đạo tặc: Là vật của người khác chưa cho phép mà chiếm lấy hoặc
dùng vũ lực cưỡng đoạt tài sản của người khác.
- Bất dâm – Không dâm dục: Dâm dục chính là chánh và tà. Vợ chồng chính thức kết
hôn mà quan hệ với nhau là chánh. Gian dâm trộm tình, phi lễ phi pháp mà hành dâm
thì gọi là tà.
- Bất vong ngữ - Khơng nói dối: Nói dối là lời nói trái sự thật nhằm mưu cầu lợi cho
mình hoặc hại người. Vọng ngữ gồm: Vọng ngôn là tâm và miệng không đồng nhất; Ỷ
ngữ là dùng lời nói đường mật làm dao động, nhục chí người khác, bàn luận những lời
dâm dục nam nữ, biên soạn tiểu thuyết tình tứ đồi trụy; Lưỡng thiệt là ở giữa hai người
dùng lời nói súc siểm để chia rẽ, bàn tán đúng sai, tạo xung đột,…; Ác khẩu: Dùng lời
nói thơ lỗ ác độc, khiến người nghe sanh đau khổ, sợ hãi,…
- Bất ẩm tửu – Không uống rượu: Vì đạo Phật chủ trương giác ngộ, vì vậy tất cả những
thức uống có khả năng gây mê làm hại người đều không nên uống.
9



Lục độ là sáu phép tu mà đức Phật lập ra nhằm giáo hóa con người. Cụ thể gồm:
- Bố thí: Đem cơng sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không để
cầu lợi hoặc ban ơn.
- Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
- Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được bản thân.
- Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
- Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, không để cho cái xấu ch lấp.
- Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại, Phật giáo không thừa nhận thượng đế sáng tạo ra thế giới nhưng vẫn thừa
nhận linh hồn bất tử, độc lập với thể xác, trải qua nhiều kiếp luân hồi do nghiệp báo.
Phật cũng hướng con người đến niết bàn - một trạng thái tâm linh thanh thản. Muốn vậy
con người phải khổ hạnh tu luyện. Có thể nói rằng triết học phật giáo là triết học hướng
nội, chú trọng đến đời sống tâm linh của con người. Triết học Phật giáo là một trường
phái triết học có địa vị lớn trong lịch sử tư tưởng của Ấn Độ và của nhân loại nói chung,
dù nội dung của nó có những mặt hạn chế như bi quan, thoát tục. Tuy nhiên có những
luận điểm triết học của nó giàu tính minh triết, đặc biệt là tư tưởng biện chứng về thế
giới có tác dụng trực tiếp trong q trình con người điều chỉnh hành vi để đạt được chân,
thiện, mỹ.
2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN
HĨA TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT
2.1. Q trình Phật giáo du nhập và phát triển vào Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra không
phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền vào trực tiếp từ Ấn Độ khi các
nhà buôn và nhà truyền giáo Ấn Độ đến nước ta vào thế kỷ thứ I và thứ II sau cơng
ngun.
Trong q trình này, Phật giáo Việt Nam trải qua một q trình thích nghi có thể
tóm tắt qua hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu: Vấp phải sự phản ứng của các tín ngưỡng cổ truyền của người Việt,

tục thờ cúng tổ tiên, các thói quen cúng bái trong phong tục tập quán tín ngưỡng truyền

10


thống lâu đời,…Do đó, vào giai đoạn đầu này người Việt Nam có sự xa lạ và ngỡ ngàng
nhất định, thậm chí họ chê bai, đả kích.
Thời kỳ tiếp nhận và phát triển: Khi Phật giáo đã hòa nhập phần nào với dân tộc
nhưng vẫn chịu sự bàn luận của khơng ít bộ phận dân chúng. Họ đã đặt Phật giáo trên
bình diện chính trị - xã hội để khảo nghiệm và thấy rằng tơn giáo này có những điểm
khơng thích hợp. Vì vậy, trong thời gian này nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ
khách nhau đã phê phán, kỳ thị Phật giáo như: Đàm Mĩ Thông (Thế kỷ XII); Lê Quát,
Trương Hán Siêu (Thế kỷ XIV); Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du (Thế kỷ XVIII); Phạm
Quý Thích (Thế kỷ XIX),…đều xem Phật giáo là điều có hại cho xã hội.
Ở một bình diện khách, trên phương diện tín ngưỡng thì người Việt Nam xưa tìm
đến Phật giáo và dần tôn sùng tôn giáo này. Đời vua Lý, Trần từ thế kỷ XI đến XIV đều
đề cao Phật giáo. Thời Lê, Nguyễn tuy tôn sùng đạo Nho nhưng vẫn để Phật giáo lưu
hành. Một số hồng thân, quốc thích và đại thần thời Lê, Nguyễn vẫn xây dựng nhà thời
Phật. Thậm chí Trương Hán Siêu trước chống Phật giáo sau lại theo Phật giáo.
Sự phủ nhận và thừa nhận trên đã xen lẫn và kế tiếp nhau trong lịch sử. Nhưng sự
thừa nhận lớn hơn chính vì vậy đây cũng là sự thừa nhận chung của dân tộc, từ đó Phật
giáo trở thành một tơn giáo và là một hiện tượng triết học lâu dài của dân tộc.
Đến nay, đạo Phật đã tuyền bá vào Việt Nam hơn 2000 năm và đã nhanh chóng
thích nghi với lối sống của người Việt. Những quan điểm trong giáo lý, giáo luật,…của
Phật giáo dần trở nên gần gũi với đời sống tâm linh của người Việt, với những nét văn
hóa Việt.
2.2. Ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt
2.2.1. Về mặt chính trị - xã hội
Trong quá trình du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã có những ảnh hưởng nhất
định đến tình hình đời sống chính trị xã hội nước ta. Từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần,…đã

nhấn mạnh các hoạt động chính trị xã hội trong một số hoạt động của Phật tử. Trong
thời này có các vị cao tăng học thức uyên thâm, có giới hạnh đều được mời tham gia
triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc gia.
Thật khơng khó để thấy rằng có nhiều lý do để các thiền sư Việt Nam tham gia vào
chính sự. Thứ nhất, họ là những người có học, có ý thức về quốc gia, sống gần gũi nên
11


thấu hiểu được nỗi khổ của dân tộc bị ách đơ hộ. Thứ hai, các vị thiền sư khơng có ý
tranh giành ngôi vị. Thứ ba, các thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (tức chỉ
giúp mỗi vua) như các Nho gia vì thế họ có thể cộng tác với bất kì vị vua nào để mang
lại hạnh phúc cho nhân dân. Điển hình như thời vua Đinh Tiên Hồng phong thiền sư
Ngơ Chân Lưu làm Tăng Thống, thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ Pháp Thuận,
ngài Khng Việt tham gia triều chính. Đặc biệt có thiền sư Vạn Hạnh đã có cơng xây
dựng triều đại nhà Lý. Thời nhà Trần có các thiền sư Đa Bảo, Viên Thơng,…đều được
các vua tín nhiệm trong bàn bạc quốc sự cũng như cố vấn triều đình.
Vào thế kỷ 20, Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như cuộc
vận động đòi ân xá cho Phan Bội Châu. Thời Diệm, Thiệu (1959 – 1975), các tăng sĩ và
cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu tranh đòi hòa bidnh và độc lập
cho dân tộc, nổi bật là những cuộc đối thoại chính trị giữa tăng sĩ và chính quyền.
Đến hiện tại, các nhà sư giữ chức vụ cao trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng
tham gia vào hoạt động chính trị - xã hội quốc gia càng chứng tỏ sự ảnh hưởng rõ nét
của Phật giáo đến hoạt động chính trị - xã hội.
2.2.2. Về mặt tư tưởng
Thuyết nhân quả và luân hồi đã ảnh hưởng rõ nét nhất đến tư tưởng của người dân
Việt Nam. Mục đích chung của hai thuyết này nhằm hướng con người đến việc hành
thiện, tránh xa điều ác. Tư tưởng “gieo nhân nào ắt gặp quả nấy” đã âm thầm tồn tại
trong suy nghĩ, lối sống của người Việt từ lúc nào không hay. Từ đó, con người tự điều
chỉnh bản thân mình, có lối nghĩ thiện, có hành động thiện. Nếu chẳng may có điều
khơng may ập đến với chính họ thì họ cho rằng đó là do kiếp trước mình gieo nhân nên

kiếp này gặp quả để từ đó càng cố gắng hành thiện để tích đức. Từ đó có thể thấy rằng
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc vào tư tưởng của người dân Việt Nam.
2.2.3. Về mặt đạo lý
Giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng rõ nét và
thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn người Việt Nam. Tinh thần tương thân tương ái này
đã biến thành câu ca dao quen thuộc “Lá lành đùm lá lách” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương – Người trong một nước phari thương nhau cùng”. Đó là hai trong số những câu
ca dao tiêu biểu mà bất kì người Việt Nam nào cũng ghi nhớ.
12


Bên cạnh đạo lý từ bi, người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của đạo lý Tứ ân gồm:
ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh. Trong đó, ân cha mẹ là nổi bật
và ảnh hưởng sâu đậm nhất đến người Việt bởi đạo Phật chú trọng đến chữ hiếu. Không
những vậy, đạo Tứ ân cịn có chung động cơ thúc đẩy tinh thần từ bi hỷ xả khiến con
người sống hài hòa với xã hội, thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc bền vững.
2.2.4. Về mặt tư duy
Trong quá trình tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt Nam có thêm một số khái
niệm, phạm trù bản thể luận và những vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế giới quan
phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo có ý nghĩa sâu sắc nhất.
Hơn tất cả các học thuyết khác của phương Đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự
nhiên của con người, đó là sinh – lão – bệnh – tử. Đây là bốn giai đoạn tất yếu của cuộc
đời mỗi người, nếu ai nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời và
thậm chí có tinh thần bình thản trước cái chết.
Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức là những vấn
đề có ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm linh và mang tính chất duy tâm nhưng
trong ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý. Từ sự vật khách quan (Sắc),
con người cảm nhận được (Thụ), suy nghĩ (Tưởng), sau đó biến thành hành động (Hành)
và cuối cùng là biết (Thức).
Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam qua những quan niệm biện chứng với các

khái niệm “vô thường”, “vô ngã” cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến
đổi liên tục khơng có gì là trụ lại mãi, khơng có ai là tồn tại mãi.
Phật giáo cũng đề cập đến mối nhân duyên và mối quan hệ nhân quả, đến việc xem
xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem xét kết quả này là nguyên nhân
kết quả khách và cả trong mối quan hệ khác.
2.2.5. Về mặt ngôn ngữ
Trong văn học Việt Nam cũng như trong đời sống thường nhật ta thấy có nhiều từ
ngữ chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo. Khơng phải ai cũng biết những từ ngữ này
xuất phát từ Phật giáo, chẳng hạn như khi thấy người bị tai nạn, đau khổ, ta bảo “tội
nghiệp” thì hai chữ này là từ ngữ chuyên môn của Phật giáo. Theo đạo Phật, tội nghiệp
là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước nên dẫn đến sự việc không may xảy đến hiện
13


tại. Theo giáo lý nhà Phật thì bất kì hiện tượng, sự việc nào là ngẫu nhiên mà tất cả là
kết quả của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước.
Còn một số từ ngữ quen thuộc khác như: từ bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được
người dân quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh
hưởng Phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó cịn lan rộng, ăn sâu vào những
ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam.
2.2.6. Về mặt văn hóa
2.2.6.1. Ca dao
Ca dao dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, mang tính dễ hiểu trong dân
gian, được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ca dao đi vào lòng mỗi người qua câu
hát ru, những câu hò hay những câu đối. Có thể thấy Phật giáo gắn liền với con người
nước Nam qua một số hình ảnh như:
Hình ảnh ngơi chùa
“Tây Ninh có núi Bà Đen
Có sơng Vàm Cỏ có tịa Cao Sơn”
Hình ảnh ngơi chùa gắn liền với đất nước

“Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”
Con người Việt Nam luôn lấy chữ hiếu làm đầu, đây cũng chính là ảnh hưởng từ
Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cha trịn chữ hiếu mới là đạo con.”
Thuyết nhân quả trong Phật giáo cũng có ảnh hưởng qua câu ca dao
“Cây xanh thì là cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con”
Từ đó có thể thấy rằng, những câu ca dao Việt Nam đã phần nào thể hiện được
sự ảnh hưởng của Phật giáo đến với văn hóa của người Việt.

14


2.2.6.2. Phong tục tập quán
Phong tục tập quán thể hiện bản sắc văn hóa và tính đặc thù về văn hóa của mỗi
dân tộc. Thơng qua việc tìm hiểu về phong tục tập quán, có thể nhận định và hiểu được
những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của dân tộc đó. Phong tục tập quán
của người Việt Nam chịu ảnh hưởng từ Phật giáo khơng ít. Điển hình qua một số phong
tục tập quán sau:
Tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh, bố thí
Ăn chay được xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo và khơng ít người Việt
Nam chịu ảnh hưởng từ nếp sống văn hóa này. Người Việt ăn chay vào ngày mùng một
và Rằm (15 Âm lịch) hằng tháng, hoặc cũng có thể ăn nhiều ngày hơn hay ăn chay
trường. Người Việt ăn chay theo quan niệm Phật pháp là tránh sát sanh cũng như trong
hành động, lời nói đều phải tử tế và từ bi. Bên cạnh đó, ăn chay rất phù hợp với phong
cách ăn uống của người Á Đông, chú trọng ngũ cốc nhiều hơn động vật vì vậy có thể

giúp cơ thể nhẹ nhàng, đầu óc minh mẫn. Chính vì vậy, tập tục này đã ảnh hưởng sâu
rộng trong mọi tầng lớp xã hội ở Việt Nam.
Ngoài ra, vào mùng một hay ngày Rằm hằng tháng, người Việt thường sẽ đi chùa
phóng sanh và bố thí giúp người nghèo. Phóng sanh giúp giải trừ nghiệp chướng hay
tích đức. Bố thí giúp người có hồn cảnh khó khăn chính là “Lá lành đùm lá lách”. Tất
cả đều xuất phát từ tâm và cũng là quan niệm của nhà Phật.
Tập tục cúng Rằm, mùng một và lễ chùa
Theo đúng truyền thống tập tục cúng Rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng, tức
là ngày mặt trời và mặt trăng thơng suốt nhau. Vì vậy thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc,
tương thông với con người. Cầu nguyện trong ngày này sẽ được các cõi giới cảm ứng,
gọi là ngày Bồ tát và ngày sám hối. Vào ngày này, tín đồ Phật giáo đến chùa tham dự lễ
sám hối, cầu nguyện thân tâm khẩu ý. Ngoài việc đi chùa sám hối thì vào ngày này tại
gia đình, các tín đồ Phật giáo sắm nhang đèn, hương hoa, một số món ăn chay để dâng
cúng Tam bảo và tổ tiên nhằm thể hiện sự tơn kính và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng
tánh của họ.

15


Nghi thức tang lễ, ma chay
Theo giáo lý nhà Phật, sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên của cuộc đời. Để thể
hiện sự thương tiếc, sự ân đức với nhau thì họ lo hậu sự cho người mất với tất cả tấm
lòng, và đây được xem như là việc làm khơng thể thiếu trong lối sống nghĩa tình của
người dân Việt Nam và được lưu truyền đến mãi hơm nay.
Khi gia đình có người mất, những người thân chia nhau canh giữ thi hài cho đến
khi tẩm liệm. Kế đến là xem ngày giờ để làm thủ tục tẩm liệm, cáo phó ghi rõ thơng tin
về tên, tuổi, ngày giờ mất và các ngày có thời gian có liên quan đến thời gian diễn ra
tang lễ và cho gia đình đi rước Lễ sư. Các vị Lễ sư này có thể là các tăng ni hay sư thầy
trong chùa.
- Tẩm liệm: Trước khi tẩm liệm có làm phép “tẩy tịnh” và cho thi hài vào quan tài

cùng các vật dụng như vải trắng hoặc tơ lụa, trà, quần áo của người mất…để mang theo
cho họ.
- Nghi thành phục: Đề tang là một sự việc quan trọng khi thân quyến qua đời. Nó
tỏ rõ sự thương tiếc, lịng biết ơn đối với người đã chết. Trước khi làm lễ, vị Lễ sư phải
hướng dẫn gia chủ sắm sửa các nghi tiết như án thờ với đầy đủ các lễ phẩm hương, hoa,
đăng, trà, quả, khăn tang, gậy chống...Màu tang thì tuỳ theo quan niệm của mỗi người
mà có khác. Thơng thường tang màu trắng có ngụ ý chúc cho người chết sạch hết bụi
trần.
Tang có thứ bậc, thân sơ mà cách chức và thời gian đài ngắn có khác nhau. Có thể
là 3 năm (đối với con trai), 1 năm (đối với con gái), hay 3 hoặc 5 tháng (đối với dâu,
rễ...). Cũng có trường hợp tuỳ theo hồn cảnh, tắm lòng của người sống đối với người
chết mà thời gian có thể lâu hơn hoặc chỉ đưa ra tới huyệt (hoặc nơi hoả tán) rồi xả bỏ.
Phát tang xong đến nghi thức cúng cơm (ở Miền Nam có 3 vắt cơm đầu ngụ ý cho
người chết được no đủ) cũng do các thầy đám đảm trách.
Kể từ ngày hơm đó, người thân cứ việc hầu cơm nước ngày 2 bữa giống như hồi
cịn sống, sau đó có thể tiếp tục mời thầy cúng tụng kinh cho đến lúc đi chơn. Nếu như
người chết là đạo Thiên Chúa thì mời Đức Cha đến làm phép đề rửa tội.
Ngoài ra, người ta còn thiết lập thêm một bàn thờ Phật, thường là đức Phật Di Đà
hoặc Bồ Tát Địa Tạng, hằng ngày tụng kinh niệm Phật cầu mong các Ngài này có thể
16


tiếp độ vong hồn người chết về cảnh giới cực lạc hoặc cứu khổ ở địa ngục, là những nơi
mà họ nghĩ người thân sẽ tới.
Thời đại ngày nay, do những điều kiện khách quan như thời gian, không gian, kinh
tế...mà nhưng nghỉ thức rườm rà, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế được lượt bỏ rất
nhiều.
Tục đốt vàng mã
Về tục này, Việt Nam ta chịu ảnh hưởng của trung Quốc. Theo lịch sử Trung Hoa,
vào thời Chiến Quốc nạn chết chọc xảy ra liên tục, khí âm thường bao phủ nơi trận địa.

Tương truyền có một người họ Vương đã chết, sau khi sống lại kể rằng đã vân du xuống
âm phủ thấy có nhiều vong hồn đói khổ và ông được Diêm Vương chỉ cách về dương
gian đốt giấy tiền vàng bạc gởi xuống cho họ.
Từ đó có một số người vì tội nghiệp cho thân nhân của mình nên đã dùng đồ Bạch
Ngọc để cúng tế, cúng xong lại bỏ đi. Vua Đường Huyền Tôn thấy tình trạng nếu kéo
dài như thế rất phí uỏng nên ra lệnh dùng giấy làm thành các thỏi vàng, thỏi bạc để thay
đổi các thỏi vàng và tiền quan thật. Đến đời Đường Thế Tôn, quan Từ Tế Xứ tên là
Vương Dữ ra lệnh phải cúng tất cả các loại tiền bằng giấy.
Có thể nói tục này là khơng thể thiếu trong tín ngưỡng dân gian và vẫn duy trì đến
hiện nay. Tuy nhiên, với đời sống hiện đại thì vàng mã cũng được đầu tư về hình thức,
mẫu mã đa dạng nhiều hơn và các Phật tử cũng có ý thức hơn trong vấn đề đốt vàng mã.
Bên cạnh các tập tục nêu trên, còn một số tập tục khác như: Tục ăn chay, thờ Phật,
thờ Bồ Tát Quán Thế Âm tại gia; Tục thờ thần độ mạng; Tục cúng sao giải hạn; Tục
xem ngày giờ,… Qua đó có thể thấy rõ tư tưởng Phật giáo thấm sâu vào đời sống văn
hóa tinh thần của người dân Việt.
2.2.7. Về mặt văn học
Trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà văn chúng ta cũng thấy có nhiều
bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng ít nhiều của Phật giáo. Ảnh hưởng đó bắt đầu từ giai
đoạn Phật giáo du nhập vào Việt Nam, tức là khi chữ Hán còn thịnh hành và để thấy
nhận thấy rõ ràng hơn về sự ảnh hưởng này, ta chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của Phật
giáo trong văn thơ từ giai đoạn chữ Nôm và chữ Việt tức là bắt đầu từ thế kỷ XVIII.

17


Thế kỷ XVIII nổi tiếng với tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của nhà thơ Nguyễn
Gia Thiều (1741 – 1798), viết bằng thơ Nôm. Thể song thất lục bát, 56 câu, là khúc
ngâm của người cung nữ bị vua ruồng bỏ, ốn than về thân phận mình. Nội dung tác
phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn (Vơ Thường, Khổ,
Vơ Ngã).

Theo cái nhìn của phật giáo, khi mô tả nỗi khổ chúng sanh thường được dùng ẩn
dụ như khỗ ải (bể khổ). Cái khổ ấy từ đâu mà có, vốn từ chỗ lầm chấp, vơ minh của con
người mà có, từ chỗ mê lầm ấy mà được hình dung bằng mê tân (bến mê), Như thế danh
từ bể khổ của phật giáo đã giúp ông Nguyễn Gia Thiều diễn tả thấu. đáo nỗi khổ đau
của kiếp người, cái khổ đau ấy, cái vô thường ấy khơng những chi phối ở con người mà
cịn ở cả cây cỏ, hoa lá, thế giới vơ tình, tất cả chịu chung quy luật khắc nghiệt ấy.
Đến thế kỷ XIX, Đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 1820) sáng tác một án văn bất hủ
là Truyện Kiều với tiếng Nôm và thể thơ lục bát phỏng theo tác phẩm Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), gồm 3254 câu thơ. Đây là một truyện
thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ
đế, kế đó là tình thần về hiếu đạo và thuyết về nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có lý,
vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận mình là một Phật tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát
Nhã đến cả ngàn lần. Trong đoạn trường tân thanh nàng Kiều phải mang một cái nghiệp
rất nặng. Vì cái nghiệp ấy mà người con gái đầu xanh chưa tội tình gì mới bước chân
vào cuộc đời đã gặp biết bao khổ lụy: cha và em trai bị tù tội, mối tình đầu tan vỡ, và
bắt đầu từ đó nàng lăn lóc từ nơi này qua nơi khác, có khi tưởng ra khỏi vịng nhưng rồi
lại bị lôi cuốn đày đọa, mãi cho đến khi tự vẫn ở sông Tiền Đường, Đạm Tiên mới cho
biết rằng nàng đã qua khỏi bước đoạn trường và sắp được sống một cuộc đời vui tươi
sáng lạng. Đoạn Trường Tân Thanh dường như chỉ là để chứng minh cho triết lý nhân
quả của Phật giáo. Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người phải gánh chịu
ở kiếp này điều có nghiệp nhân ở kiếp trước, khi mới sinh ra ở đời ta phải mang lấy cái
nghiệp tức là cái kết quả của những vô minh ái dục mà ta đã gây tạo từ trước, và cuộc
đời của chúng ta sẽ hạnh phúc hay đau khổ, tai họa hay may mắn đều tùy thuộc vào cái
nghiệp thiện hay ác, tốt hay xấu, nặng hay nhẹ mà chính mình đã gây tạo.

18


Vào cuối thế kỷ XIX, một nhờ thơ nổi bật trong giai đoạn này chính là Mạnh Chu
Trinh (1862 – 1905), là một người tài hoa về thơ, thích kiến trúc. Ông đã từng vẽ và

trung tu chùa Thiên Trù ở Hương Tích và cũng trong thời gian trùng tu này ông đã sáng
tác nhiều bài thơ độc đáo về phong cảnh Hương Tích như “Hương Sơn Phong Cảnh”.
Qua bài thơ này, tác giả đã phản chiếu được lòng tin của ông đối với giáo lý nhà Phật
thông qua cách nhìn cảnh vật tại đó. Với ơng, cảnh vật Hương Sơn đã trở thành một cõi
riêng của Phật pháp dành cho mọi sinh linh.
Đến thế kỷ XX, ta có J. Leiba là một nhà thơ trẻ Việt Nam cũng có những ảnh
hưởng đậm nét Phật giáo và với Vũ Hoàng Chương (1916 – 1976) – Một nhà thơ nổi
danh, mượn những giáo lý nhà Phật như nhân quả, luân thường, khổ đau,…để diễn tả
niềm khao khát giác ngộ.
2.2.8. Về mặt nghệ thuật
2.2.8.1. Kiến trúc
Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã mang theo các kiểu kiến trúc chùa tháp,
lầu chng gác trống theo mơ hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và Trung Hoa. Tuy
nhiên, theo thời gian kết hợp với lối tư duy tổng hợp của dân tộc Việt Nam đã tạo ra mơ
hình kiến trúc riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Có thể thấy các ngôi chùa tháp tại Việt
Nam thường được xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa ẩn sau lũy tre làng, dưới
gốc cây đa hay ở một vị trí có cảnh sắc thiên nhiên đẹp hay thanh vắng.
Theo mơ hình kiến trúc theo kiểu chữ "cơng": Bái đường và điện Phật được nối
nhau bằng nhà thiên hương; Kiểu chữ "Đinh": Trước; Kiểu chữ "Tam": Ba nếp nhà song
song với nhau, hay kiểu "Nội cơng ngoại Quốc": Phía trước là tiền đường và điện Phật,
sau là mảnh sân hình vng trồng cây cảnh, đặt hịn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai
bên là nhà Đông và nhà Tây.
Một số ngơi chùa được xem là có kiến trúc độc đáo lâu đời, là nơi quy tụ một lượng
lớn các Phật tử đến hành hương nổi tiếng như: Chùa Một Cột ở miền Bắc, chùa Thiên
Mụ ở miền Trung, chùa Giác Lâm ở miền Nam,…
2.2.8.2. Điêu khắc
Ngày nay, khi tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều cốt
tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó khơng những là một niềm tự hào của
19



nên văn hóa dân tộc Việt mà cịn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có
mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay, 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây), Bộ tượng Thập Bát
La Hán chùa Phước Lâm (Hội An), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho),tượng
Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng là
hiện vật Bảo tàng lịch sử TP.HCM... là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo
của Việt Nam cịn có những cơng trình điêu khắc quy mơ và mang tính lịch sử như tượng
"Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Tà Cú, Phan Thiết được kiến tạo năm 1962, tượng
Đức Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11 mét tại Vũng Tàu.
2.2.8.3. Hội họa
Lấy cảm hứng từ cảnh núi con hay các lễ hội đầu xuân hoặc có thể từ tư tưởng độc
đáo của triết học Phật giáo, nhiều nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam đã tạo nên những tác
phẩm mang đậm dấu ấn Phật giáo với đa dạng chất liệu như tranh lụa, sơn dầu, sơn mài
như tác phẩm “Chùa Thầy” – Nguyễn Gia Trí, 1938; “Lễ Chùa” – Nguyễn Siêu; “Bức
Tăng” – Đỗ Quang Em; “Rừng Thiền” – Phượng Hồng; “Hồi Đầu Thị Ngạn” – Huỳnh
Tấn Bá,…

20


PHẦN KẾT LUẬN
Thông qua đề tài “Tư tưởng triết học Phật giáo và sự ảnh hưởng của triết học
Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt” đã giới thiệu một cách khái
quát về nguồn gốc ra đời của Phật giáo, các hệ tư tưởng cơ bản và sự ảnh hưởng của
triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam qua nhiều phương
diện về văn hóa, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, lối sống và phong tục tập quán. Tìm hiểu
sâu hơn, chúng ta càng nhận thấy rõ nét sự ảnh hưởng này. Từ quan niệm nhân sinh
quan, thế giới quan, đạo lý, văn học, nghệ thuật đến lời ăn tiềng nói đều ít nhiều chịu sự
ảnh hưởng của triết lý Phật giáo.

Trải qua nhiều giai đoạn trong lịch sử, Phật giáo đã có chỗ đứng vững chắc trong
lịng dân tộc Việt Nam, tồn tại và phát triển cùng dân tộc. Phật giáo đã đóng góp nhiều
thành tự đáng kể về văn hóa, chính trị, xã hội. Những yếu tố mang tính truyền thống,
hình thành nhân cách, bản lĩnh và bản chất của dân tộc hòa quyện trong những yếu tố
tinh thần, tư tưởng từ bi của Phật giáo. Những yếu tố ngoại sinh đã góp phần vào việc
củng cố, duy trì và phát triển nội hàm bản sắc dân tộc. Phật giáo đã góp phần làm phong
phú hơn về cá tính, đặc trưng của con người Việt Nam và cũng chính bản sắc dân tộc đã
làm giàu hơn nền văn hóa Phật giáo.
Dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ đã khơng ngừng giữ gìn và phát triển các giá
trị nhân bản của Phật giáo. Bởi có lẽ về sự phù hợp của tơn giáo này thích nghi hồn hảo
với bản sắc văn hóa dân tộc. Sự du nhập và phát triển mạnh mẽ của Phật giáo là nhờ ở
tính chuyển hóa giáo lý, tính bao dung, hướng con người đến Chân – Thiện – Mỹ, tin
vào luật Nhân – Quả để hành thiện tích đức, tin vào lối sống, vào cuộc đời vô thường
mà mỗi người đều phải trải qua để mạnh mẽ và suy nghĩ thấu đáo, cũng như luôn giữ
cho bản thân cái tâm thanh tịnh trước mọi biến cố và giai đoạn trong cuộc đời mà bất kỳ
người nào cũng phải trải qua.
Ngày nay, trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập và phát triển thì Phật giáo
bị cạnh tranh gay gắt với các luồng tư tưởng mới du nhập vào nước ta. Nhưng chắc hẳn
với những thành tựu mà Phật giáo đã đạt được thì ảnh hưởng của tơn giáo này vẫn ln
khắc sâu trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồn Quang Thọ. (2007). Giáo trình Triết học (Dùng cho sinh viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học). Hà Nội: NXB Lý luận chính trị.
2. Trần Ngọc Thêm (1996). Cơ sở văn hóa Việt Nam. TP. HCM: NXB Đại học Tổng
hợp.
3. Dương Minh Dũng. (2010). Tư tưởng triết học của Phật giáo và sự ảnh hưởng của tư

trưởng triết học Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt. (Tiểu luận
học phần Triết học, Trường đại học Kinh tế TP.HCM).
4. Huỳnh Trí Cường (2002). Phật giáo và sự ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hóa
truyền thống Việt Nam. TP.HCM: NXB TP.HCM.
5. Thích Tâm Thiện (2000). Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo. TP.HCM: NXB
TP.HCM.
6. Trần Ngọc Thêm (2004). Tìm hiểu về bản sắc văm hóa Việt Nam. TP.HCM: NXB
Đại học Tổng hợp.

22



×