Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

(Tiểu luận) xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay và những cơ hội thách thức của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.12 KB, 18 trang )

Trường Đại Học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội
………………..…….. ………………………..

SEMINAR LẦN 1
Môn: Địa lý kinh tế Việt Nam
Họ và tên sinh viên: Văn Đình Hiếu
MSV: 2621230652
Lớp: QL26.02
Đề tài:
1. Xu hướng chính nền kinh tế thế giới ngày nay và những cơ hội - thách thức
của Việt Nam?
2. Tại sao phát triển bền vững là niềm hy vọng của nhân loại? Hãy liên hệ với
thực tiễn Việt Nam.
3. Việt Nam có thực sự có lợi thế về các nguồn lực tự nhiên không ? Hãy đề
xuất một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó?
4. Suy cho cùng, con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội. Tại sao? Hãy đề xuất những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn
nhân lực của nước ta trong giai đoạn hiện nay.


Câu 1.
Nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất, đa dạng, nhưng phát triển
không đều và chứa đựng nhiều mâu thuẫn
Sau sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu vào cuối những năm 80
đầu những năm 90 của thế kỷ XX và sự kết thúc của cuộc chiến tranh lạnh, nền
kinh tế thế giới trở nên đa dạng với các nền kinh tế khu vực, quốc gia có những
đặc điểm, tính chất và con đường phát triển khác nhau
Nền kinh tế thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các nước
phương Bắc giàu có với các nước phương Nam nghèo đói, mâu thuẫn giữa các
nước phương Tây phát triển với các nước phương Đông chậm phát triển, mâu
thuẫn giữa liên minh Châu Âu (EU) với Hoa Kỳ, Nhật Bản,…; mâu thuẫn trong
nội bộ từng khối. Tuy nhiên, đó là những mâu thuẫn tất yếu trong quá trình phát


triển; nền kinh tế của các quốc gia ngày càng liên quan và phụ thuộc lẫn nhau,
biểu hiện sự thống nhất trong đa dạng
Xu hướng liên kết kinh tế trong khu vực ngày càng phát triển đã có tác dụng tích
cực tới sự tăng trưởng kinh tế của từng nước trong các nhóm nước và xu thế tồn
cầu hố đã tác động to lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, góp phần làm
thay đổi bộ mặt thế giới
Xu hướng nền kinh tế thế giới
Lạm phát và lãi suất vẫn ở mức cao
Lạm phát toàn cầu dự kiến giảm vào năm 2023 nhưng vẫn duy trì ở mức cao.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đốn lạm phát tồn cầu sẽ đạt 6,5% vào năm
2023, giảm từ mức 8,8% vào năm 2022. Lạm phát ở các nền kinh tế đang phát
triển sẽ thấp hơn, dự kiến chỉ ở mức 8,1% vào năm 2023.
Ông Alexander Tziamalis, giảng viên kinh tế cấp cao tại Đại học Sheffield
Hallam, nhận định: “Có khả năng lạm phát sẽ vẫn cao hơn mức 2% mà hầu hết
các ngân hàng trung ương phương Tây đã dự báo”.
Tăng trưởng chậm và nguy cơ suy thoái
Vào năm 2023, tốc độ tăng trưởng kinh tế chắc chắn sẽ chậm lại và lãi suất sẽ
tăng lên.
IMF ước tính rằng nền kinh tế tồn cầu sẽ chỉ tăng trưởng 2,7% vào năm 2023,
giảm từ mức 3,2% vào năm 2022. Trong khi đó, Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) đã dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu thấp hơn, ở mức
2,2% trong năm 2023, so với mức 3,1% vào năm 2022.


Nhiều nhà kinh tế bi quan hơn và tin rằng suy thối kinh tế tồn cầu có thể xảy ra
vào năm 2023, chỉ ba năm sau cuộc suy thoái do đại dịch COVID-19 gây ra.
Cơ hội hồi phục khi Trung Quốc tái mở cửa
Sau gần 3 năm phong tỏa, xét nghiệm hàng loạt và đóng cửa biên giới, Trung
Quốc đầu tháng này đã bắt đầu dỡ bỏ chính sách “khơng COVID” nghiêm ngặt.
Động thái tái mở cửa của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ tạo động lực mới cho

q trình phục hồi tồn cầu.
Q trình phục hồi nhu cầu của người tiêu dùng Trung Quốc sẽ tạo động lực cho
các nhà xuất khẩu lớn - như Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Singapore. Bên
cạnh đó, động thái gỡ bỏ các hạn chế phòng dịch cũng được coi là cơ hội phát
triển cho các thương hiệu toàn cầu - từ Apple đến Tesla - vốn đang bị gián đoạn
hoạt động do chiến lược “khơng COVID”.
Làn sóng phá sản tăng
Bất chấp nền kinh tế bị tàn phá do COVID-19, các vụ phá sản trên thực tế đã giảm

ở nhiều quốc gia vào năm 2020 và 2021 nhờ các thỏa thuận bên ngồi với các
chủ nợ và gói kích thích lớn của các chính phủ.
Chẳng hạn, tại Mỹ, 16.140 doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản vào năm 2021
và 22.391 doanh nghiệp đã có động thái tương tự vào năm 2020. Năm 2019, con
số này ở mức 22.910. Xu hướng này dự kiến sẽ đảo ngược vào năm 2023 trong
bối cảnh giá năng lượng và lãi suất tăng cao.
Cômg ty bảo hiểm Allianz Trade ước tính tỷ lệ phá sản trên toàn cầu sẽ tăng hơn
10% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023, vượt mức trước đại dịch.
Toàn cầu hố "chết dần"
Sau khi bùng nổ dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump, cuộc
chiến thương mại và công nghệ Mỹ - Trung đang ngày càng sâu sắc dưới thời
Tổng thống Mỹ Joe Biden.
Hồi tháng 8, ông Biden đã ký Đạo luật Khoa học và Chip nhằm ngăn chặn xuất
khẩu chip và các thiết bị sản xuất tiên tiến sang Trung Quốc. Động thái này nhằm
kìm hãm ngành bán dẫn Trung Quốc và thúc đẩy khả năng tự cung tự cấp trong
lĩnh vực sản xuất chip.
Bước đi là minh chứng mới nhất về xu hướng chuyển từ tự do thương mại và tự
do hóa kinh tế sang chủ nghĩa bảo hộ và khả năng tự cung tự cấp, đặc biệt là
trong các ngành quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia./.
Những cơ hội và thách thức của Việt Nam
Cơ hội



Đầu tiên, phải nói tới cơ hội do tính chất của thời đại, do bối cảnh tình hình quốc tế
ngày nay tạo ra. Đảng CSVN luôn xác định, để sự nghiệp cách mạng của Việt Nam
thắng lợi phải phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc và kết hợp với sức mạnh của
thời đại. Việt Nam là một nước kinh tế phát triển còn thấp, chưa qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa, nhưng Việt Nam có thể phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, có thể phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do tính chất của thời đại ngày
nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như nguyên lý mà C.Mác, đã nêu ra:
loài người chỉ đặt ra những vấn đề mà điều kiện, những yếu tố để giải quyết vấn đề đó
đã xuất hiện. Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới đã tạo ra
cơ hội để một đất nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa có thể phát
triển theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Ngày nay, trong thời đại tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung
của tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của
các nước đều có thể lưu thơng, ln chuyển trên quy mơ tồn cầu; phân cơng và
hợp tác sản xuất cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên quy mơ tồn cầu;
doanh nghiệp của một nước có thể tham gia vào chuỗi giá trị tồn cầu… Tồn
cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm
phát triển. Việt Nam, trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, thực hiện đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã sớm chủ trương hội
nhập quốc tế, bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước mở rộng ra các lĩnh
vực khác. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có quan
hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; tham
gia, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín, tồn cầu và khu vực
(Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ
quốc tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp định thương mại tự do song phương,
đa phương, trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội
nhập, Việt Nam đã mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ;

thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công
nghệ, để đạt được những thành tựu phát triển như những năm qua. Trong những
năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế quốc tế đã xây dựng được, những hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ có hiệu lực và những hiệp định sẽ
được ký kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp tục phát triển.
Những biến động phức tạp gần đây trên thế giới, trong quan hệ quốc tế, sự nổi lên của
chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân túy, chủ trương bảo hộ thị trường trong nước, cản trở
toàn cầu hóa ở một số nước lớn, nhất là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Quốc, đang và sẽ ảnh hưởng lớn tới lưu thơng hàng hóa, đầu tư quốc tế, tăng trưởng
kinh tế thế giới. Bối cảnh này có những ảnh hưởng nhất định tới Việt Nam, tạo ra
những khó khăn, thách thức cho Việt Nam; nhưng đồng thời, cũng tạo ra cơ hội cho
Việt Nam, khi Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ, vào thị trường
Trung Quốc thay thế cho hàng hóa của một số nước bị cản trở xuất khẩu vào những
thị trường này. Việt Nam có cơ hội thu hút các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi Trung
Quốc và thu hút cả các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam


sản xuất hàng hóa để xuất khẩu vào Mỹ, đi vòng, tránh thuế quan cao và hàng
rào thương mại của Mỹ với hàng hóa Trung Quốc.
- Thời đại ngày nay là thời đại cách mạng khoa học – công nghệ, trực tiếp hiện
nay là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất xã hội; trong đó, khoa học
– cơng nghệ, tri thức trở thành nguồn lực và động lực quan trọng nhất đối với sự
phát triển. Vai trò của các yếu tố sản xuất khác, như vốn, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên, trước đây từng là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các
quốc gia, giảm xuống. Với sự phát triển của hệ thống internet và các mạng thông
tin kết nối toàn cầu, tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và truyền bá tri
thức. Những điều này tạo ra cho Việt Nam, một nước luôn quan tâm tới phát
triển giáo dục, có nền giáo dục phát triển; có hệ thống hạ tầng cơng nghệ thơng
tin, tỷ lệ người sử dụng internet cao so với nhiều nước có thu nhập bình qn đầu

người như Việt Nam, cơ hội để có thể đi ngày vào hiện đại, phát triển theo hình
thức rút gọn, đi tắt đón đầu, phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách về
phát triển kinh tế với các nước tiên tiến trên thế giới.
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á, trở thành
khu vực phát triển năng động, có vai trị ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh
tế thế giới. Trong khu vực, có nhiều nền kinh tế lớn, có tiềm lực tài chính, khoa học –
cơng nghệ mạnh, phát triển năng động như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, có những thị trường lớn, các nguồn vốn đầu tư lớn. Là một nước nằm trong
khu vực phát triển năng động nay, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế,
cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho Việt Nam.
- Việt Nam là đất nước có sự ổn định chính trị - xã hội cao, con người thơng minh,
nhân hậu, mến khách, có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều danh lam thắng cảnh
nổi tiếng, nhiều bãi biển đẹp, nhiều di sản văn hóa - lịch sử có sức thu hút lớn, có
nhiều món ăn và nghệ thuật ẩm thực được bạn bè quốc tế yêu thích. Sau nhiều năm
phát triển, đã xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, sân bay, cảng biển,
đường cao tốc, hệ thống điện, nước, công nghệ thông tin, viễn thông khá đồng bộ,
hiện đại, kết nối quốc tế. Nền kinh tế của Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường
đã có nhiều yếu tố của kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập ngày càng phù hợp với các
thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách các thủ tục hành chính được đẩy mạnh, các
quy định về điều kiện kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh có điều kiện được thu hẹp,
ngày càng công khai, minh bạch; mơi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện,
thơng thống, được nâng bậc theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế có uy tín. Nền
kinh tế năng động, đạt được tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức cao hàng đầu các
quốc gia trên thế giới; dân số Việt Nam đông, gần 100 triệu người với mức thu nhập
ngày càng được cải thiện, đang ở giai đoạn dân số vàng, là thị trường và địa chỉ đầu tư
hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam
đang được cơ cấu lại, đổi mới mơ hình tăng trưởng để phát triển nhanh, bền vững trên
nền tảng khoa học - công nghệ và nguồn nhân



lực chất lượng cao… Những điều này tạo ra cơ hội lớn cho kinh tế Việt Nam
phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới.
Thách thức
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam khơng chỉ có cơ hội,
mà cịn có khơng ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là
nhiều thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu
tố tạo ra cơ hội cho phát triển kinh tế đất nước.
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản phẩm
hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các doanh
nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngồi khơng chỉ ở thị trường nước ngoài mà
ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp Việt Nam
phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ cơng nghệ thấp, năng lực tài chính hạn
chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, công nghệ cao, tiềm lực tài chính
hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh nghiệp
Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở những
cơng đoạn có trình độ cơng nghệ thấp, gia công, lắp ráp.

Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực
tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngoài, từ những biến động
trên thị trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất
là những đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa,
tài chính, đầu tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất
nhanh của các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác
động với nền kinh tế đất nước sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam khơng chủ động
có biện pháp ứng phó và nếu nội lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh
nghiệp Việt Nam còn đối mặt với những thách thức từ những cuộc tấn công
mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp công
nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự chủ
của đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu vào

cho hoạt động của nền kinh tế (vốn, cơng nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu)
là nhập khẩu từ nước ngồi và thị trường bên ngồi có vai trị rất lớn, rất quan trọng
đối với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng hóa
nước ngồi nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa trên
thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách thức
nếu hàng hóa nước ngồi chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi thị
trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước ngồi (vay chính
phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái phiếu quốc
tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngồi cũng càng có khả năng, điều kiện tăng
nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả. Các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế đất nước, tạo việc
làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu ngoại tệ cho
đất nước, nhưng có thể trở thành thách


thức lớn nếu quản lý thiếu chặt chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành
bãi thải công nghệ lạc hậu cho các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước ngồi lợi
dụng các chính sách ưu đãi, khai thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước,
khi hết thời hạn ưu đãi, không cịn có thể khai thác tài ngun và tận dụng lao động rẻ,
họ sẽ bỏ đi, để lại nhiều gánh nặng mà đất nước phải giải quyết…
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho kinh
tế Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mà
cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua những
thách thức này mới nắm bắt được cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách thức
rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi, phát triển cơng nghệ diễn ra nhanh chóng
trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt Nam là một thách thức lớn.
Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực, các
mơ hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý
tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách

mạng công nghiệp lần thứ tư cịn chưa hình thành; việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng… đáp
ứng đòi hỏi phát triển kinh tế đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, dễ dàng.

Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - cơng nghệ rất cao, rất
mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác
động rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ
hội, đòi hỏi phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, địi hỏi đất
nước cũng phải có trình độ phát triển cao về khoa học - công nghệ, có nguồn
nhân lực chất lượng cao, từ cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ,
thiết kế sản phẩm đến những người trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi
tâm lý, nếp sống của các tầng lớp xã hội, thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống
chính quyền các cấp, các ngành; đây khơng phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là
những thách thức. Không vượt qua được những thách thức nhỏ, cụ thể này thì
thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn, so với các nước khác
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát
triển năng động, nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng
mạnh mẽ, kìm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc.
Đặc biệt là tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức
căng thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo
của đất nước, đồng thời phải giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển
kinh tế đất nước là thách thức lớn đối với Việt Nam.
- Kinh tế Việt Nam phát triển chưa ổn định, bền vững. Nợ công, thâm hụt ngân sách
nhà nước cao, kéo dài. Doanh nghiệp trong nước 95-96% là doanh nghiệp nhỏ, trình
độ cơng nghệ thấp. Nền kinh tế cơ bản còn phát triển theo chiều rộng, dựa vào vốn
đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động phổ thông, chuyển dịch sang phát triển theo
chiều sâu dựa trên khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực chất



lượng cao còn chậm. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh kinh tế
thấp, chuyển biến chậm.
Hiện nay, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng, nhưng theo dự báo, thời kỳ dân số
vàng của Việt Nam sẽ kết thúc sớm hơn so với một số nước, dân số già nhanh. Kinh
nghiệm các nước cho thấy, các nước cất cánh được trở thành nước phát triển, vượt qua
bẫy thu nhập trung bình đều diễn ra trong thời kỳ dân số vàng. Nếu kinh tế Việt Nam
không cất cánh được trong thời kỳ dân số vàng, Việt Nam sẽ khó thốt khỏi bẫy thu
nhập trung bình, chưa giàu đã già. Đây là một thách thức lớn.

Đời sống nhân dân được cải thiện, nhưng khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã
hội có xu hướng mở rộng khơng chỉ ảnh hưởng tới ổn định xã hội mà còn ảnh
hưởng tới sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vào phát triển kinh tế. Tình trạng ơ
nhiễm mơi trường được quan tâm ngăn ngừa, xử lý, nhưng chưa ngăn chặn được,
vẫn có xu hướng tăng lên, nguồn lực, chi phí cho bảo vệ môi trường cũng ngày
càng tăng lên. Kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, điều
kiện sống được cải thiện, nhưng mơi trường văn hóa, đạo đức xã hội bị suy thối,
xuống cấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí, nhũng nhiễu của một bộ phận cán
bộ, công chức làm ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, làm giảm hiệu quả sử
dụng các nguồn lực và hoạt động của các doanh nghiệp. Tất cả những điều này
đều ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế, là những thách thức phải vượt qua.
- Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới sẽ chịu ảnh hưởng nặng
nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu (theo đánh giá của các tổ chức quốc tế). Hiện
nay, biến đổi khí hậu tồn cầu đang diễn ra nhanh, tình trạng nước biển xâm nhập sâu
vào các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long; sạt lở đê biển, sói lở bờ biển xảy ra ở
nhiều vùng; thiên tai, bão lũ cường độ lớn xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá lớn hơn.
Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Việt Nam tăng lên, tình trạng hạn hán, thiếu nước khá
nghiêm trọng đã xảy ra ở nhiều vùng. Đầu tư cho phịng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu ngày càng cao. Đây là những thách thức rất lớn đối với phát triển
kinh tế Việt Nam trong những năm tới.
Trên đây là những cơ hội và thách thức lớn đối với phát triển kinh tế của Việt Nam

trong những năm tới. Xác định cơ hội và thách thức là cơ sở để Đảng, Nhà nước, nhân
dân Việt Nam quyết tâm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Việt Nam thành một nước phát triển, có thu
nhập cao, “dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Câu 2
Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của các thế hệ


tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững bao gồm 4 nội dung chính: tăng trưởng kinh tế; bảo đảm
công bằng xã hội; bảo vệ môi trường và tôn trọng các quyền con người. Khái
niệm phát triển bền vững được xây dựng trên một nguyên tắc chung của sự tiến
bộ loài người - nguyên tắc bảo đảm sự bình đẳng giữa các thế hệ.

Phát triển bền vững thể hiện quan điểm nhân văn, hiện đại hơn hẳn so với
quan điểm "phát triển bằng bất kì giá nào", bởi phát triển bằng mọi giá, là
khai thác tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho hoạt
động phát triển, khơng tính đến sự ảnh hưởng của nó đến chính q trình
phát triển.
Như vậy, phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa
ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày
càng được cụ thể và rõ nét.
Phát triển bền vững, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình
phát triển. Là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển: kinh tế
tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hố đa

dạng và mơi trường được trong lành, tài ngun được duy trì bền vững.
Phát triển bền vững là niềm hi vọng của nhân loại vì:
Phát triển bền vững được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, mục tiêu trong
toàn bộ các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hòa, ổn định, bền
vững, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, mang lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho người dân Việt Nam nói riêng và tồn nhân loại nói chung
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con
người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia trên thế
giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của tồn thể lồi

người
Liên hệ
a)

Về kinh tế
Cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng
trưởng xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện
sản xuất và tiêu dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển
nông nghiệp, nông thôn bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa
phương.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nơng thơn theo hướng cơng nghiệp hóa,
phát huy thế mạnh của từng vùng; phát triển sản xuất hàng hóa có chất


lượng và hiệu quả; gắn sản xuất với thị trường trong nước và thị trường
quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên
Nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc
biệt là các chính sách tài chính, tiền tệ. Chuyển đổi mơ hình tăng trưởng

chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều
sâu trên cơ sở khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất lao động và
nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ.
b)

Về xã hội
Ổn định quy mô, cải thiện và nâng cao chất lượng dân số; phát triển văn hố hài
hồ với phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển gia đình Việt Nam; xây dựng
nơng thơn mới, phân bố hợp lý dân cư và lao động theo vùng; nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp thích hợp
với u cầu của sự phát triển đất nước, vùng và địa phương…

c)

Về tài nguyên môi trường
Nhà nước tăng cường các biện pháp nhằm chống thoái hoá, sử dụng hiệu quả và
bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài
nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên
khoáng sản; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên
biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn



các đô thị lớn và khu cơng nghiệp…

Câu 3
Nguồn lực là tồn bộ tài sản, tài nguyên, sức mạnh vốn có sẵn sàng đưa vào sử
dụng hoặc dự trữ để phục vụ cho sản xuất và đời sống con người. Đối với một
quốc gia, một địa phương, hoặc một doanh nghiệp, nguồn lực được hiểu là toàn

bộ tài nguyên thiên nhiên, tài sản quốc gia, vị trí địa lý, quy mơ thị trường, vốn,
trình độ khoa học - cơng nghệ, sức mạnh văn hóa, con người, thể chế chính trị...
tạo lợi thế, sức cạnh tranh của quốc gia, của địa phương, của doanh nghiệp trong
quản lý và phát triển.
Có những loại nguồn lực do thiên nhiên ban tặng, thường gọi là nguồn lực tự nhiên,
như điều kiện địa lý, tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn nước, năng lượng mặt trời,
năng lượng gió và các loại tài nguyên sinh vật và phi sinh vật khác trên mặt đất, trong
lịng đất, dưới đại dương..., đóng vai trò là những yếu tố đầu vào cực kỳ quan trọng
cho sản xuất. Nguồn lực phi tự nhiên là các loại nguồn lực chủ yếu được


tạo ra bởi chính bàn tay, khối óc của con người, như thể chế quản lý, nhân lực,
vốn, giá trị văn hóa, khát vọng phát triển, tư duy lãnh đạo, sở hữu trí tuệ,...
Phân biệt nguồn lực tự nhiên và phi tự nhiên nêu trên chỉ là tương đối, vì trong
các yếu tố phi tự nhiên nhiều khi lại chứa đựng tính tự nhiên; ngược lại, trong
các nguồn lực tự nhiên cũng ln có dấu ấn của con người. Chẳng hạn, yếu tố vị
trí địa lý là nguồn lực tự nhiên, nhưng định hình vị trí địa lý trong lịch sử gắn
liền với q trình dịch chuyển lãnh thổ ln thể hiện ý chí, sức mạnh chính trị
của các nhà nước, quốc gia - dân tộc; hoặc nhân lực là nguồn lực phi tự nhiên
cấu tạo nên những con người với phẩm chất, năng lực khác nhau luôn chứa đựng
trong đó các yếu tố tự nhiên bẩm sinh; hoặc kinh tế tuần hoàn đang làm thay đổi
quan niệm về nguồn lực khi nhiều thứ trước đây được xem là phế thải thì ngày
nay, lại trở thành nguồn lực đầu vào cho các ngành sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, con người, thể chế và khoa học - cơng nghệ có vai trò
quan trọng hàng đầu của nguồn lực phát triển. Bởi lẽ, các nguồn lực tự nhiên
đang ngày càng cạn kiệt, khan hiếm, các nguồn lực con người gắn với khoa học cơng nghệ, đóng vai trị to lớn đối với sự phát triển, sức cạnh tranh và thực hiện
tự chủ chiến lược của mỗi quốc gia. Bản thân các nguồn lực tự nhiên, như vị trí
địa lý, đất đai, nước, khoáng sản,... sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững hay
không đều tùy thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực, thể chế và ứng dụng khoa
học - công nghệ; các nguồn lực vốn, lao động sử dụng như thế nào đều do thể

chế và con người quyết định. Nhiều nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật
trong tự nhiên chỉ trở thành nguồn lực đóng góp cho sản xuất và đời sống khi có
sự tham gia của khoa học - cơng nghệ, nhờ đó, tạo ra những năng lượng mới,
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (như năng lượng mặt trời, năng lượng gió,
năng lượng hydro, năng lượng sóng biển, năng lượng sinh khối) hay vật liệu mới.
Kể cả kinh tế tuần hoàn cũng chỉ phát huy tác dụng khi có sự phát triển tương
xứng của khoa học - công nghệ. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều quốc gia
nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng tạo được bứt phá phát triển, đều nhờ vào
các nguồn lực phi tự nhiên, trước hết là chất lượng con người, chất lượng thể chế
và trình độ, khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - cơng nghệ, cịn các quốc gia
thất bại thường rơi vào “lời nguyền tài nguyên”.
Vì vậy, cơ chế bảo đảm cho nguồn lực hữu hình từ tiềm năng biến thành động năng,
rồi chuyển hóa thành các yếu tố đầu vào cho phát triển, chính là thơng qua con người,
thể chế, khoa học - công nghệ. Thông qua đó, nhân lực, thể chế, khoa học - cơng nghệ
khơng chỉ hiện diện với tư cách chuyển tải các nguồn lực vật chất khác, mà bản thân
nó cũng trở thành nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển. Vì vậy, đột phá vào thể
chế phát triển, vào nguồn nhân lực và khoa học - công nghệ luôn phải được xem là đột
phá chiến lược. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các quốc
gia về tốc độ và chất lượng phát triển thì cạnh tranh


nhân tài và cạnh tranh khoa học - công nghệ đang nổi lên trở thành tâm điểm của
cạnh tranh chiến lược.
Động lực là động cơ thúc đẩy, dẫn dắt một cá nhân hay một tổ chức theo một
mục tiêu nào đó, có ý nghĩa kích thích nhu cầu, hướng dẫn hành vi một cách tích
cực nhất, nhờ đó mà con người được giải phóng năng lực thể chất và năng lượng
tinh thần để tạo nên các đột biến năng suất lao động và đổi mới sáng tạo. Động
lực hữu hình thường đồng nhất với các cơ chế kích thích, thỏa mãn các lợi ích
vật chất - kinh tế của con người; cịn động lực vơ hình là các cơ chế kích thích
giá trị tinh thần. Động lực chỉ phát huy tác dụng khi đối tượng được kích thích

thay đổi hẳn ý thức, trách nhiệm, hành vi đối với công việc thực hiện, như hứng
thú với công việc, làm việc năng suất hơn, đam mê với sự nghiệp, dấn thân cho
lý tưởng, thường xun tìm tịi phương thức cải tiến kỹ thuật,... Đó là xét động
lực với mỗi cá nhân, cịn động lực cho một tập thể, một cộng đồng dân tộc có khi
được hình thành từ những phong trào thi đua được kích hoạt bởi một biểu tượng
được ảnh hưởng lan truyền từ cá nhân ra tập thể, từ nhóm ra cộng đồng, từ cộng
đồng nhỏ ra cộng đồng lớn.
Các hình thức kích thích lợi ích vật chất - kinh tế, như tăng lương, thưởng hiện
vật, phân phối theo kết quả lao động, theo vốn đóng góp, theo hiệu quả kinh tế,...
tạo động lực có hiệu ứng tức thì cho phát triển. Trong những năm đầu đổi mới,
chỉ bằng cách áp dụng một số kích thích lợi ích vật chất đã tạo ra động lực mạnh
mẽ giải phóng sức sản xuất, như khốn trong các xí nghiệp quốc doanh, phân
phối theo kết quả lao động, giao quyền tự chủ cho hộ gia đình sản xuất nơng
nghiệp. Nhưng sau hơn 35 năm đổi mới, nhiều chính sách đã gặp giới hạn, khơng
cịn tạo động lực cho phát triển, cần phải tiếp tục đổi mới, nhất là chính sách tiền
lương, chính sách phân bổ nguồn lực. Động lực vật chất - kinh tế cũng chỉ phát
huy trong thời gian nhất định, khi người lao động nhận thấy muốn giành được lợi
ích nhất định thì phải nỗ lực phấn đấu. Cịn khi người lao động cảm thấy việc
hưởng các lợi ích vật chất - kinh tế như là sự đương nhiên, giảm sút ý chí nỗ lực
vươn lên, thì ý nghĩa động lực khơng cịn. Điều đó cho thấy, động lực vật chất kinh tế phải được kết nối, liên thông, phối hợp đồng bộ với động lực tinh thần thì
mới tạo được hệ động lực cho phát triển.
Các hình thức kích thích năng lượng tinh thần của con người lại gần như khơng có
giới hạn, như phát huy tinh thần dân tộc, lương tâm nghề nghiệp, nhu cầu khẳng định
mình, khát vọng cống hiến, định hướng giá trị, sử dụng hiệu ứng lan tỏa để cổ vũ,
động viên, khích lệ,... thơng qua giáo dục, tuyên truyền, vận động, thi đua - khen
thưởng. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, chính tinh thần yêu nước
- động lực tinh thần đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp chúng ta chuyển hóa thành sức
mạnh vật chất để chiến thắng các thế lực đế quốc, thực dân. Hệ động lực tinh thần lúc
đó được khơi dậy thơng qua nhiều cơ chế, như hình thành phong trào yêu nước



sâu rộng; Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo tiền bối trở thành biểu tượng
truyền cảm hứng, khát vọng cho tồn dân tộc; lựa chọn, tơn vinh các nhân tố anh hùng
xả thân vì nước tiêu biểu tạo ra hiệu ứng lan tỏa sâu rộng, lấy giá trị cao nhất là giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Hệ động lực trong thời kỳ mới, bên cạnh những
cách làm truyền thống, cần chú ý đến nhu cầu khẳng định cá nhân con người trên từng
lĩnh vực, ngành, nghề; lương tâm nghề nghiệp, khát vọng cống hiến dựa trên tôn
trọng, phát huy năng khiếu, sở trường từng cá nhân; tuyên truyền, cổ vũ, tạo nên các
phong trào thi đua - yêu nước kích hoạt trúng các giá trị của con người Việt Nam để
nhân lên sức mạnh gấp bội; xây dựng biểu tượng, nhân tố mới có sức ảnh hưởng lan
tỏa trong từng ngành, nghề, giới, lớp tuổi, thế hệ. Tuy nhiên, động lực tinh thần nếu
không đi kèm với động lực vật chất - kinh tế dễ dẫn tới duy ý chí, khó duy trì lâu bền
các tính năng của động lực, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. Vì vậy, phối
hợp linh hoạt giữa phát huy các động lực vật chất - kinh tế mà bản chất là kích thích
lợi ích vật chất, với phát huy các động lực văn hóa - tinh thần mà bản chất là định
hướng giá trị sống, lao động, cống hiến - đây là yêu cầu đặt ra khi xây dựng hệ động
lực cho phát triển.

Một vài giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực
Thứ nhất: Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu. Theo đó, hồn thiện thể
chế, xây dựng cơ chế chính sách và quy định liên quan đến quản trị dữ
liệu; chính sách thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và
tạo lập dữ liệu và đóng góp vào hạ tầng dữ liệu quốc gia; quản lý dữ liệu
xuyên quốc gia; bổ sung các quy định về bảo mật dữ liệu, an ninh mạng,
giao dịch điện tử và pháp luật về thương mại điện tử và thuế. Bên cạnh
việc triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia, cần đồng thời rà sốt, sửa đổi,
ban hành mới quy định, chính sách về tài sản dữ liệu, mua, bán, chuyển
nhượng dữ liệu, cung cấp dịch vụ dữ liệu,.... để tạo thị trường dữ liệu phát
triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp luật. Rà sốt, sửa đổi quy định,
chính sách về tài chính, phí, lệ phí để cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu

cho doanh nghiệp, tạo nguồn thu hợp pháp để duy trì, phát triển dữ liệu và
có cơ chế thu mua dữ liệu từ doanh nghiệp.
Thứ hai, khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh
tế. Cụ thể, sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Khai thác
dữ liệu để nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc; cắt giảm các hoạt động
thủ công, giấy tờ thay bằng các hệ thống thông tin, xử lý trên dữ liệu số.
Thực hiện chỉ đạo điều hành trên dữ liệu, quyết định chỉ đạo phải có thuyết
minh lấy dữ liệu làm cơ sở lựa chọn phương án. Tăng cường sử dụng các
công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong hoạt động quản trị nhà nước,
hỗ trợ ra quyết định….
Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu và các doanh nghiệp dữ liệu. Trong
đó hình thành những doanh nghiệp chuyên về dữ liệu thuộc các nhóm,


lĩnh vực: tư vấn chiến lược quản trị dữ liệu; cung cấp nội dung số; cung
cấp nền tảng, dịch vụ quản trị dữ liệu. Ưu tiên thúc đẩy các ngành nghề
mới về dữ liệu mới theo nhu cầu phát triển. Xây dựng dữ liệu vườn ươm
doanh nghiệp….
Thứ tư, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực.
Tăng cường hợp tác quốc tế về dữ liệu. Trước mắt là hợp tác với các nước
ASEAN triển khai sáng kiến quản trị dữ liệu xuyên biên giới để thúc đẩy
dịng chảy dữ liệu giữa các nước an tồn và phù hợp với quy định pháp
luật của từng nước. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực số, phát triển nhân lực về dữ liệu, phát triển đội ngũ
khoa học về dữ liệu trong các lĩnh vực.

Câu 4
Con người là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội vì:
Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh 1991 (Đại hội VII), Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán

coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển (12). Theo
đó, mục tiêu phát triển con người được cụ thể hóa hơn nữa ở việc chú

ý tới quyền con người. Phải đảm bảo quyền con người, quyền cơng dân để mọi
người được phát triển tồn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ
mọi khả năng sáng tạo và đảm bảo đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực để
phát triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện
công bằng xã hội.
Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 một lần nữa chỉ ra 9 giải pháp để
hiện thực hóa quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong phát triển của
xã hội, cũng có nghĩa là con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là
chủ thể của phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và
phát huy đầy đủ vai trị của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các
đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu
lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khoẻ, lao
động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia
đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường
trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học
tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện tác phong làm việc có kỷ luật, năng suất
và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng


chí, đồng đội, hình thành nhân cách con ngươic và nền văn hóa Việt Nam (13).
Như vậy, trong Cương lĩnh 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoài việc kế
thừa những quan điểm từ các Cương lĩnh và quan điểm của các Đại hội trước đó,

Đại hội XI nhận thức sâu sắc hơn khi cho rằng con quyền con người trong phát
triển kinh tế gắn bó với lợi ích của đất nước, việc phát triển kinh tế phải trở thành
môi trường để hình thành và bồi đắp các giá trị con người Việt Nam.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa Cương lĩnh phát
triển đất nước 2011, xét riêng về quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực trong phát triển kinh tế, Đại hội XII làm rõ hơn nữa nội dung về nhận
thức về con người trong phát triển: Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của
phát triển bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc; giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; bảo đảm hài
hịa về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm thích đáng tới các tầng lớp, bộ phận
yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu.
Về nhiệm vụ, Đại hội XII khẳng định, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo mơi trường để hồn thiện nhân cách, đạo đức, trí tuệ,
năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp
luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân
tộc. Khẳng định, tơn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các
giá trị cao thượng, nhân văn. Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn,
lạc hậu, chống các quan điểm hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng

xấu làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã
hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam (14).
Nhấn mạnh thêm về con người là động lực của sự phát triển, Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định con người và
nền văn hóa Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng và tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi
nhất để khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát
triển, tài năng, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực

phát triển quan trọng nhất của đất nước. Đi đôi với đường lối tiếp tục đổi mới phát
triển kinh tế, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam. Trong đó, Đại hội nêu bật chủ trương: Tập trung nghiên
cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi
đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc,


truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự
xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và
phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đẩy
mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ
môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng
con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống
và giá trị hiện đại. Có cơ chế, chính sách, giải pháp để xây dựng mơi trường văn hóa
thật sự trong sạch, lành mạnh, cải thiện điều kiện thụ hưởng văn hóa của nhân dân.
Phát huy ý thức tự giác của toàn dân xây dựng và thực hiện các chế tài, quy định, quy
ước xã hội, bảo đảm công bằng về cơ hội và thụ hưởng văn hóa. Khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã
hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, các
khu công nghiệp... Đề cao vai trị của gia đình trong ni dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ.
Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tơn giáo, tín ngưỡng. Phê phán và
ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Xây dựng và thực hiện các chuẩn
mực văn hóa trong lãnh đạo quản lý. Chú trọng xây dựng mơi trường văn hóa cơng sở
lành mạnh, dân chủ, đồn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết,
chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh
doanh(15).


Cụ thể hóa tinh thần đó, Chiến lược phát triển đất nước 10 năm 2021-2030 khẳng
định nội dung về phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển Việt
Nam là: Xây dựng con người Việt Nam phat triển toàn diện, có sức khỏe, trình
độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế.
Như vậy, kể từ Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, đến Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam hiện nay, sau hơn 90 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và phát
triển đất nước, từ chỗ quan niệm về nhân tố con người còn sơ khai, khái quát, đến nay
tư duy và nhận thức về nhân tố nhân dân, con người trong mục tiêu lãnh đạo cách
mạng và phát triển đất nước của Đảng ngày càng trở nên hồn thiện. Trong mơ hình
phát triển của Việt Nam, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là trung tâm, là
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vị
trí của nhân tố con người trở thành trung tâm của sự phát triển kinh tế nói riêng và q
trình phát triển tồn diện nói chung. Đó là sự nhất qn xuyên suốt trong tiến trình
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực của nước ta
trong giai đoạn hiện nay.


Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao
năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển
nguồn nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, cơng cụ phát triển và
quản lý nguồn nhân lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc,
chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và
các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận
nhân lực chất lượng cao, nhân tài.

Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách
Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng
kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện
các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện cơng bằng
xã hội. Đẩy mạnh xã hội hố để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát
triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: (i)
Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục
thể thao; (ii) Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động,
phát huy vai trị, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực; (iii)
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát
triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ
trợ phát triển nhân lực (ODA); (iv) Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước
ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào
tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ
yếu, là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ
nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong q trình
đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (i) Hoàn thiện hệ
thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; (ii) Mở rộng giáo
dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng
ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và
đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường
đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước; (iii) Đổi mới mạnh mẽ nội dung,
chương trình, sách giáo khoa phổ thơng, khung chương trình đào tạo ở bậc đại
học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo
hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian
thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại
ngữ; (iv) Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực

hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục
tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ


thơng tin; (v) Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục; nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ
vào giáo dục và đào tạo; (vi) Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Chú
trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát
triển kinh tế tri thức.
Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh
doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực
chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là: (i) Xây dựng,
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với
trình độ phát triển của Việt Nam nhưng khơng trái với thông lệ và luật pháp
quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện; (ii)
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng lộ
trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để đạt được
khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt
Nam; (iii) Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh
giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục
và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công
nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới; (iv) Tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh
nghiệm của nước ngồi, người Việt Nam ở nước ngồi tham gia vào q trình
đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo
dục đại học Việt Nam; (v) Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách
nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút
các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.




×