Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận cao học, chinh sách cong quy trình hoạch định chính sách đối ngoại của việt nam với asean đã xong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.03 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: KHOA HỌC CHÍNH SÁCH CƠNG
Đề tài:
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC ASEAN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1 CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI ASEAN..........................................................2
1.1. Cơ sở hoạch định.....................................................................................2
1.2 Nội dung chính sách đối ngoại Việt Nam ASEAN.....................................3
1.3. Các tiêu chí đánh giá chính sách..............................................................6
Chương 2 CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ
NƯỚC CỤ THỂ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM..........................................12
2.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Campuchia:..............................12
2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào:..........................................15
2.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Thái Lan...................................20
2.4. Bài học kinh nghiệm................................................................................23
KẾT LUẬN....................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................27


MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động, trong đó có hoạt động đối ngoại của Việt Nam.
Quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng ngày càng được hoàn
thiện. Từ chỗ coi thế giới là một vũ đài đấu tranh, Việt Nam đã khẳng định đó là
mơi trường tồn tại và phát triển của mình. Việt Nam đã từng bước hồn thiện


đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển;
thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao.
Sự phát triển chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN vừa góp
phần tạo cơ sở, vừa là thành quả của quá trình đổi mới đường lối đối ngoại
của Đảng. Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, có thể thấy bước phát triển từ chủ
trương "không ngừng phấn đấu nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị và hợp
tác với Inđônêxia và các nước Đông Nam Á khác... mong muốn và sẵn sàng
cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông
Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hồ bình, xây dựng Đơng Nam Á thành
khu vực hồ bình, ổn định và hợp tác" (1986); tới “ra sức tăng cường quan hệ
với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN” (1996) đến “chủ
động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng
vững mạnh” (2016) là bước tiến dài và sự phát triển đột phá trong chính sách
của Việt Nam với ASEAN. Việt Nam đã vượt qua những nghi kỵ và đối đầu
với các nước thành viên ASEAN để trở thành một thành viên "chủ động, tích
cực, có trách nhiệm" trong Cộng đồng ASEAN. Đó là kết quả của quá trình
điều chỉnh, phát triển tư duy, hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại
hơn 30 năm qua. ASEAN đã trở thành nhân tố quan trọng giúp tạo thế và lực
cho Việt Nam. Trong quá trình học tập, với mong muốn tìm hiểu thêm một
cách cụ thể về những chính sách đó nên em đã chọn vấn đề “Cơ sở hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam với một số nước
ASEAN” để làm đề tài nghiên cứu mơn Khoa học Chính sách công.
1


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH VÀ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA VIỆT NAM VỚI ASEAN

1.1. Cơ sở hoạch định.
Ngày 8/8/1967, tại Bangkok, Bộ trưởng Ngoại giao các nước
Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia đã
ký Tuyên bố thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) với năm
thành viên. Mục đích cơng khai được các nước thành viên sáng lập của
ASEAN nêu trong Tuyên bố Bangkok là nhằm “đẩy nhanh tăng trưởng kinh
tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hố…thúc đẩy hồ bình, ổn định ở khu
vực…hợp tác lẫn nhau trên các vấn đề chung như kinh tế, xã hội…hợp tác với
các tổ chức quốc tế và khu vực có cùng mục đích…”. Tun bố Bangkok
khơng đề cập trực tiếp mục tiêu hợp tác an ninh, song những người sáng lập
ASEAN đã chỉ rõ rằng các vấn đề an ninh có ý nghĩa quan trọng với mục đích
ngầm hiểu khi thành lập ASEAN là để đối trọng lại với chủ nghĩa cộng sản
trong khu vực. ASEAN cũng được coi là biện pháp giữ ổn định khu vực,
tránh sự can thiệp của các nước lớn và thúc đẩy phát triển kinh tế. Sau khi
Chiến tranh Lạnh kết thúc, ASEAN dần trở thành một tổ chức hợp tác tồn
diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa.
Đối với Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, chính sách đối ngoại đứng
trước tình hình thế giới và khu vực những thập niên cuối của thế kỉ XX có
những chuyển động lớn, mang tính chất bước ngoặt làm thay đổi cơ bản cục
diện chính trị, kinh tế toàn cầu. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược mạnh mẽ,
đẩy mạnh hồ hỗn và cải thiện quan hệ. Từ cuối năm 1989, Liên Xô và Mỹ
chấm dứt chiến tranh lạnh. Liên Xơ bình thường hố quan hệ hoàn toàn với
Trung Quốc, muốn xung đột trong khu vực Đông Nam Á được giải quyết
thông qua đối thoại, không can thiệp vào các vấn đề trong quan hệ Việt 2


Trung. Trong cuộc đụng độ trên biển tại quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam
và Trung Quốc năm 1988, Việt Nam đã bất ngờ vì Liên Xơ khơng có động
thái hỗ trợ đáng kể nào mà còn cân bằng thái độ với cả hai bên. Liên Xô cũng
gây áp lực để Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và bình thường hóa quan hệ

với Trung Quốc.
Những thay đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình và quan hệ quốc tế
đã đặt Việt Nam trước yêu cầu cấp thiết phải thay đổi quan điểm, chủ trương,
chính sách đối ngoại để thích ứng với tình hình mới. Tình hình khủng hoảng
nghiêm trọng trong nước cũng địi hỏi phải có tư duy và chính sách đối ngoại
phù hợp.
1.2 Nội dung chính sách đối ngoại Việt Nam ASEAN
Chính sách với ASEAN nằm trong chủ trương thay đổi định hướng
quốc tế, xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế nhằm giải tỏa bao vây, cấm vận, phá thế bị cô
lập. Việt Nam xác định cần chủ động tranh thủ thêm bạn, giảm bớt kẻ thù, mở
rộng hợp tác để nhanh chóng thốt khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, từng
bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Yêu cầu đổi mới tư duy và
chiến lược đối ngoại trong quan hệ với các nước láng giềng và khu vực cũng
trở nên cấp bách khi Việt Nam có vị thế địa chính trị quan trọng và là địa bàn
tranh chấp ảnh hưởng giữa các cường quốc. Nằm ở trung tâm khu vực
ASEAN, tiếp giáp với Trung Quốc, Việt Nam luôn phải đề phòng tham vọng
mở rộng ảnh hưởng của cường quốc đang trỗi dậy này xuống phía Nam. Sức
ép với Việt Nam trong ứng xử với cường quốc này là phải dựa vào thực lực
và xây dựng đồng minh, đặc biệt sau những căng thẳng, xung đột ở biên giới
trên bộ và trên Biển Đông. Là một nước đang phát triển, tiềm năng quân sự
không lớn, Việt Nam không thể chỉ dựa vào sức mạnh quân sự để bảo vệ
mình. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam cũng không có các liên minh chiến
lược với các cường quốc khác như liên minh của Nhật Bản, Philippines với
Mỹ. Vì vậy, chiến lược hợp lý cho Việt Nam là tích cực, chủ động và sáng tạo
3


trong chính sách đối ngoại, dựa trên quan điểm độc lập, tự chủ và cân bằng
cũng như sử dụng các cơ chế đa phương, thể chế khu vực và quốc tế. Chính vì

vậy, Việt Nam đã từng bước điều chỉnh định hướng quốc tế, hướng đến các
nước láng giềng, khu vực và ASEAN. Bước ngoặt trong chính sách đối ngoại
của Việt Nam nói chung và với ASEAN nói riêng là chủ trương điều chỉnh
chính sách đối ngoại trong Nghị quyết 32 (khóa V) của Bộ Chính trị tháng
7/1986. Nghị quyết đánh dấu sự thay đổi quan điểm của Đảng về chính sách
đối ngoại trong giai đoạn sau chiến tranh. Nghị quyết chủ trương chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong cùng tồn tại hịa bình, phù hợp với tình
hình thế giới và xu thế trong quan hệ quốc tế. Tư duy mới về đối ngoại của
Việt Nam xác định vị trí quan trọng trực tiếp của Đơng Nam Á trong toàn bộ
đường lối đổi mới và chủ trương hịa bình, phát triển của mình. Tư duy này
cũng xác định các nước ASEAN có thể giúp Việt Nam mở đột phá khẩu ra thế
giới, hỗ trợ tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, bối cảnh quốc tế
có sự thay đổi lớn do sự sụp đổ mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và Đơng
Âu, sự tan rã của Đảng Cộng Sản Liên Xô, thế giới chuyển dần sang xu thế
một cực và nhiều trung tâm do Mỹ khống chế. Nắm được lợi thế là một siêu
cường kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ , Mỹ đang toan tính thực thi
chiến lược “ răn đe, vượt trên ngăn chặn”, chống lại các lực lượng dân chủ và
tiến bộ gây ra tình hình mất ổn định ở nhiều nơi. Tuy nhiên, xu thế chung của
thế giới thời kì này là hịa bình, ổn định và phát triển. Đối với nước ta, để tồn
tại, phát triển và đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, đòi hỏi phải hết sức tỉnh táo để có
thể đưa ra những chính sách đúng đắn và kịp thời. Trong xu thế mới của tình
hình quốc tế, năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á - ASEAN.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cùng một lúc đã giải quyết được
nhiều vấn đề còn tồn tại trong nước ta. Đó là giải quyết hịa bình vấn đề
Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nối lại quan hệ với các
4



tổ chức tài chính quốc tế, ký Hiệp định khung với với Liên minh châu Âu,
bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, củng cố và mở rộng quan hệ với
các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc và các nước đang
phát triển ở châu á, Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh và các nước cơng
nghiệp phát triển trên thế giới... , góp phần phá thế bị bao vây, cơ lập, tạo ra
mơi trường hịa bình, ổn định và thuận lợi hơn cho sự nghiệp xây dựng đất
nước, đưa Việt Nam hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế.
Sau khi gia nhập ASEAN, vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao,
quan hệ song phương với từng nước ASEAN cũng được cải thiện. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đưa ra hướng ưu tiên cho hoạt động đối
ngoại, được khẳng định là “ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng
giềng và các nước trong tổ chức ASEAN”. Chủ trương đẩy mạnh quan hệ hợp
tác giữa các nước láng giềng, các nước trong tổ chức ASEAN ưu tiên số một
trong chính sách đối ngoại Việt Nam. Thực hiện chủ trương trên Việt Nam
tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa,
ưu tiên cao cho hợp tác khu vực cả trên bình diện song phương và đa
phương .Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN , Việt Nam tích
cực, chủ động tham gia các hoạt động của Hiệp hội, đồng thời xúc tiến giải
quyết các vấn đề còn tồn tại. Cụ thể là thỏa thuân với Malaixia về tài nguyên
biển, hợp tác nghiên cứu biển Đông với Philipin, đàm phán với Inđônêxia
phân định lại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa…Việt Nam đã cùng các
nước ASEAN xây dựng Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp ( tháng
11/1996) làm cơ sở cho việc giải quyết các tranh chấp xảy ra trong quá trình
thực hiện các Hiệp định kinh tế ASEAN. Tháng 12/ 1998, Việt Nam tổ chức
thành công hội nghị cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội, thơng qua “Chương trình
hành động Hà Nội” và “Tuyên bố Hà Nội” đưa ra những sáng kiến của Việt
Nam về thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên
ASEAN.Gần đây nhất Việt Nam đã tổ chức thành công hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 17 (2010) với vai trò chủ tịch nhiệm kỳ. Như vậy sau khi
5



Việt Nam ra nhập ASEAN, những nghi kỵ được xóa bỏ, tăng cường hiểu biết,
tin tưởng lẫn nhau, tạo điều kiện cho phát triển đất nước.
1.3.

Các tiêu chí đánh giá chính sách

Tiêu chí là thước đo, chuẩn mực đặt ra trong từng điều kiện, hồn cảnh
cụ thể, làm cơng cụ để phân tích, đánh giá, lựa chọn các phương án và giải
pháp chính sách. Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các
kết quả thực hiện chính sách; vì vậy phải dựa vào những thước đo nhất định
hay cịn gọi là những tiêu chí (căn cứ) đánh giá chính sách gồm các tiêu chí
xã hội và tiêu chí chính trị. Trong hai mặt đó (xã hội và chính trị), khó có thể
khẳng định được tiêu chí nào tốt hơn và trội hơn bởi vì một chính sách có thể
có lợi về mặt chính trị, nhưng hiệu quả xã hội có thể khơng cao; hoặc ngược
lại. Xác định các tiêu chí đánh giá chính sách là cơng việc khó khăn và
thường gây nhiều tranh cãi, bởi vì cùng một kết quả thực hiện có thể được
nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau. Song nhìn chung, tiêu chí đánh giá
chính sách phải đáp ứng các yêu cầu sau:
 Tính khoa học: Tiêu chuẩn đánh giá chính sách phải phản ánh một
cách chân thực và khoa học quy luật khách quan của sự vật; vừa phải phù hợp
với tính tổng thể, vừa phải đáp ứng đặc thù của hệ thống. Các tiêu chuẩn đánh
giá cũng phải được quy phạm hóa.
 Tính khách quan: Đối với những tiêu chuẩn có thể định lượng được
thì cần định lượng. Đối với những tiêu chuẩn khơng thể lượng hóa thì nên
cơng khai để cơng chúng đánh giá.
 Tính so sánh: Để so sánh, đánh giá các kết quả của một chính sách
hoặc giữa các chính sách với nhau cần phải có thước đo chung. Vì vậy, tiêu
chuẩn đánh giá phải là những chuẩn mực chung.

 Tính phương hướng: Tiêu chuẩn đánh giá phải thể hiện phương
hướng cải cách và phát triển của xã hội. Vì vậy những tiêu chí và chỉ tiêu cụ
thể (về các mặt chủ yếu của nền kinh tế - xã hội) phải được đặt trong sự so
sánh với các tiêu chí/chỉ tiêu quốc tế (có thể thay đổi trong từng thời kỳ).
6


 Tính chuẩn xác: Tiêu chuẩn đánh giá phải phù hợp với thực tế,
không được quá cao, cũng không quá thấp; phải kết hợp chặt chẽ giữa tính
nguyên tắc và tính linh hoạt, giữa chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
Nhìn chung, có 6 tiêu chí đánh giá chính sách được thừa nhận rộng rãi
sau đây:
a. Tính hiệu lực của chính sách
 Là tiêu chí phản ánh mức độ tác động, làm biến đổi hoặc duy trì tồn
tại xã hội của chính sách đó trên thực tế theo mong muốn của chính phủ. Hiểu
theo nghĩa thơng thường thì hiệu lực của chính sách là những tác dụng hiện
hữu của chính sách gây ra. Tính hiện hữu là thuộc tính tồn tại của chính sách,
phản ánh sự tác động của chính sách lên đối tượng của nóm được xác định
bằng mốc thời gian bắt đầu phát sinh tác động (kể cả tác hại) của chính sách.
Đánh giá hiệu lực của chính sách là trử lời cho câu hỏi: Chính sách có đạt
được các kết quả có giá trị hay khơng? Hiệu lực một chính sách gồm hiệu lực
lý thuyết và hiệu lực thực tế.
- Hiệu lực lý thuyết là hiệu lực được nhà nước cơng nhận để đưa chính
sách vào vận hành trong cuộc sống (chính sách sau khi được ban hành sẽ có
hiệu lực lý thuyết).
- Hiệu lực thực tế là hiệu lực có được khi chính sách tác động đến thực
tế, làm biến đổi thực tế theo mong muốn của chính phủ . Chính sách chỉ dạt
đượchiệu lực thực tế khi nó được áp dụng và đem lại những kết quả nhất định.
Như vậy, hiệu lực lý thuyết của một chính sách khơng trùng khớp với
hiệu lực thực tế của nó. Hiệu lực của một chính sách cao hay thấp chủ yếu lệ

thuộc vào hiệu lực thực tế của chính sách là tốt hay xấu, bởi vì đối với nhân
dân, kết quả thực tế của chính sách quan trọng hơn ý định ban đầu của chính
sách đó. Song một chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế tốt đẹp nếu nó
được hoạch định đúng đắn về lý thuyết. Trên thực tế, cũng có trường hợp một
chính sách có hiệu lực lý thuyết nhưng khơng đạt được hiệu lực thực tế (do
những thiếu sót, khó khăn gặp phải trong q trình thực hiện). Song, cũng khó
7


có thể khẳng định một chính sách thất bại trên thực tế lại hồn tồn đúng đắn
về lý thuyết. Chính sách chỉ có thể được coi là đúng đắn về lý thuyết khi nó
được hoạch định hợp với thực tiễn. Như vậy, hiệu lực của một chính sách
phản ánh tính đúng đắn cả về lý thuyết cũng như hoạt động thực tế; và là kết
quả tác động tổng hợp của cả hiệu lực lý thuyết cũng như hiệu lực thực tế.
Trên thực tế, hiện tượng kém hiệu lực hay không có hlực (vơ hiệu) của
một chính sách thường bắt nguồn từ những nguyên nhân sau đây:
 Một là những nguyên nhân khách quan: Các chính sách ra đời, phát
huy tác dụng và suy giảm hiệu lực theo quy luật vòng đời của chính sách.
Thơng thường, các chính sách đều phải trải qua 4 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Đưa chính sách vào thực hiện.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn hiệu quả và hiệu lực.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn hiệu lực giảm.
- Giai đoạn 4: Giai đoạn lạc hậu.
Như vậy, hiện tượng vơ hiệu trong qua trình thực hiện chính sách có
tính quy luật và tính chu kỳ nhất định. Do đó, trong giai đoạn đầu nếu chình
sách tỏ ra kém hiệu quả thì chúng ta cũng khơng nên hoang mang mà cần
phân tích ngun nhân để tìm cách giải quyết thích hợp.
 Hai là những nguyên nhân chủ quan: Ngồi những ngun nhân
khách quan, hiện tượng vơ hiệu của các chính sách cịn có thể do các ngun
nhân chủ quan sau:

- Các chính sách khơng đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội – do ý
thực chủ quan của một số nhà lãnh đạo hoặc tư vấn tồi của đội ngũ viên chức
giúp việc cho các nhà lãnh đạo khi đề ra chính sách.
- Chính sách được đề ra khơng đủ các điều kiện thực thi (kinh phí,
nhan sự, tổ chức và kinh nghiệm cần thiết) hoặc nó được đưa ra không đúng
thời điểm, cùng một lúc với hàng loạt chính sách khác.
- Độ nhờn chính sách: là ấn tượng xấu của nhân dân trong việc thực
hiện các chính sách trong q khứ - do trước đó, nhiều chính sách được ban
8


hành khơng có sự đánh giá, phán xét nghiêm minh hoặc thực hiện không đến
nơi, đến chốn, hiệu quả xấu tạo ra một sự “khinh nhờn” của nhân dân trước
các chính sách của Nhà nước. Vì thế các chính sách vừa ra đời đã bị mất hiệu
lực.
- Các lực lượng chống đối chính sách q mạnh mà Nhà nước lại
khơng đủ năng lực để đối phó, xử lý.
- Kỷ cương, pháp luật khơng nghiêm: Chính sách đưa ra mà đối tượng
thực hiện lại chống đối hoặc không bị xử lý nghiêm minh (không bị trừng
phạt hoặc bị trừng phạt chỉ mang tính hình thức).
Điều đó cho thấy, khả năng thành cơng hay thất bại của một chính sách
phụ thuộc vào nhiều rất yếu tố, địi hỏi nhà hoạch định chính sách phải biết
phân tích, lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện chính sách đó. Để đảm bảo
cho việc thực hiện mục tiêu đã định, cần nghiên cứu, tìm biện pháp khống chế
mức độ vơ hiệu của chính sách.
Đánh giá tính hiệu lực của chính sách địi hỏi nhiều thơng tin và
phương pháp tiến hành, song nó rất có ích đối với các nhà hoạch định chính
sách để cân nhắc việc duy trì hoặc thay đổi một chính sách hiện hành.
b. Tính hiệu quả của chính sách
 Hiệu quả của chính sách được xem xét ở các khía cạnh mức độ đạt tới

mục tiêu và thành công của một chính sách. Đánh giá hiệu quả chính sách là để
trả lời cho câu hỏi: Cần bao nhiêu nỗ lực để đạt được các kết qảu có giá trị?
 Tính hiệu quả của một chính sách phản ánh tương quan so sánh các
kết quả đạt được của chính sách so với những chi phí và cơng sức đã bỏ ra
cho kết quả đó.
 Hiệu quả của một chính sách cịn được thể hiện ở hiệu quả của các
họat động phối hợp chính sách.
c. Tính hữu dụng của chính sách
 Tính hữu dụng của chính sách phản ánh mức độ vấn đề chính sách đã
được giải quyết đến đâu.
9


 Đánh giá tính hữu dụng của chính sách trả lời cho câu hỏi: Các kết
quả của chính sách đã giải quyết được vấn đề ở mức độ nào?
d. Tính cơng bằng của chính sách
Cơng bằng là khái niệm dùng để đánh giá về việc những cái mà đối
tượng nào đó được hưởng là xứng đáng trên cơ sở những điều kiện vốn có và
cống hiến của nó trong sự so sánh với một hay nhiều đối tượng tương tự khác.
Đánh giá tính cơng bằng của chính sách trả lời cho câu hỏi: Các chi phí và lợi
ích có được phân phối công bằng giữa các cá nhan và các nhóm người khác
nhau hay khơng? Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý
nhất mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất
định. Để phản ánh được nội dung này, người ta đưa ra các khái niệm về cân
bằng:
 Cân bằng theo chiều dọc là sự đối xử khác nhau đối với những người
có khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm
khắc phục những khác biệt sẵn có.
 Cân bằng theo chiều ngang là sự đối xử như nhau đối với những
người có tăng trưởng kinh tế như nhau (có nghĩa là những người có két quả

hoạt động như nhau, khơng phân biệt giới tính, dân tộc, tơn giáo, màu da …
đều được đối xử như nhau).
Nếu như công bằng theo chiều ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế
thị trường, thì cơng bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của Nhà nước,
Chính phủ thực thi chính sách phân phối công bằng theo chiều dọc nhằm
giảm sự chênh lệch phúc lợi giữa các cá nhân.
Việc Nhà nước thực hiện sự công bằng đến đâu tùy thuộc vào sự đúng
đắn và hợp lý của các chính sách đề ra. Cơng bằng trong chính sách của Nhà
nước chủ yếu là tạo ra những có hội ngang nhau cho các đối tượng khác nhau.
e. Tính đáp ứng yêu cầu của đối tượng chính sách
Là sự trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện chính sách đề ra có đáp ứng
được mong muốn, nguyện vọng của các nhóm đối tượng của chính sách hay
10


khơng. Trên thực tế, có nhiều chính sách đề ra khơng đáp ứng được đày đủ
nguyện vọng của nhóm đối tượng chính sách.
f. Kết hợp hợp lý giữa hiệu quả và cơng bằng hay tính thích đáng
của chính sách
Thơng thường sự can thiệp của Chính phủ nhằm tạo ra sự công bằng
trong xã hội sẽ được đánh đổi bằng một sự kém hiệu quả về mặt kinh tế. Do
đó, phải đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng trong mối quan
hệ giữa tính hiệu quả và tính cơng bằng.
Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế đều phải nhằm mục tiêu phát triển xã
hội, mỗi chính sách xã hội đều hàm chứa nội dung và ý nghĩa kinh tế, dù trực
tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Đồng thời, trong mỗi bước đi, mỗi thời kỳ cụ thể phải xác định đúng
mức độ hợp lý giữa tang trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, sao cho hai mặt này không cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau mà còn hỗ
trợ nhau.


11


Chương 2
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC CỤ
THỂ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
2.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Campuchia:
2.1.1. Cơ sở hoạch định chính sách.
Đối với Campuchia, nước láng giềng có chung đường biên giới ở phía
Tây nam, có nhiều đặc điểm về lịch sử, văn hóa, xã hội… giống với Việt
Nam. Trong chặng đường đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà điển hình là hai
cuộc kháng chiến trường kì chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ của Việt
Nam đã cho thấy tinh thần chia lửa của quốc gia láng giềng này. Trong thời
bình, Việt Nam và Campuchia đều xây dựng lại đất nước như trong nghị
quyết 13 ngày 20 tháng 5 năm 1988 của Bộ Chính trị đã đưa ra: “Việc Lào và
Campuchia sẽ đi lên Xã hội chủ nghĩa hay phát triển theo con đường dân tộc,
dân chủ nhân dân là do Đảng và nhân dân hai nước đó quyết định, phù hợp
với điều kiện thực tế và nguyện vọng của nhân dân nước đó”.
Trong bối cảnh, tình hình thế giới có nhiều biết động chuyển từ giai
đoạn đấu tranh sang đối thoại cùng với đó là xu thế khu vực hóa và tồn cầu
hóa ngày càng phát triển địi hỏi các nước phải có những thay đổi trong chính
sách của mình để thích nghi được với mơi trường mới, trật tự thế giới thay đổi
mạnh mẽ với sự chi phối của Mỹ sau khi Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, nền kinh tế thế giới diễn ra gay gắt do sự cạnh tranh
của nền kinh tế thị trường…Việt Nam và Campuchia cùng gia nhập tổ chức
ASEAN mở ra một trang mới về sự hợp tác và phát triển toàn diện.
Mốc son ghi dấu ấn trong quan hệ ngoại giao của của Việt Nam với
Campuchia chính là sự kiện kí hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao vào
ngày 24 tháng 6 năm 1967 giữa Việt Nam và Campuchia. Như lời khẳng định

của chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Việt
Nam, đó là: “ Đối với Lào và Miên (Campuchia ngày nay), nước Việt Nam
12


tơn trọng độc lập của hai nước đó và bày tỏ long mong muốn hợp tác trên cơ
sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền” đã cho thấy trong chính
sách đối ngoại của mình Việt Nam ln trọng các quyền chủ quyền của
Campuchia và luôn mong muốn sát cánh với nước bạn trong công cuộc kiến
thiết đất nước và hội nhập quốc tế.
2.1.2. Nội dung và triển khai chính sách.
Mối quan hệ giữa hai nước tuy trải qua nhiều thăng trầm và thử thách
qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, song bằng nguyện vọng cũng như quyết
tâm của Lãnh đạo và nhân dân hai nước, đến nay mối quan hệ đó đã được
củng cố, vun đắp và ngày càng phát triển theo phương châm mà Lãnh đạo cấp
cao hai nước đã đề ra là: “Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác
toàn diện, bền vững lâu dài”. Nhằm xóa tan những hồi nghi và hiểu nhầm
trong lòng người dân Campuchia về quá khứ (trong vấn đề Việt Nam đưa
quân tình nguyện vào Campuchia giúp nhân dân và chính phủ Campuchia lật
đổ chế đổ diện chủng Polpot) cũng như tăng cường tình đồn kết hữu nghị tốt
đẹp của hai quốc gia, Việt Nam đã linh hoạt trong hoạt động đối ngoại của
mình thơng qua các chuyến gặp gỡ cấp cao. Cuộc thăm chính thức của Bộ
trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên ngày 3 đến ngày 5 tháng 3 năm 2000
mở đường cho chuyến thăm hữu nghị sau đó của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng ngày 27 đến ngày 30 tháng 8. Trên tinh thần láng giềng, hữu nghị Việt
Nam đã đề nghị nước bạn giúp đỡ trong việc tìm và hồi hương hài cốt các
chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã hi sinh khi làm nhiệm vụ trong các thời kì
chiến đấu ở Campuchia khơng những thế chuyến thăm cũng mang lại nhiều
kết quả đáng ghi nhận như việc hai bên đa kí Hiệp đinh hợp tác về nông
nghiệp và hợp tác về y tế…Qua đó cho ta thấy tinh thần láng giềng thắm tình

anh em không chỉ được thể hiện trong kháng chiến mà cịn được tơ thắm thêm
trong thời kì hội nhập thế giới.
Sự kiện gia nhập ASEAN của của hai nước ( Việt Nam năm 1995,
Campuchia năm 1999) đã tạo ra một trang mới trong lịch sử quan hệ cũng
13


như đối ngoại của Việt Nam với Campuchia. Campuchia được đánh giá là đối
tác chiến lược quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Trong chính sách chính
sách đối ngoại của mình Việt Nam đã khẳng định:” Việt Nam sẳn sàng là bạn,
là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình,
hợp tác và phát triển” (tại Đại hội IX, tháng 4/2001) và đặc biệt nhấn mạnh
định hướng đối ngoại xuyên suốt: “Coi trọng và phát triển quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng” đã cho thấy Việt Nam rất coi
trọng mối quan hệ với Campuchia và xem đối ngoại là con đường chủ yếu để
thực hiện chủ trương đấy. Đánh dấu nổi bật trong giai đoạn này là việc ngày 9
và ngày 10 tháng 6 năm 1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hữu nghị
chính thức Campuchia, thơng qua đó hai bên đã kí Biên bản thỏa thuận kì ba
của Ủy ban liên chính phủ Việt Nam – Campuchia; hiệp định năng lượng giai
đoạn 2000-2010 và nghị định thư về hợp tác giáo dục và đào tạo.
Sau khi Campuchia gia nhập ASEAN quá trình hợp tác hai nước có
nhiều nét mới chính vì thế địi hỏi Việt Nam linh hoạt chuyển mình phù hợp
với xu hướng thay đổi đó, q trình hợp tác cần theo lộ trình và đúng với quy
định của tổ chức ASEAN. Khó khăn đặt ra là làm sao xây dựng được mối
quan hệ hợp tác toàn diện với nước bạn trong thời kì hội nhập sâu rộng với sự
xâm nhập và cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường đồng thời vẫn giữ
được tinh thần anh em, láng giềng truyền thống. Quá trình thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua trong các
cuộc gặp gỡ mang tính chất song phương và đa phương đặc biệt trong các hội
nghị do ASEAN tổ chức trong đó có cuộc gặp cấp cao của Thủ tướng ba nước

Việt Nam- Lào- Campuchia tại Hội nghị thứ 3 (tại Xiêm Riệp, Campuchia
ngày 20 và 21 tháng 7 năm 2004) tiếp tục lộ trình trong chương trình “Tam
giác phát triển Việt Nam- Lào- Campuchia” do Hội nghị Thủ tướng ba nước
thơng qua năm 2002 tại Thành phố Hồ Chí Minh nhằm hợp tác mạnh mẽ hơn
về kinh tế đối ngoại với Campuchia, khơng những thế để tăng thêm tình đồn
kết và triển khai chính sách có hiệu quả Việt Nam đã bày tỏ tấm lòng của đất
14


nước anh em thông qua việc tài trợ xây dựng cơ sở vật chất cho nước bạn.
Điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh đã tài trợ xây dựng một bệnh viện ở
Phnôm Pênh đồng thời Hà Nội cũng xây dựng một con đường mang tên Hà
Nội tại Phnôm Pênh vào tháng 7 năm 2004.
Thông qua con đường đối ngoại của mình, Việt Nam đã khơng ngừng
củng cố và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và Campuchia trên
mọi lĩnh vực từ chính trị, văn hóa, khoa học , giáo dục… Đặc biệt bước vào
thời kì hội nhập sâu rộng, nhận thấy được mối nguy hiểm của sự bành trướng
và mở rộng của các thế lực chống đối và phản động cùng với đó là chiến lựợc
“Diễn biến hịa bình” của các nước tư bản nhằm chống phá lật đổ chế độ ở
Việt Nam. Chính vì thế Việt Nam coi trọng việc củng cố và tăng cường sức
mạnh an ninh từ bên trong đồng thời dùng chính sách khơng khéo mở rộng an
ninh ra bên ngồi với mục tiêu “đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu”. Nhằm
thực hiện được mục tiêu đó Việt Nam đã thực hiện chính sách an ninh đối
ngoại, hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng, trong đó Campuchia được
xem là đối tác hàng đầu. Nhanh chóng được triển khai, Hội nghị hợp tác phát
triển giữa các tỉnh biên giới Việt Nam và Campuchia lần đầu được tổ chức tại
thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy nỗ lực rất lớn của Việt Nam.
Với việc mở rộng tầm ảnh hưởng của mình ra bên ngồi lãnh thổ, Việt
Nam đang tường bước tạo dấu ấn đặc biệt trong lòng bạn bè thế giới trong đó
có nước láng giềng Campuchia. Thơng qua con đường đối ngoại toàn diện,

Việt Nam đã cho thấy tinh thần mong muốn hợp tác cùng xây dựng môi
trường thế giới hịa bình,ổn định và phát triển.
2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với Lào:
2.2.1. Cở sở hoạch định chính sách
Trong tình hình thế giới diễn ra những biến đổi sâu sắc, cả hai nước đều
đứng trước những khó khăn thử thách to lớn do tình trạng trì trệ kinh tế kéo
dài. Thêm vào đó, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu không chỉ tạo
ra những hững hụt đột ngột trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam
15


cũng như của Lào, mà còn gây ra ảnh hưởng nhất định về chính trị và tư
tưởng ở mỗi nước. Các thể lực thù địch, đế quốc lợi dụng tình hình này tăng
cường chống phá cách mạng hai nước, chia rẽ khối đoàn kết Việt- Lào. Trong
bối cảnh nêu trên, việc định hướng Chính sách Đối ngoại của Việt Nam đứng
trước yêu cầu khách quan cần đổi mới về cả nội dung lẫn phương thức và cơ
chế hợp tác theo hướng tăng cường hiệu quả thực chất. Hơn thế nữa, với cùng
mục tiêu chung đánh đuổi bè lũ thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc, nhân
dân hai nước Việt Nam- Lào cùng sát cánh trong cuộc kháng chiến chống
thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, và rồi cùng với Campuchia đoàn kết
bên nhau trong mặt trận chung chống các thế lực thù địch trong “vấn đề
Campuchia” thông qua các hội nghị ngoại trưởng và Hội nghị cấp cao ba
nước Đông Dương. Đặc biệt, cả Việt Nam va Lào đều thuộc lưu vực sông
Mêkông, đều là thành viên của ủy ban sơng MêKơng, tham gia các chương
trình phát triển lưu vực sông Mêkông, các vùng nghèo thuộc hành lang ĐơngTây của Asean.
Bên cạnh đó, cả hai nước đều là những nước kém phát triển trong khu
vực Đông Nam Á, có thể cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trong tham gia hợp
tác Asean. Tuy nhiên, quan hệ của hai nước cũng có những hạn chế nhất định,
cho nên chính sách đối ngoại của ta cũng khơng tránh khỏi những khó khăn
trong việc triển khai và thực hiện nội dung đề ra, nhất là trong lĩnh vực hợp

tác kinh tế bởi Việt Nam và Lào đều còn rất nghèo, kém phát triển, thiếu vốn,
trình độ khoa học cịn thấp kém, các thế lực thù địch ln tìm cách phá hoại.
2.2.2. Nội dung và Triển khai chính sách
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần IX, Việt Nam đã khẳng định:” Việt
Nam luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng
gần gũi, các nước bạn bè truyền thống, trong đó quan hệ hữu nghị hợp tác với
nước CHDCND Lào ln chiếm vị trí ưu tiên.” 2
Xuất phát từ mối quan hệ mật thiết, hữu nghị giữa hai Đảng và hai nhà
nước, Việt Nam chủ động tăng cường quan hệ tồn diện, khơng ngừng mở
16


rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, thông qua các cuộc tiếp xúc
thường xuyên lãnh đạo cấp cao và các bộ, các ngành, các địa phương của hai
nước, quan hệ Việt – Lào không ngừng phát triển. hai nước đã ký kết hiệp
ước hữu nghị và hợp tác, hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1997,
tạo cơ sở pháp lý vững chắc và lâu dài cho việc tăng cường mối quan hệ đặc
biệt Việt – Lào. Sang thế kỷ 21, hai nước đã hình thành thỏa thuận về Chiến
lược hợp tác giữa hai nước giai đoạn 2001-2010. Hơn nữa, Lãnh đạo Đảng
nhà nước, Quốc hội hai nước thường xuyên duy trì đều đặn các cuộc gặp cấp
cao, các cuộc tham khảo ý kiến giữa hai nước.
Năm 2010 là năm đánh dấu gần 50 năm kể từ khi thành lập quan hệ
ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Lào. Việt Nam công nhận đây la mối
quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác tồn diện, gắn bó lâu đời giữa
hai dân tộc, hai nước láng giềng thân thiện. hơn thế nữa, cả hai nước đều là
hai nước XHCN, có Đảng Cộng sản lãnh đạo cùng xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội ở hai nước, nâng cao mức sống mọi mặt của người dân, đóng
góp vào hịa bình, ổn định trong khu vực. cả hai nước đều là mục tiêu của các
thế lực thù địch ln tìm cách chống phá cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở hai nước, tìm cách hạ thấp, tiến tới lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản và chính quyền nhân dân. Do đó, thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước này sẽ là động lực và là nguồn cổ vũ rất lớn đối với nước
kia. Chính bởi vậy mà Việt Nam ta cũng chủ động trong việc đề ra đường lối
chính sách đối ngoại với Lào.
Tháng 3/1998, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thăm chính thức CHDCND
Lào, trong chuyên thăm này, Việt Nam và Lào đã kí các văn bản hợp tác :
Hiệp định về hợp tác kinh tế, khoa học, kĩ thuật năm 1998 và Biên bản kì họp
lần thứ hai Ủy ban liên Chính phủ, Ngày 20-10-1999, Thủ tướng Phan Văn
Khải đã dự cuộc gặp khơng chính thức giữa Thủ tướng 3 nước Việt Nam-LàoCampuchia tại Viêng Chăn (Lào), tại cuộc gặp này đồng chí muốn khẳng
định: “Việt Nam muốn tăng cường và phát triển hơn nữa mối quan hệ hữu
17


nghị, đồn kết truyền thống và hợp tác vì lợi ích ở khu vực Đông Nam á và
thế giới.” tiếp đó, tháng 3/ 2001, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu dự Đại hội VII
của Đảng NDCM Lào, cũng tại Đại hội này, đồng chí đã nêu cao chủ trương,
đường lối của Việt Nam: “Việt Nam tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung và hồn
thiện đường lối, chính sách; xác định phương hướng, nhiệm vụ trong những
năm đầu thế kỷ XXI… tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn
bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á,
châu Phi, Trung Đông và Mỹ la-tinh, các nước trong phong trào Không liên
kết; ủng hộ lẫn nhau cùng phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhau”. Đặc biệt trong chuyến thăm chính thức Lào vào tháng 7/2001 của
Tổng bí thư Nơng Đức Mạnh, hai bên đã ra Tun bố chung nêu đường
hướng chỉ đạo cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Việt Nam một lần nữa
khẳng định: ”Hai bên phối hợp chặt chẽ ở các diễn đàn quốc tế và khu vực,
nhất là các hoạt động ASEAN, tiểu vùng Mê Cơng, sơng Hằng-Mê Cơng và
nhóm cơng tác phát triển 3 vùng biên giới và các hoạt động hợp tác đa
phương khác.”
Ngồi ra, Phía Việt Nam ta cịn thường xun trao đổi đồn các bộ,

ban, ngành các cấp. tháng 2/ 2001, Bộ trưởng Quốc phòng và tháng 5/ 2001
Bộ trưởng Cơng an Việt Nam có chuyến thăm tới Lào. Gần đây, Việt Nam
cịn cử các đồn cấp tỉnh và các đoàn thể quần chúng sang thăm Lào nhằm thể
hiện với bạn bè rằng, Việt Nam luôn coi trọng mối quan hệ hữu nghị truyền
thống và đoàn kết đặc biệt Việt – Lào được thấm nhuần sâu rộng trong nhân
dân và nhất là trong thế hệ trẻ.
Trong kinh tế đối ngoại với Lào, Việt Nam luôn đưa ra đánh giá rằng
cả hai nước đều là những nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, cơ
cấu kinh tế hai nước không bổ sung được cho nhau nhiều, do vậy mà Ủy ban
liên chính phủ về hợp tác kinh tế - văn hóa - khoa học kỹ thuật Việt – Lào
luôn quyết tâm, theo dõi và thúc đẩy quan hệ trên các lĩnh vực này.

18



×