Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

(Tiểu luận) lý luận chung về sản xuất hàng hóa thử đặt mình vào vị trí nhà sản xuất để làm rõ trách nhiệm xã hội của mình đối với người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.86 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG - TÀI CHÍNH

BÀI TẬP LỚN
Mơn: Kinh tế chính trị Mác – Lênin
Đề tài: Lý luận chung về sản xuất hàng hóa. Thử đặt mình vào vị
trí nhà sản xuất để làm rõ trách nhiệm xã hội của mình đối với
người tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hóa.

Giảng viên hướng dẫn

: PGS.TS Đào Thị Phương Liên

Khóa

: 64

Họ và tên

: Trần Bảo Ngọc

Lớp

: 16

Mã sinh viên

: 11224770

Hà Nội, 2023



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................3
NỘI DUNG..............................................................................................................4
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN XUẤT HÀNG HĨA.......................... 4
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa......................................................................4
2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa..................................................... 4
3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa..................................................................... 6
PHẦN II: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NHÀ SẢN XUẤT VỚI NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG VIỆC SẢN XUẤT HÀNG HÓA..................................7
PHẦN III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN....................................................................9
KẾT LUẬN...........................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................12


MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn đầu của xã hội loài người, mọi hoạt động sản xuất đều tự cung
tự cấp do hạn chế về lực lượng sản xuất. Tại thời điểm đó, nhu cầu của con người
bị giới hạn trong phạm vi nhất định. Tuy nhiên, khi lực lượng sản xuất phát triển và
đạt được nhiều thành tựu, nhu cầu con người được đáp ứng ngày càng nhiều. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất cũng là yếu tố dẫn đến sự thay đổi hình thái kinh
tế, từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa và tiến đến nền kinh
tế thị trường. Nhắc đến sản xuất hàng hóa thì khơng thể khơng nhắc tới mối quan
hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng cũng như trách nhiệm xã hội của nhà sản
xuất. Đây là mối quan hệ mật thiết, có những tác động quan trọng đặc biệt trong
khâu tiêu thụ sản phẩm, ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp.
Trước những năm 1986, nền kinh tế tự cung tự cấp được áp dụng tại Việt Nam.
Tuy nhiên sau đó nền kinh tế này khơng cịn phù hợp, thể hiện những mặt yếu kém và
lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của kinh tế nước ta. Nhận thấy điều đó, Đảng và Nhà
nước đã quyết định đổi mới, chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nhờ đó, sản

xuất hàng hóa đã trở thành động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần
giúp nước ta hội nhập và phát triển như ngày hôm nay. Đến nay, sau hơn
30 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã gặt hái nhiều thành tựu đáng kể.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, em
nhận thấy việc phân tích lý luận chung về sản xuất hàng hóa từ đó thử đặt mình vào vị
trí một nhà sản xuất và đánh giá trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất với người tiêu
dùng trong việc sản xuất hàng hóa là một việc quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn đối với q trình sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế của đất nước.


NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SẢN XUẤT HÀNG HĨA
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó, những người
sản xuất ra sản phẩm khơng nhằm phục vụ mục đích, phục vụ nhu cầu tiêu dùng
của chính mình mà để trao đổi, mua bán.


thời kì đầu lịch sử loài người, sản phẩm của sự lao động chỉ được tạo ra để

phục vụ chính người sản xuất ra chúng, tuy nhiên do sản xuất ngày càng phát triển,
nhu cầu của con người ngày càng tăng làm cho sản xuất tự cung tự cấp dần chuyển
hóa thành sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa đã tồn tại từ chế độ chiếm hữu nô
lệ, chế độ phong kiến tới chế độ tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng
hóa tồn tại trên cơ sở của sự trao đổi hàng hóa và là nền tảng của mọi nền kinh tế.

2. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã hội loài
người. Để nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển, C.Mác cho rằng
cần hội tụ đủ hai điều kiện gồm:

Điều kiện thứ nhất: Phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chun mơn hóa của những người sản
xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi ấy, mỗi người chỉ sản xuất một hoặc
một số sản phẩm nhất định. Trong khi đó, nhu cầu của họ lại đòi hỏi nhiều loại sản
phẩm. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản
phẩm với nhau. Lấy ví dụ, một người thợ may chuyên may quần áo sẽ có dư thừa vải
so với nhu cầu, nhưng có những nhu cầu khác như lương thực, cần gạo để


làm thức ăn. Khi đó sẽ diễn ra sự trao đổi hàng hóa đổi vải lấy gạo với người nơng
dân và ngược lại vì người nơng dân cũng sẽ cần vải làm quần áo.
Theo C.Mác: “Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản
xuất hàng hóa, mặc dù ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại
của sự phân công lao động xã hội”. Phân công lao động xã hội với việc chun
mơn hóa sản xuất đồng thời làm tăng năng suất lao động, sản phẩm thặng dư ngày
càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao đổi sản phẩm.
Điều kiện thứ hai: Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.

Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những người
sản xuất độc lập với nhau, khác nhau về lợi ích. Trong điều kiện đó, người này
muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán sản
phẩm, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm
của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện
với nhau như là những hàng hóa”. Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa
các chủ thể sản xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu.
Xã hội loài người càng phát triển, càng làm cho sự tách biệt về quyền sở hữu càng
sâu sắc, nền sản xuất hàng hóa vì thế càng ngày càng phát triển phong phú. Hiện
nay, việc tách biệt kinh tế xảy ra do nhiều hình thức sở hữu tư liệu khác nhau,
cùng với đó là tách biệt về quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với các tư liệu sản

xuất.
Hai điều kiện nêu trên là hai điều kiện cần và đủ để có thể ra đời và duy trì sản
xuất hàng hóa cho tới ngày nay. Phân cơng lao động xã hội làm cho những người
sản xuất phụ thuộc lẫn nhau cịn sự tách biệt kinh tế thì chia rẽ họ, làm họ độc lập
với nhau. Đây chính là một mâu thuẫn và nó được giải quyết bằng cách trao đổi
mua bán sản phẩm. Cũng chính bởi vậy mà sản xuất hàng hóa là một phạm trù
mang tính lịch sử, nó sẽ tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên và cũng chỉ mất đi khi
một trong hai điều kiện này không được đáp ứng.


3. Ưu thế của sản xuất hàng hóa
So với nền sản xuất tự cấp tự túc, nền sản xuất hàng hóa có những ưu điểm nổi
bật nhất định sau:
Một là, tạo khả năng thỏa mãn tối đa các nhu cầu luôn phát triển của con người.
Xã hội ngày càng phát triển và hiện đại, nhu cầu của con người ngày càng tăng từ
đó địi hỏi sự phát triển và nâng cao cả về lượng và chất của sản phẩm. Sự đa dạng
hàng hóa có được từ nền sản xuất hàng hóa khiến cho các sản phẩm ngày càng đáp
ứng được những nhu cầu và điều kiện khác nhau của người tiêu dùng. Từ đó chất
lượng cuộc sống được nâng cao đồng thời tăng khả năng lao động của mỗi người.
Hai là, kích thích sự năng động, sáng tạo của con người. Nền sản xuất hàng hóa
với nhiều quy luật vốn có như quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh,... địi hỏi người
sản xuất phải ln sáng tạo, nhạy bén với những biến động của thị trường. Họ cần
biết tính tốn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả kinh tế;
cải tiến quy trình sản xuất, hình thức của chúng để đa dạng hóa nhiều loại hình sản
phẩm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thường xuyên biến đổi của người tiêu dùng.
Ba là, sản xuất hàng hóa thúc đẩy các quan hệ kinh tế ln rộng mở, từ đó góp
phần thúc đẩy văn minh cho con người. Trong nền sản xuất hàng hóa, với sự phát
triển không ngừng nghỉ của sản xuất, sự giao lưu và hợp tác kinh tế giữa các bên sản
xuất với quy mô từ nhỏ đến lớn, giữa các cá nhân, giữa các nước cũng tăng cao và
khiến cho đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người ngày càng được cải thiện.


Tuy nhiên bên cạnh đó sản xuất hàng hóa cũng có mặt trái và tác động tiêu cực
tới đời sống kinh tế, xã hội. Điển hình là tình trạng phân hóa giàu nghèo giữa
những người sản xuất; chạy theo lợi ích cá nhân làm tổn hại đến các giá trị đạo
đức truyền thống, nạn hàng giả, hàng kém chất lượng, thậm chí hàng hóa độc hại
cũng có thể đem ra trao đổi gây tổn hại cho xã hội; sản xuất khơng kiểm sốt được
tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối, khủng hoảng kinh tế, phá hoại môi trường sinh
thái… Những tác động tiêu cực đó có thể hạn chế được, nếu có sự quản lý, điều
tiết từ một chủ thể chung của toàn bộ nền kinh tế là nhà nước.


PHẦN II: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA NHÀ SẢN
XUẤT VỚI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG VIỆC SẢN
XUẤT HÀNG HÓA
Song song với những hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa của nền kinh tế, nhà
sản xuất cịn cần có trách nhiệm đối với nhà nước, xã hội, người lao động và quan
trọng nhất chính là người tiêu dùng. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất và người tiêu
dùng là mối quan hệ mật thiết và vô cùng thiết yếu đặt trong nền sản xuất hàng hóa
hướng đến phát triển nền kinh tế thị trường. Trách nhiệm xã hội của nhà sản xuất với
người tiêu dùng trong sản xuất hàng hóa được thể hiện ở nhiều góc độ:

Một là, nhà sản xuất có trách nhiệm sản xuất những hàng hóa mà người tiêu
dùng cần và muốn với một mức giá có thể duy trì doanh nghiệp và đồng thời thỏa
mãn túi tiền của nhiều phân khúc khách hàng. Nghĩa là trong quá trình sản xuất
hàng hóa, nhà sản xuất đồng thời cải thiện đời sống, đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng mà vẫn đảm bảo được lợi ích cho mình. Hàng hóa cần được sản xuất với
sự đa dạng trong mẫu mã, công dụng với nhiều phân khúc giá để phù hợp với yêu
cầu và các mức thu nhập khác nhau của người tiêu dùng. Ví dụ như các doanh
nghiệp sản xuất giày da nên cung cấp cho thị trường những mẫu giày với nhiều
kiểu dáng khác nhau và cùng với đó là đặt những mức giá tương ứng, có thể tạo cơ

hội sở hữu sản phẩm cho mọi nhóm người tiêu dùng bằng cách áp dụng những
chương trình khuyến mãi, kích cầu. Khi thực hiện điều này, chính doanh nghiệp
cũng nhận được lợi ích, góp phần xây dựng thương hiệu và phát triển bền vững.
Hai là, nhà sản xuất còn phải chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm chất lượng và
an toàn sản phẩm. Chất lượng của mỗi sản phẩm sản xuất ra phải tương xứng với giá
tiền mà người tiêu dùng sẽ phải chi. Đồng thời quy trình sản xuất hàng hóa phải được
giám sát chặt chẽ, nghiêm ngặt trong khâu kiểm tra đầu ra và vận chuyển, bảo quản
để sản phẩm đến tay người tiêu dùng trong tình trạng tốt nhất. Nhà sản xuất cần vượt
qua ngoài các u cầu an tồn tối thiểu, khơng ngừng phát triển, đánh giá mức độ an
toàn, những rủi ro của sản phẩm và đặc biệt chú ý tới nhóm người tiêu


dùng dễ bị tổn thương có thể khơng có khả năng thừa nhận, đánh giá các nguy
hiểm tiềm tàng của sản phẩm.
Ba là, yếu tố đạo đức luôn cần phải được chú trọng trong q trình sản xuất
hàng hóa. Đối với một nhà sản xuất, việc xây dựng niềm tin với người tiêu dùng là
một yếu tố quan trọng quyết định sự tăng trưởng, tồn tại của doanh nghiệp, và đạo
đức nghề nghiệp chính là nền tảng của niềm tin đó. Nhà sản xuất ln ln phải
trung thực trong q trình sản xuất, trao đổi hàng hóa, làm đúng theo quy trình,
khơng thêm bớt để chạy theo lợi nhuận. Cần phải cung cấp đầy đủ và chính xác
thơng tin của hàng hóa tới người tiêu dùng. Đặc biệt với những hàng hóa đặc thù
ví dụ như sản xuất thuốc chữa bệnh cần sàng lọc nguyên liệu đầu vào kĩ càng, có
đầy đủ hướng dẫn sử dụng, cảnh báo tác dụng phụ,... Trong trường hợp xấu nhất
khi xảy ra sai sót trong khâu sản xuất hàng hóa, nhà sản xuất cần phải chịu trách
nhiệm xử lí sản phẩm khơng đạt u cầu, đền bù thiệt hại cho người tiêu dùng và
chấp nhận xử phạt theo quy định.
Bốn là, tuân thủ quy định của nhà nước, của pháp luật trước, trong và sau q
trình sản xuất hàng hóa. Đây là trách nhiệm tối quan trọng của nhà sản xuất để
đảm bảo tính pháp lý của hàng hóa, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và cho
chính nhà sản xuất.

Năm là, hướng đến nền sản xuất hàng hóa bền vững. Bằng việc sản xuất bền
vững, những hàng hóa mà nhà sản xuất cung cấp sẽ ít gây ra ảnh hưởng tiêu cực
tới mơi trường và tới chính đời sống xã hội của người tiêu dùng. Ví dụ như thiết kế
sản phẩm và bao gói sao cho có thể dễ dàng sử dụng, tái sử dụng, sửa chữa hay tái
chế và, nếu có thể, cung cấp hay gợi ý các dịch vụ tái chế và hủy bỏ; ưu tiên các
nguồn cung cấp có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững; đưa ra các sản phẩm
chất lượng cao có chu kỳ sống dài hơn, với giá cả hợp lý; cung cấp cho người tiêu
dùng thông tin về mặt khoa học nhất quán, trung thực, chính xác, có thể so sánh và
xác minh về các yếu tố môi trường và xã hội liên quan để tăng độ tin cậy.


PHẦN III: LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Hiện nay, đa phần các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam đều ý thức được những
trách nhiệm xã hội của mình đối với người tiêu dùng bởi lẽ đó là một trong những
yếu tố hàng đầu tác động tới sự phát triển, tồn tại của doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã nhận lại được những hiệu quả kinh tế
nhất định và bên cạnh đó là lợi ích trong việc xây dựng thương hiệu, chỗ đứng lâu
dài trên thị trường. Trong số đó có thể nói tới cơng ty VinFast trực thuộc tập đồn
Vingroup.
Là một trong những cơng ty đi đầu của Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất ô tô,
xe máy - một trong những ngành công nghiệp mang tính dẫn dắt, VinFast ý thức
rõ được trách nhiệm xã hội của bản thân doanh nghiệp trước hết đối với khách
hàng của mình. Hiểu nhu cầu và tâm lý khách hàng, thời gian đầu ra mắt, VinFast
áp dụng chính sách giá “3 không”, chấp nhận bù lỗ để mang đến cơ hội sở hữu sản
phẩm dễ dàng hơn cho đông đảo người tiêu dùng. VinFast thường xun có những
chương trình, chính sách hỗ trợ bán hàng linh hoạt và dịch vụ chăm sóc khách
hàng tận tâm, chu đáo. Đây cũng là một trong số ít hãng xe trên thị trường hỗ trợ
khách hàng “đổi cũ lấy mới” với thủ tục thuận tiện, tối ưu giá trị xe cũ, tặng thêm
tiền để khách hàng mua xe mới dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, cơng ty VinFast cũng đặc biệt chú trọng trong việc bảo đảm an toàn

và chất lượng sản phẩm. VinFast không chỉ đảm bảo đúng quy định về tiêu chuẩn
doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ơ tơ mà cịn ứng dụng cơng nghệ số hóa đầu tiên tại
Đơng Nam Á. Tồn bộ quy trình sản xuất linh kiện ơ tơ, lắp ráp hồn tồn được đồng
bộ và khép kín, điều hành bằng hệ thống máy móc thơng minh, hiện đại và tự động
hố thơng qua robot. Với quy trình hiện đại cùng đội ngũ nhân sự có trình độ cao, các
nhà máy lắp ráp ô tô của VinFast đã đưa ra thị trường những mẫu xe có thiết kế ấn
tượng với đa dạng phân khúc. Các mẫu xe hơi được VinFast đầu tư và lựa chọn rất kỹ
từ đối tác thiết kế để tạo nên những sản phẩm chất lượng hàng đầu như VinFast Fadil,
VinFast Lux A2.0, VinFast Lux SA2.0, VinFast President và VinFast VF e34. Các
mẫu xe sau sản xuất sẽ phải trải qua quá trình thử nghiệm và


đánh giá chất lượng nghiêm ngặt đến từ các tổ chức uy tín thế giới như ASEAN
NCAP, EURO NCAP, WLTP,... trước khi tung ra thị trường.
Đồng thời, việc cho ra mắt những dòng xe bền vững hướng tới bảo vệ môi trường
cũng là một trong những mục tiêu xuyên suốt của VinFast. Với các thiết kế xe máy,

ô tô điện, Vinfast đã góp phần làm giảm lượng khí thải, khói bụi từ động cơ xe ra
môi trường, đi đầu trong làn sóng sử dụng phương tiện giao thơng “xanh”.
Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp như VinFast thì ở Việt Nam vẫn tồn
tại khơng ít những doanh nghiệp khơng thực hiện nghiêm túc trách nhiệm xã hội
của mình. Vẫn cịn tồn đọng những trường hợp có hành vi gian lận trong kinh
doanh, báo cáo tài chính, sản xuất hàng kém chất lượng, cố ý gây ơ nhiễm mơi
trường. Điển hình có những vụ xả nước thải khơng qua xử lý ra sông hồ ảnh
hưởng tới sinh hoạt của người dân địa phương của các cơng ty Mía đường Hịa
Bình, đóng tàu Huyndai Vinashin,... hoặc những bê bối liên quan tới thực phẩm
bẩn kém chất lượng ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người tiêu dùng,... Để
khắc phục tình trạng này, nhà nước cần có những chính sách, biện pháp cụ thể,
hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam, tăng cường tuyên truyền tới các doanh
nghiệp. Và đồng thời chính bản thân các doanh nghiệp cũng phải lưu tâm, có

những chiến lược, kế hoạch cụ thể để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình.
Khơng chỉ doanh nghiệp và nhà nước mà cả thế hệ học sinh, sinh viên cũng cần
ý thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội mà nhà sản xuất cần có với người
tiêu dùng. Tuổi trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trị
rất quan trọng trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ

kiến thức, kĩ năng để thích ứng với những bước phát triển mới trong tương lai. Thế
hệ trẻ cần chú trọng học tập, chăm chỉ sáng tạo, đặt mục tiêu và động cơ học tập
đúng đắn, biết trau dồi những kĩ năng mềm để hồn thiện bản thân, từ đó có hiểu
biết tồn diện về nền sản xuất hàng hóa, ý thức được trách nhiệm xã hội của nhà
sản xuất để đảm bảo lợi ích của tất cả các bên.


KẾT LUẬN
Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa chính là bước ngoặt căn bản trong
lịch sử phát triển của loài người. Cùng với sự phát triển, tiên tiến của cơng nghệ
hiện đại, sản xuất hàng hóa đã, đang và sẽ ngày càng hồn thiện hơn, đóng góp
quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ áp dụng lý luận về sản xuất hàng
hóa của C.Mác đã tạo cơ hội cho sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam cho đến ngày nay. Lý luận có vai trị đặc biệt quan trọng, giải
thích được bản chất và các hiện tượng liên quan đến trao đổi và mua bán hàng hóa.
Chính bởi vậy mà sản xuất hàng hóa ngày càng được chú trọng đầu tư. Song song
với sự phát triển đó là trách nhiệm xã hội ngày càng cao của nhà sản xuất đối với
người tiêu dùng nói riêng và tồn xã hội nói riêng. Để nền sản xuất hàng hóa phát
triển thật bền vững, các nhà sản xuất cần phải ý thức và thực hiện đúng, đủ trách
nhiệm xã hội của mình, đặc biệt đối với người tiêu dùng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt

1.

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ khơng

chun lý luận chính trị), 2019, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

Tài liệu trực tuyến
1.

“Tiêu chuẩn và quy trình vận hành nhà máy lắp ráp ơ tô tại Việt Nam”,

/>2.

“VinFast nhận được đánh giá ESG từ Sustainalytics”,

/>3.

“Các lý thuyết về việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp”,

/>


×