Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

tiểu luận cao học_Đặc điểm của triết học ấn độ và sự thể hiện của nó thông qua triết học phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.72 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền triết học phương đơng, và
cũng chính nơi đây, đã khai sinh ra nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn
trên thế giới “một tiểu vũ trụ của các tơn giáo và các nền triết học”. Nói đến
Ấn Độ người ta liền nghĩ ngay đến triết học Ấn Độ và Phật giáo. Đây là hai
trường phái triết học - tơn giáo lớn của Ấn độ nói riêng và của nhân loại nói
chung.
Mặc dù ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải qua biết bao thăng
trầm lịch sử, sự nghiệt ngã của dịng thời gian…nhưng nó vẫn mang giá trị tri
thức của nhân loại và có thể đương đầu với mọi vấn đề của xã hội hiện đại; là
tôn giáo toàn cầu vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Đó chính là
Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo đã thể hiện được những quan điểm triết
học Ấn Độ, đã bao quát được cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên được đặt
trên căn bản của ý thức đạo lý phát sinh từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi
phương diện. Đạo Phật đã tạo dựng cho các tín đồ, Phật tử một niềm tin vào
luật nhân quả, vào vô thường, vô ngã… Niềm tin ấy sẽ chi phối ý thức đạo
đức của con người, không chỉ ảnh hưởng đối với Phật tử mà còn lan toả và tác
động đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó tạo ra cho con người một
sức mạnh tinh thần để vượt lên cám dỗ vật chất, những trắc trở trong cuộc
sống, hướng họ vào một lý tưởng sống tốt đẹp, vị tha. Tình thương và lịng
nhân ái có thể giúp con người hạn chế bớt tính ích kỷ, từ bỏ tham, sân, si cốt
lõi của những thói xấu, những mâu thuẫn, xung đột và bạo hành trong xã hội.
Những triết lý đó trong phật giáo có những tương đồng với đặc điểm
của triết học Ấn Độ và một phần được kế thừa và phát triển từ tư tưởng triết
học Ấn Độ. Chính vì muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này nên em chọn đề
tài “Đặc điểm của triết học Ấn Độ và sự thể hiện của nó thơng qua triết học
phật giáo” để làm tiểu luận cho mơn học của mình.

1



NỘI DUNG
1.

ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ

1.2.

Điểu kiện ra đời của triết học ấn độ

Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Triết
học Ấn Độ suy cho cùng là sự phản ánh xã hội Ấn Độ cổ đại – xã hội rất coi
trọng và đề cao tôn giáo, một xã hội rất mê triết lý.
Triết học Ấn Độ ra đời và phát cũng như các nền triết học khác đều dựa
trên những cơ sở nhất định:
Thứ nhất, điều kiện địa lý của môi trường của Ấn Độ rất đa dạng, phức
tạp như núi non hiểm trở, sa mạc khô cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hạn
hán liên miên; thêm vào đó, chiến tranh liên tục xảy ra đã làm cho dân cư và
các bộ tộc ở Ấn Độ bị phân hóa hết sức phức tạp. Đây là những yếu tố tác
động, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, tâm tư, tình cảm của người dân Ấn
Độ; điều đó đã buộc họ phải tìm đến, cầu xin các lực lượng siêu nhiên, bên
ngoài là Thượng đế cứu giúp. Các vấn đề tôn giáo, tâm linh nảy sinh, tồn tại
và phát triển trên mảnh đất hiện thực này.
Thứ hai, sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu
hóa ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, chi phối và ảnh hưởng tới toàn bộ các
mặt lịch sử của Ấn Độ, nhất là ảnh hưởng đến sự phát của văn hóa và triết
học. Trên cơ sở “phương thức sản xuất châu Á”, xã hội Ấn Độ được kết
cấuvới ba nhóm cơ bản: nhóm (thực chất là quan hệ gia đình, dịng họ), cộng
đồng tự trị làng – xã và bang (tiểu quốc) với chế độ đẳng cấp ngặt nghèo. Xét
trong điều kiện tồn tại xã hội như vậy thì triết học của Ấn Độ gắn chặt với vấn
đề tôn giáo và tâm linh cũng là yếu tố khách quan.

Thứ ba, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ đã đã làm cho kết cấu xã hội - giai
cấp thêm phức tạp. Theo kinh điển Bàlamôn và Bộ luật Manu của Ấn Độ,
trong xã hội có bốn đặc cấp lớn: Tăng lữ; các đạo sỹ (Brahman); quý tộc;

2


vương công, tướng sĩ, võ sư (Ksatriya); tự do: thương nhân, điền chủ, thường
dân (Vaisya); nô lệ và tiện dân (Ksudra). Ngồi ra cịn có hạng “cùng đinh”
được coi là ngoài lề xã hội (Paria).
Thứ tư, triết học Ấn Độ không chỉ nảy sinh từ những cơ sở nêu trên mà
còn gắn với các thành tựu của khoa học, kỹ thuật và văn hóa của Ấn Độ. Tuy
nhiên, do các điều kiện về tự nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính
trị, văn hóa và tơn giáo, tâm linh, nền triết học Ấn Độ đã có những đặc điểm
đặc trưng riêng có.
1.2. Đặc điểm Triết học Ấn Độ
Triết học Ấn Độ có nguồn gốc từ rất xa xưa và đến thế kỷ thứ VIII –
thế kỷ VI tr.CN, nó được tập trung trong Upanishad, sau đó nó phát triển rất
mạnh mẽ và được phân ra làm nhiều trường phái, khuynh hướng vừa đấu
tranh vừa bổ sung cho nhau tạo nên bức tranh nhiều màu sắc rực rỡ. Đặc điểm
chung của triết học Ấn Độ được thể hiện:
1. Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng vấn đề chủ yếu
là vấn đề con người, bởi vậy, nó là triết lý nhân sinh. Đặc điểm đặc biệt trong
triết học Ấn Độ là nó phân con người thành những yếu tố cấu thành, trong đó
cái tâm có ý nghĩa quyết định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi sâu nghiên
cứu, phân tích cái tâm của con người. Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu
được thế giới thế giới trước hết phải hiểu mình đã và khi đã hiểu mình thì
hiểu tất cả vì bản thể vũ trụ có trong mỗi con người.
2. Mục đích của triết học Ấn Độ là để đạt đến sự giải thốt, trừ bỏ chủ
nghĩa duy vật. Với mục đích giải thoát nên mỗi hệ thống triết học Ấn Độ là

những con đường khác nhau để đi đến giải thoát. Như vậy, triết học Ấn Độ
giống như ngón tay chỉ mặt trăng, như con đò để đưa lữ khách qua sơng. Do
đó, triết học Ấn Độ là triết lý sống, nó gắn liền với tơn giáo, tâm linh, là triết
học của tôn giáo.
3. Nếu như nhận thức trong triết học phương Tây nhìn chung bắt đầu từ
học hỏi, tích lũy kiến thức và đi theo con đường từ đơn giản đến phức tạp, từ

3


hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính đến lý tính... thì nhận thức trong triết học
Ấn Độ lại bắt đầu từ luân lý đạo đức (thanh lọc thân tâm), sau đó để tập trung
tư tưởng (định), rồi mới đến tuệ. Như vậy, trong triết học Ấn Độ, nhận thức
gắn liền với đạo đức. Trong nhận thức, triết học Ấn Độ lại đề cao việc tự nhận
thức, tự hiểu. Điều này quy định tính chất trực nhận, trức giác trong triết học
Ấn Độ. Từ đó, một lơgic kéo theo là công cụ, phương tiện nhận thức trong
triết học Ấn Độ lại nghiêng về ẩn dụ hình ảnh; trong khi đó, công cụ nhận
thức của triết học phương Tây lại chủ yếu là khái niệm.
4. Triết học Ấn Độ vừa mang tính thống nhất, vừa mang tính đa dạng.
Thống nhất ở chỗ dù trực tiếp hay gián tiếp nó đều bị chi phối bởi quan niệm
đồng nhất thể của Upanishad; hầu hết các trường phái đều hướng đến giải
thoát; một số nguyên lý chung có ở nhiều trường phái. Đa dạng ở chỗ triết học
Ấn Độ chia thành nhiều khuynh hướng, nhiều nhánh nhỏ; trừ chủ nghĩa duy
vật, mỗi trường phái là những con đường khác nhau để đi đến giải thoát;
nhiều vấn đề khác nhau được đặt ra ở những trường phái khác nhau.
Trong thời kỳ này toàn bộ hệ thống triết học Ấn Độ được chia thành 9
trường phái:
- Sáu trường phái “chính thống” là: Vedanta; Mimansa; Samkhya;
Yoga; Vaisesika; Nyaya
- Ba trường phái “khơng chính thống” là: Lokayata; Jaina; Buddha

(Phật giáo)
5. Sự phát triển của triết học Ấn Độ là sự đấu tranh giữa các trường
phái và suy cho cùng nó phản ánh nhu cầu của đời sống xã hội trong đó tơn
giáo là trung tâm điểm. Mặt khác, sự phát triển của triết học Ấn Độ chủ yếu đi
theo hướng tuần tự thay đổi về lượng, tức những nguyên lý nền tảng đã được
đặt ra từ thời cổ xưa, về sau chỉ phát triển, bổ sung, hoàn thiện.
6. Biện chứng trong triết học Ấn Độ mang tính chất ngây thơ, duy tâm;
sự phát triển đi theo vòng tròn, tuần hồn. Điều này do cơng xã nơng thơn biệt
lập, khép kín ở Ấn Độ quy định.

4


7. Khác với triết học Trung Quốc, tư duy trong triết học Ấn Độ không
trọng cái cụ thể, hữu hạn; họ muốn vượt cái này để đi đến cái tuyệt đối.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên của triết học Ấn Độ là do điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Ấn Độ cổ đại quy định. Do các điều kiện tự
nhiên, về con người, về xã hội, về kinh tế, chính trị, văn hóa và tơn giáo, tâm
linh, nền triết học Ấn Độ đã trải qua nhiều bước thăng trầm, tạo nên nét đặc
sắc mang bản chất rất Ấn Độ, rất phương Đông.
2. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THÔNG QUA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
2.1. Nội dung cơ bản của triết học phật giáo
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng
cuối thế kỷ VI tr.CN ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên
giới giữa ấn Độ với Nêpan hiện nay.
Người sáng lập Phật giáo là Buddha (Trung Quốc dịch là Phật), có nghĩa
là "giác ngộ". Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn ngun nỗi khổ và tìm con đườn giải
thốt con người khỏi nỗi khổ đó. Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni

có tên thật là Siddharha Tất Đạt Đa) họ là Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của
vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dịng họ Sakya, có kinh đô là thành Kapilavatthu
(Ca- tỳ - la - vệ). Phật Thích Ca sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trCN và mất năm
483 trCN. Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện tìm con
đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ơng đã "ngộ
đạo", tìm ra chân lý "Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên". Tư tưởng triết lý
Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn thể hiện trong kinh
"Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: 1) Tạng kinh (Sutra - pitaka) ghi lời
Phật dạy; 2) Tạng luật ( Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật; 3)
Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình
chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau.

5


a- Thế giới quan: Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy chứa đựng
những yếu tố duy vật và biện chứng chất phác, phủ nhận tư tưởng về đấng
sáng tạo Brahman, cũng như phủ nhận "Cái tôi" (Atman) và dưa ra quan niệm
"Vô ngã" (Anatman) và "Vô thường"; Phạm trù "Vô ngã" bao hàm tư tưởng
cho rằng, vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ nhân duyên nên
thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người cũng
do nhân duyên kết hợp và được tạo thành bởi hai thành phần là thể xác (Rupa
- sắc) và tinh thần (Nâma - danh), do sự hợp tan của ngũ uẩn (sắc - thụ tưởng - hành - thức). Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta, dun tan ngũ uẩn ra thì
khơng cịn là ta, là diệt, nhưng không phải là mất đi mà là trở lại với ngũ uẩn.
Ngay các yếu tố của ngũ uẩn cũng ln biến hóa theo luật nhân quả khơng
ngừng nên vạn vật, con người cứ biến hóa vụt mất, vụt cịn, khơng có sự vật
riêng biệt tồn tại mãi mãi, khơng có cái tơi thường định (An - Atman).
Phạm trù "Vô thường" gắn liền với phạm trù "vô ngã". "Vô thường"
nghĩa là vạn vật trong thế giới chỉ là dịng biến hóa, vận động, vơ định khơng
có người sáng tạo nên cả (Vô tạo giả); tất cả đều biến đổi theo luật nhân quả,

theo quá trình sinh, trụ, dị, diệt (hay thành, trụ, hoại, không) và chỉ có sự biến
hóa ấy là thường hữu. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ đều bị
chi phối bởi luật nhân duyên. Cái nhân (Hetu) nhờ có cái duyên (pratitya) mới
sinh ra được mà thành quả (phla). Quả lại do cái duyên mà thành ra nhân
khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới...và cứ biến đổi mãi mãi.
Vì khơng nhận thức được sự biến ảo vơ thường đó nên người ta nhầm tưởng
là cái tơi tồn tại mãi, cái gì cũng là của ta nên con người cứ khát ái, tham dục,
hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn những ham muốn, dục vọng đó tạo ra
những kết quả, gây nên nghiệp báo (karma), mắc vào bể khổ triền miên (sam sara) tức là mắc vào kiếp luân hồi.
b- Nhân sinh quan: Thừa nhận quan niệm "Luân hồi" và "Nghiệp"
trong Upanishad, Phật giáo đặc biệt chú trọng triết lý nhân sinh, đặt mục tiêu

6


tìm kiếm sự giải thốt cho chúng sinh khỏi vịng luân hồi, nghiệp báo để đạt
tới trạng thái tồn tại Niết bàn (Nirvana). Từ sự lý giải về căn nguyên nỗi khổ
của con người, Thích Ca Mâu Ni đã đưa ra thuyết "Tứ diệu đế" và " Thập nhị
nhân duyên" để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo,
luân hồi. Đây là triết lý nhân sinh chủ yếu của đạo Phật. "Tứ diệu đế" là bốn
chân lý chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hơn hết, gồm:
- Khổ đế: Phật giáo coi " đời là bể khổ". Có trăm ngàn nỗi khổ, nhưng
có 8 nỗi khổ trầm luân, bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: Sinh, lão,
bệnh, tử, thụ biệt ly (Yêu thương mà phải chia lìa), Oán tăng hội (Oán ghét
nhau mà phải sống với nhau), sở cầu bất đắc (Cầu mong mà không được), ngũ
thụ uẩn (năm yếu tố vô thường nung nấu làm nên sự đau khổ).
- Nhân đế (hay Tập đế): Giải thích những nguyên nhân gây nên đau
khổ cho chúng sinh. Đó là 12 nguyên nhân ( Thập nhị nhân duyên): 1. Vô
minh; 2. Hành; 3. Thức; 4. Danh sắc; 5. Lục nhập; 6. Xúc; 7. Thụ; 8. ái; 9.
Thủ; 10. Hữu; 11. Sinh và 12. Lão, tử. Trong 12 nhân dun ấy thì Vơ minh

tức là ngu tối, không sáng suốt là nguyên nhân đầu tiên.
- Diệt đế: Là lần theo Thập nhị nhân duyên, tìm ra cội nguồn của nỗi
khổ, tiêu diệt nó và đưa chúng sinh thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, đạt tới
cảnh trí Niết bàn.
- Đạo đế: Chỉ ra con đường diệt khổ đạt tới giải thốt. Đó là con đường
"tu đạo", hoàn thiện đạo đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc (bát chính đạo):
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: Giữ lời nói phải
4. Chính nghiệp: Giữ đúng trung nghiệp
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng
6. Chính tinh tiến: Rèn luyện khơng mệt mỏi
7. Chính niệm: Có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát

7


8. Chính định: An định, khơng bị ngoại cảnh chi phối.
Tám nguyên tắc này có thể thâu tóm vào 3 điều phải học tập, rèn luyện
là: Giới - Định - Tuệ ( tức là: giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thơng
trí tuệ bát nhã).
2.2.

Những biểu hiện của triết học Ấn Độ thơng qua triết học

Phật giáo
Khi nói về triết học Ấn Độ chúng ta phải nói tới các tôn giáo Ấn Độ cổ
đại như đạo Vê đa, đạo Bà La Môn giáo, đạo Giai na, đạo Phật. Vê đa là tôn
giáo cổ xưa nhất của người Ấn Độ, trong tơn giáo đó chúng ta thấy, người Ấn
cổ đã sáng tạo ra một thế giới thần linh để giải thích những bí ẩn của thiên

nhiên và của con người mà thời đó họ chưa thể cắt nghĩa nổi. Và khơng chỉ
giải thích các hiện tượng tự nhiên, cuộc sống bằng hình ảnh các vị thần mà
trong các sách kinh của Vê đa đã xuất hiện những thắc mắc về khởi nguyên
ban đầu của vũ trụ được sinh ra từ đâu và như thế nào - đây chính là vấn đề
bản thể luận triết học. Phạm trù Brahman - đấng sáng tạo ra vũ trụ - bắt đầu
xuất hiện và trở thành phạm trù triết học cơ bản chung cho mọi trường phái
triết học cổ đại và cả sau này của Ấn Độ. Theo đó, Brahman được coi là linh
hồn tối thượng, tồn tại vĩnh viễn, là bản thể của vũ trụ, thể hiện ra ở mỗi con
người gọi là Atman.
Thứ nhất, triết thuyết duy tâm trên của Vê đa đã trở thành hệ tư tưởng
quy chiếu chính thống trong đời sống tinh thần của xã hội Ấn Độ cổ đại, uy
thế của nó mạnh tới mức những tư tưởng nào đi ngược hay chống lại Vê đa
đều bị coi là tà thuyết khơng chính thống. Một thời, khi Phật giáo ra đời, cuộc
đấu tranh giữa trào lưu tư tưởng mới Lokayata, Samkhya, Giai na, Phật giáo
với phái Vê đa khá quyết liệt đến độ bị xem là các tà mệnh ngoại đạo, vì dám
phủ nhận mọi quyền uy và sự thống trị chính trị, tư tưởng của Vê đa, không
thừa nhận sự tồn tại của linh hồn tối thượng Brahman, linh hồn - bản chất chính là ý thức của con người mà thôi. Không chủ trương tiết dục, cho rằng,

8


diệt dục là tuyên truyền cho cái chết, hưởng thụ trong đời sống là nhiệm vụ
của đạo đức và luân lý, hạnh phúc và lạc thú chính là thiên đường, khổ hạnh,
ép xác là địa ngục,v.v,... Tuy nhiên, các khuynh hướng tư tưởng tự do này,
đặc biệt là phái biệt truyền Phật giáo, cũng khơng thốt ra khỏi sự ảnh hưởng
bởi những tư tưởng có trong Vê đa. Nói khác đi, giáo lý căn bản của nhà Phật
chủ yếu vẫn được xây dựng trên nền tảng của những phạm trù từ Vê đa như
Tự ngã (Atman), Bản thể tối cao (Brahman), giải thốt (Moksha), Ln hồi
(Samsara), nghiệp báo (Karma)… Có khác chăng là ở điểm, Phật giáo phủ
nhận thần thánh sáng tạo ra vũ trụ này, cho rằng, thế giới được chia làm Ngũ

uẩn: Sắc uẩn (hiện tượng vật lý - địa, phong, thuỷ, hoả); Thụ uẩn (cảm giác);
Tưởng uẩn (tri giác và biểu tượng); Thức uẩn (ý thức hoặc nhận thức); Hành
uẩn (ý chí). Các yếu tố trong Ngũ uẩn tập hợp, tương hỗ nhau tạo thành đại
thiên thế giới (vũ trụ) và tiểu thiên thế giới (con người). Trong 5 uẩn đó có cả
vật và thần/thức. Như vậy, vũ trụ quan của Phật giáo là nhị nguyên luận khác
với quan niệm nhất nguyên duy linh của Vê đa, cho rằng, thế giới được sinh
ra từ Brahman/linh hồn tối thượng.
Thứ hai, Phật giáo cũng phủ nhận thuyết thần thánh quyết định số phận
con người, cho rằng, đạo đức và lối sống đức hạnh của con người là cứu cánh
duy nhất để giải phóng họ khỏi nghiệp, vì theo Phật giáo, cuộc đời là một bể
khổ vô tận bởi con người không nhận thức được cái tôi, cái ta của chính mình
nên dễ lầm tưởng, ngộ nhận rằng, cái gì cũng thường tồn, cái gì cũng do ta,
của ta, nên khát ái, tham dục, và để thoả mãn lòng tham, sân, si, con người
phải cố hành động để chiếm đoạt, gây nên nghiệp chướng. Nghiệp được sinh
ra từ chính thân, khẩu, ý mà con người tạo tác hàng ngày. Con đường để giải
thoát khỏi nghiệp là phá bỏ sự mê muội, vơ minh, đạt tới sự sáng tỏ bản thân.
Chính vì vậy, một trong những đề tài cơ bản nhất của tư duy triết học
cổ đại Ấn Độ là phân tích con người, phân giải con người thành những phần
cấu trúc tâm và vật (vật chất và tinh thần). Với Phật giáo, yếu tố tâm có phần

9


coi trọng hơn, nên trong triết học Phật giáo, những phạm trù như thần, thức,
tưởng, niệm… xuất hiện khá nhiều. Song, ở Phật giáo, giữa vật và tâm là một
sự hịa hợp, là sự sắp xếp theo một tơn ti sao cho cả hai cùng triển nở, không
cái nào lấn át cái nào, được như thế thì thiên - địa vị yên, vạn - pháp dục yên.
Thứ ba, trong Phật giáo có thuyết Thập nhị nhân duyên, lý giải về nguồn
gốc của nỗi khổ, theo đó, mọi nỗi khổ đều xuất phát bởi vô minh/vọng tâm/vọng
thức/vọng niệm (kém hiểu biết) mà ra. Vơ thức cịn có nghĩa nữa là tâm thức con

người khơng nhận ra những sản phẩm của chính mình nên đã truy nhận sự hiện
hữu của chúng và thiết lập các mối quan hệ với các hình bóng đó.
Thứ tư, lý thuyết Nhân – Duyên - Quả của nhà Phật cho rằng, mọi hành
vi đều gây các ra hậu quả tất yếu của nó. Các hậu quả này trước hay sau sẽ
quay ngược lại tác động vào chính chủ thể của hành vi vận động ban đầu. Quy
luật Nhân - Quả của nhà Phật dù nhắm đến thế giới nội tâm con người, nhưng
nó đúng với cả thế giới vật lý. Xa hơn, Phật giáo còn cho rằng, mỗi hiện
tượng đều là kết quả của sự phối hợp bởi các nhân tố (nhân), nhưng chưa đủ,
cần phải có thêm những điều kiện thích hợp (duyên) mới tác thành. Một hạt
giống không thể nảy mầm và phát triển mạnh được nếu thiếu các điều kiện
thích hợp của mơi trường, mặc dù, hạt giống đó tự thân nó mang mầm mống
khả năng của sự nảy mầm.
Thứ năm, lý thuyết vô thường của Phật giáo cho rằng, khơng có vật gì
thường tồn vĩnh cửu hay có thể ở mãi trong một trạng thái, nên Phật không thừa
nhận một đấng vĩnh hằng, mặc dù Phật có phân chia sinh giới ra làm 6 loại: trời,
người, A-tu-la, súc sinh, ngọa quỉ, điạ ngục, nhưng trời không phải là tối hậu,
không phải là đấng phạm thiên như trong các triết thuyết khác, mà tất cả đều
phải tuân theo luật nhân – duyên, mà theo quan điểm dun sinh thì khơng có
vật thể nào có thể tồn tại độc lập mà chúng phải nương tựa vào nhau để tồn tại,
vật này có, cho nên vật khác có, cái này khơng thì cái kia cũng khơng, vật này
sinh, cho nên vật khác sinh, mà cái này diệt thì cái kia cũng diệt...

10


KẾT LUẬN
Khi nói đến Phật giáo với tư cách là một tơn giáo, chúng ta khó tránh
khỏi việc liên tưởng tới tính chất thần linh, siêu thực, xa vời, thậm chí là mê
tín, mê muội vốn là thuộc tính của các tôn giáo, nhưng Phật giáo nguyên thủy
không viện đến các khả năng siêu nhiên, mà chú trọng tối đa vào việc thực

nghiệm của chính bản thân mình.
Tuy nhiên Phật pháp đã tồn tại trên hai nghìn năm trăm năm, triết
thuyết của nó đã thấm sâu vào nhiều nền văn hóa và chi phối tới đời sống xã
hội cả ở tầm vĩ mơ và vi mơ. Tuy nhiên, đức tín và sự thực hành hay trải
nghiệm tâm linh tôn giáo có mn nghìn cách khác nhau, chính vì vậy việc
nghiên cứu về triết học và những biểu hiện của nó đối với phật giáo, giúp
chúng ta xác lập lại xem giá trị của Phật giáo trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội như thế nào, tránh bị những tư tưởng mê tín, dị đoan hoặc các tư tưởng
tà đạo chi phối, lợi dụng phật giáo trong đời sống xã hội hiện nay.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình đại cương lịch sử triết học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSi cương lịch sử triết học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSng lịch sử triết học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSch sử triết học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TS triết học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSt học – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSc – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSng hợp Tp.HCM – TSp Tp.HCM – TS
Nguyễn Ngọc Thu – TS Bùi Văn Mưa, 2003. n Ngọc – NXB tổng hợp Tp.HCM – TSc Thu – TS Bùi Văn Mưa, 2003.
2. Lê Đàn, Ấn Độ xứ Phật linh thiêng, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 3 ra
ngày 15/5/2011, tr.67.
3. TS. Bùi Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại, Khái lược Lịch sử Triết học,
Nxb. Chính trị hành chính, Hà Nội 2011
4. TS. Lê Đức Hạnh , Nghiên cứu tín ngưỡng, tơn giáo từ gốc độ nhân học văn
hóa – xã hội.
5. Tạp chí Nghiên cứu nghiên cứu Tơn giáo, số 3/2012, tr. 14
6. Tám quyển sách quý – NXB tôn giáo – HT. Thích Thiện Hoa, 2009. n sách quý – NXB tơn giáo – HT. Thích Thiện Hoa, 2009. n Hoa, 2009.
7. Lê Mạnh Thất, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II, Nxb. Tp Hồ Chí
Minh, 2001.
8. Ngơ Đức Thịnh, Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
9. Th.s Nguyễn Hoài Sanh, Bàn thêm về nguồn gốc của Tơn giáo. Tạp chí

nghiên cứu Tôn giáo, số 6/2012, tr.11
10. GS, TS Nguyễn Hữu Vui (chủ biên), Lịch sử Triết học, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2007

12



×