Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học, vai trò lãnh đạo của đảng đối với công tác cán bộ thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.41 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẢN LÝ XÃ HỘI
Đề tài:
VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CƠNG TÁC CÁN BỘ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ...................................................................4
1.1. Một số khái niệm........................................................................................4
1.1.1. Cán bộ.....................................................................................................4
1.1.2. Những tiêu chuẩn cán bộ.........................................................................7
1.2. Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác cán bộ.................................11
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRỊ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ...............................................14
2.1. Thực trạng vai trị lãnh đạo cơng tác cán bộ của Đảng............................14
2.1.1. Đánh giá chung.....................................................................................14
2.1.2. Đánh giá cụ thể công tác lãnh đạo trong từng khâu của công tác cán
bộ.....................................................................................................................17
2.2. Nguyên nhân của ưu, hạn chế..................................................................22
2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng về
công tác cán bộ................................................................................................25
2.3.1. Về quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ...........................................25
2.3.2. Về mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ..................................................26
KẾT LUẬN....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................30



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước đây, ngay từ những ngày đầu hình thành thế giới quan vơ sản,
C.Mác cho rằng: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn”. Đến thời Lênin, Người khẳng định: “Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”.
Suốt tám thập kỷ qua, trước muôn vàn thách thức, Đảng ta luôn kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo đất
nước giành nhiều thắng lợi vô cùng to lớn. Đạt được những thành tựu trên là
nhờ Đảng ta đã xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản
lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó
với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Công tác cán bộ là vấn đề quan trọng, quyết định sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”. “Muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hoặc
kém”. Đại hội lần thứ X của Đảng nhấn mạnh: "Mục tiêu chung là xây dựng
đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành
mạnh, khơng quan liêu, tham nhũng, lãng phí...", "Nhiệm vụ quan trọng nhất
là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến
lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ thống chính trị...",
"Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính
sách cán bộ...", " Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng
nhân tài...".

1



Qua thực tiễn cách mạng của mình, các đảng cộng sản và cơng nhân
quốc tế đều khẳng định vai trị quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Mỗi
giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một đội ngũ cán bộ thích ứng, có
phẩm chất, năng lực đáp ứng được sự đòi hỏi của nhiệm vụ từng giai đoạn,
từng thời kỳ. Để thực hiện thắng lợi đường lối và các nhiệm vụ chính trị do
Đại hội VIII của Đảng đề ra, công tác cán bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng, đào
tạo và bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt càng trở nên cấp bách. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định: Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, mức chính xác của đường lối và việc
cụ thể hóa của đường lối, chính xác, kịp thời cũng như thực hiện đường lối
chính sách thắng lợi đều tùy thuộc ở chất lượng đội ngũ cán bộ.
Suốt tám thập kỷ qua, trước muôn vàn thách thức, Đảng ta luôn kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đã lãnh đạo đất
nước giành nhiều thắng lợi vô cùng to lớn. Đạt được những thành tựu trên là
nhờ Đảng ta đã xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản
lý ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó
với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Cơng tác cán bộ là vấn đề quan trọng, quyết định sự thành bại của sự
nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”. “Muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hoặc
kém”. Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: Quán triệt và nghiêm túc
thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Quán triệt và nghiêm túc thực hiện
quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng

đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về cơng tác cán bộ”. Vì thế, Đảng
2


phải trực tiếp nắm vấn đề cán bộ, từ việc định ra đường lối, chính sách cán bộ
đến việc quyết định bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các cơ quan nhà
nước và đoàn thể nhân dân, chuẩn bị cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua các tổ chức đảng để thực hiện
đường lối, chính sách cán bộ. Đảng phân công, phân cấp quản lý cán bộ cho
các cấp ủy và các tổ chức đảng, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực
hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một việc quan trọng
bậc nhất của lãnh đạo. Với vị trí, vai trị và tầm quan trọng của cơng tác cán
bộ như trên, vì vậy tơi chọn đề tài “Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với công
tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay” làm tiểu luận môn học hệ thống chính
trị quản lý xã hội.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Làm rõ và khẳng định vị trí, vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng
tác cán bộ theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trình bày thực trạng vai trị lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán
bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đề ra một số giải
pháp nhằm thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ
trong thời kỳ mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng và giải pháp công tác cán bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện .
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, cụ thể là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài sử dụng

tổng hợp các phương pháp như phân tích - tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận được kết cấu
gồm 03 chương, 9 tiết.
3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Cán bộ
Từ trước đến nay khái niệm cán bộ thường được dùng ở các nước xã
hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu làm rõ vấn đề này cịn ít, hoặc có đề cập tới
nhưng ý kiến lại khác nhau. Ở nước ta, trong cuốn Từ điển bách khoa tồn thư
chưa có từ “cán bộ”. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1993 thì
cán bộ có hai nghĩa: “1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong
cơ quan nhà nước; 2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một
tổ chức, phân biệt với người bình thường, khơng có chức vụ”.
Định nghĩa trên đây cũng như định nghĩa “cán bộ” trong Đại từ điển
tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản năm 1999 so với một số định
nghĩa khác có sự phát triển và hợp lý hơn. Tuy nhiên, vẫn cần phải làm rõ
những nội hàm của cán bộ hơn nữa.
Với nghĩa thứ nhất, cán bộ không chỉ bao gồm những người làm
công tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước mà trong cả hệ
thống chính trị và cũng chỉ gồm những người có trình độ được đào tạo từ
cao đẳng, đại học trở lên mới gọi là cán bộ. Số có trình độ đào tạo thấp hơn
gọi là nhân viên. Bộ phận cán bộ nghiệp vụ chuyên môn trên đây thường
được hình thành thơng qua con đường đào tạo từ nhà trường. Đây là bộ
phận cán bộ đông đảo và thường ổn định nhất.

Với nghĩa thứ hai, người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, cũng cần nhấn mạnh của cả hệ thống chính trị. Đây chính là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người có chức vụ, phân biệt với người
thường, khơng có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thơng qua
việc bầu cử dân chủ hoặc đề bạt, bổ nhiệm.
4


Nói đến cán bộ là nói đến con người và người cán bộ ở nước ta được
đặt trong các mối quan hệ xác định: Cán bộ quan hệ với tổ chức và cơ chế,
chính sách; cán bộ quan hệ với phong trào cách mạng của quần chúng.
Trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng”.
Trong xã hội có giai cấp, đội ngũ cán bộ được hình thành theo quan
điểm, mục đích của giai cấp cầm quyền. Ở nước ta, cán bộ phải là người
trung thành, tận tụy vì lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc.
Vì vậy, khái niệm cán bộ có hai nghĩa sau:
1. Người làm cơng tác, có nghiệp vụ chun mơn trong một cơ quan,
một tổ chức của hệ thống chính trị, có trình độ đào tạo từ cao đẳng, đại học
trở lên.
2. Người làm cơng tác có chức vụ, phân biệt với người bình thường
khơng có chức vụ trong trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị.
Mỗi loại cán bộ đều có vai trị, vị trí nhất định trong xã hội. Cần phân
biệt các loại cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý.
Theo Từ điển bách khoa tồn thư của Liên Xơ (trước đây) thì cán bộ
lãnh đạo có hai nghĩa:
Thứ nhất, dùng để chỉ người đứng đầu của một tổ chức, một phong

trào.
Thứ hai, là người làm thức tỉnh hành vi của người khác.
“Cán bộ quản lý” cũng là người đứng đầu một tổ chức, nhưng nhấn
mạnh việc điều hành hoạt động của tổ chức, việc sử dụng công cụ, phương
tiện để điều khiển một loại hoạt động nào đó.
Như vậy, nội hàm khái niệm cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý có
những điểm giống nhau. Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều phải nhận
5


thức được khách thể và tác động đến khách thể. Chủ thể ra quyết định, điều
khiển khách thể, trên cơ sở những đặc điểm, thuộc tính, những quy luật của
khách thể nhằm thực hiện mục đích nhất định. Cả cán bộ lãnh đạo và cán bộ
quản lý đều phải tiến hành quá trình điều khiển. Người cán bộ lãnh đạo cũng
phải thực hiện một số chức năng quản lý và người cán bộ quản lý cũng phải
thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Trên ý nghĩa đó cán bộ lãnh đạo và
cán bộ quản lý giống nhau. Tuy nhiên, về phương diện khác cần phân biệt
cán bộ lãnh đạo với cán bộ quản lý.
Quá trình lãnh đạo chủ yếu là q trình định hướng cho khách thể, cịn
q trình quản lý chủ yếu là quá trình tổ chức, sắp xếp, bố trí để thực hiện
định hướng của lãnh đạo. Quá trình lãnh đạo là quá trình làm thức tỉnh hành
vi của con người và định hướng hoạt động cho con người và xã hội là chủ
yếu. Trong lãnh đạo, con người vừa là khách thể vừa là chủ thể của mọi tác
động. Nhưng đối tượng tác động của quản lý vừa có thể là con người vừa có
thể là công cụ. Trong quản lý, người cán bộ tác động mang tính điều khiển,
vận hành thơng qua những thiết chế có tính pháp lệnh được quy định trước.
Với ý nghĩa đó, chức năng quản lý là sự tiếp tục của chức năng lãnh
đạo, là bước đi kế tiếp của lãnh đạo, là yếu tố, là khâu tất yếu để sự lãnh đạo
được thực hiện.
Sự khác nhau giữa cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý chỉ là tương đối,

nhưng ở nước ta việc phân biệt đó lại có ý nghĩa để tránh sự chồng chéo,
trùng lặp nhau giữa người cán bộ lãnh đạo với người cán bộ quản lý.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Để làm rõ “cán bộ lãnh đạo chủ chốt” cần
hiểu rõ “chủ chốt” là gì? Trong Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1993, định
nghĩa: “Chủ chốt quan trọng nhất, có tác dụng làm nịng cốt. Cán bộ chủ chốt
của phong trào”.
Trong mỗi tổ chức đều có người lãnh đạo. Nhiều tổ chức có tập thể
lãnh đạo. trong tập thể lãnh đạo có người đứng đầu. Người đó là cán bộ chủ

6


chốt. Vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác
dụng chi phối chính toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Khi xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần đặt cán bộ trong một tổ chức
nhất định. Có thể có cán bộ ở tổ chức này, trong mối quan hệ này là cán bộ
chủ chốt, nhưng trong tổ chức khác, trong mối quan hệ khác lại không phải là
cán bộ chủ chốt..
Như vậy cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là các đồng chí đứng đầu tổ
chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và đứng đầu các ban, ngành của cấp tỉnh.
Mỗi cán bộ lãnh đạo chủ chốt được gắn với tổ chức và chức danh cụ thể.
Đồng chí bí thư tỉnh ủy là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của tỉnh ủy, đồng chí chủ
tịch ủy ban nhân dân tỉnh là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của chính quyền tỉnh,
đồng chí trưởng ban tổ chức là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của ban tổ chức v.v..
Cán bộ chủ trì là người điều hành và chịu trách nhiệm chính về một
cơng việc nào đó. Người ta thường dùng với nghĩa là động từ, như chủ trì
cuộc họp, chủ trì đề tài khoa học. Cán bộ chủ trì thường là cán bộ chủ chốt,
nhưng nhiều khi không phải là cán bộ chủ chốt vẫn có thể là cán bộ chủ trì.
1.1.2. Những tiêu chuẩn cán bộ
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ

nghĩa Mác-Lênin. Khi đề cập đến vai trò của cán bộ. Hồ Chí Minh khẳng
định: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng của chính phủ giải
thích cho dân hiểu rõ và thi hành .Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng" .Theo Hồ Chí
Minh, cán bộ được trưởng thành từ phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, có lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có tinh thần yếu
nước, suốt cuộc đời phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người cán bộ có
khả năng đồn kết giai cấp, dân tộc, quốc gia, quốc tế trên nền tảng liên minh
cơng nơng, trí thức, ln đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, đồng thời bảo
đảm hài hoà lợi ích. Cán bộ lãnh đạo là người trung thành, hăng hái trong
công việc và trong đấu tranh, liên hệ mật thiết với quần chúng, luôn chú ý đến
7


lợi ích của dân chúng; có thể giải quyết các vấn đề trong hồn cảnh khó khăn;
thắng lợi khơng kiêu căng, thất bại khơng nản chí, ln ln giữ đúng kỉ luật.
Hồ Chí Minh đưa ra những tiêu chí cụ thể về cán bộ lãnh đạo. Đó là người có
đức có tài, vừa "hồng" lại vừa chuyên. Trong đó đức là gốc: Trước hết người
cán bộ phải có đọ đức cách mạng, đối với Hồ Chí Minh đạo đức của cán bộ là
đạo đức cách mạng. Đạo đức giữ vai trị quan trọng đối với người cán bộ. Đó
là nhân tố làm cho sức mạnh cách mạng tăng lên gấp bội, góp phần vào chiến
thắng cả giặc ngoại xâm và giặc nội xâm là nghèo nàn lạc hậu và chủ nghĩa cá
nhân. Giữ được đạo đức cách mạng mới là cán bộ chân chính. Đạo đức cách
mạng là động lực, là sức mạnh to lớn giúp cán bộ vượt qua khó khăn, cám dỗ
trên con đường cách mạng đầy chơng gai, thử thách: Người nói: " Có đạo đức
Cách Mạng."Thì khi gặp khó khăn gian khổ thất bại, cũng khơng sợ sệt, rụt
rè, lùi bước” . Đạo đức cách mạng là phẩm chất hàng đầu của cán bộ để luôn
luôn trong sạch vững mạnh, Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có
phẩm chất đạo đức, gương mẫu vê mọi mặt. Đây là điều hệ trọng liên quan
đén sự sống cịn của Đảng. Chính vì vậy trong Di chúc Người căn dặn. "

Đảng ta là một Đảng cầm quyền." Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân” .Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh thể
hiện: Trung với Đảng hiếu với dân; Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư;
Nhân nghĩa chí dũng.Hồ Chí Minh quan niệm rằng : Cán bộ lãnh đạo phải có
năng lực tổ chức thực tiễn, tức là họ khơng chỉ học tập nâng cao trình độ lý
luận và chuyên môn, mà phải học đi đôi với hành. Học mà khơng hành thì học
vơ ích, hành mà khơng học thì hành khơng trơi chảy. Cán bộ học tập lý luận
rồi phải vận dụng vào thực tiễn, phải nắm vững chân lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác-Lênin để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế nước ta: Bởi vì"
lý luận cốt để áp dụng vào cơng việc thực tế. Lý luận không áp dụng vào thực
tế là lýluận sng" . Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ lãnh đạo không chỉ nắm qui
8


luật vận động và phát triển của lý thuyết chính trị mà còn phải vận dụng sáng
tạo vào cuộc sống. Cán bộ cần bám sát thực tế chú ý phát hiện và tổng kết
thực tiễn nhằm làm sáng tỏ lý luận , kịp thời điều chỉnh bổ sung phát triển lý
luận mới cho phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sở nắm bắt lý luận và thực tiễn,
cán bộ lãnh đạo phải có năng lực tiên đốn, dự báo nhất là trong những thời
điểm có tính bước ngoặt của lịch sử. Nếu định hướng tốt, dự báo đúng, chuẩn
bị chu đáo, cách mạng sẽ thành cơng. Nói đến năng lực thực tiễn của cán bộ
lãnh đạo là nói đến nguyên tắc "Dĩ bất kiến, ứng vạn biến". Điều đó địi hỏi
cán bộ lãnh đạo phỉa kiên định với mục tiêu cơ bản, đồng thời phải hết sức
linh hoạt trong hình thức, trong bước đi. Cái bất biến ở đây là độc lập dân tộc
thống nhất của Tổ quốc và tự do hạnh phúc của nhân dan. Chính vậy chỉ có
con đường duy nhất là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đưa cả nươc
tiến lên CNXH. Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải
thơng minh, có năng lực có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn mới xử lý các

tình huống mật linh hoạt, sáng suốt. Theo Hồ Chí Minh năng lực tổ chức thực
tiễn của cán bộ còn thể hiện ở việc quyết định vấn đề cho đúng. Tổ chức thi
hành cho đúng, kiểm sốt cho đúng. Ngồi ra năng lực thực tiễn cịn thể hiện
ở chỗ phải biết liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và liên hợp
người lãnh đạo với quần chúng, tạo nên sự thống nhất đoàn kết trong hành
động.
Đảng từ ngày thành lập đến nay rất quan tâm đến cán bộ nói chung,
Đảng chỉ rõ cán bộ giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong các lĩnh vực công tác,
những người giữ chức vụ lãnh đạo trong một tổ chức, bộ máy có quyết định
những vấn đề quan trọng trên mọi lĩnh vực của đời sống của xã hội. Cán bộ là
những người lãnh đạo, động viên quần chúng tích cực tham gia thực hiện
đường lối của Đảng, tác động tích cực tới phong trào rộng lớn của quần chúng
làm cho quần chúng nhân dân thực sự là người chủ của xã hội. Đại hội lần thứ
VI của Đảng đã khẳng định: Đổi mới cán bộ các cấp là mắt xích quan trọng
mà Đảng ta cần phải nắm để thúc đẩy cơng việc cải cách có ý nghĩa: Tại hội
9


nghị BCH lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng khẳng định
"Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của nhà nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng”1 và đã cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiêu chuẩn chung cho cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ, phục vụ nhân dân kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phấn đấu thực hiện có kết quả
đường lối của đảng chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Khơng tham nhũng và kiên
quyết đầu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực
khơng cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.

- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của
đảng chính sách pháp luật của nhà nước; có trình độ văn hố, chun mơn, đủ
năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ
được giao2. Ngồi tiêu chuẩn chung nói trên cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước đoàn thể nhân dân cịn phải:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên lập trường giai cấp công nhân,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển , tổng
kết thực tiễn, tham gia xâydựng đường lối chính sách pháp luật, thuyết phục
tổ chức nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đầu tranh bảo vệ quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nướ:
- Gương mẫu về đạo đức lối sống. Có tác phong dân chủ và khoa học,
có khả năng tập hợp quần chúng, đồn kết cán bộ.
- Có ý thức về khoa học lãnh đạo quản lý . Đã học tập có hệ thống ở
hoạt động thực tiễn có hiệu quả3 . Quan điểm của Đảng là xây dựng đội ngũ
1
2
3

Văn kiện Hội nghị TW3 khóa VIII, tr 66
Văn kiện hội nghị TW3, khóa 8, trang 79-80
Nghị quyết TW3, khóa 8, trang 80
10


cán bộ xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời ky đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước. Phải quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy
truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn
với tổ chức đổi mới cơ chế, chính sách. Tuyển chọn, giáo dục rèn luyện bồi
dưỡng cán bộ phải thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng

của quần chúng. Đảng cần có chính sách , qui chế tơn vinh người cố cơng. Bố
trí sử dụng đúng người có năng lưc, hết lịng vì dân, vì nước; khuyến khích
những người năng động sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới. Xây dựng và
thực hiện chính sách phát triển va trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào
lĩnh vực quan trọng. Không phân biệt người trong Đảng và người ngoài Đảng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định, xác định rõ trách nhiệm của
tập thể và trách nhiệm cá nhân, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Mở rộng và phát
huy dân chủ, thực hiện công khai minh ạch trong công tác cán bộ. Thực hiện
tốt cơ chế tuyển chon, bổ nhiệm bổ nhiệm lại, quản lý, giám sát cán bộ sau
bầu cử, bổ nhiệm. Đổi mới mạnh mẽ triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá
qui hoạch, đào tạo bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực
hiện chính sách cán bộ. Đánh giá cán bộ phỉa cơng khai minh bạch, khách
quan, tồn diện và cơng tâm, lấy kết quả hồn thành nhiệm vụ chính trị làm
thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Không bổ nhiệm, đề bạt, những
người không đủ phẩm chất và năng lực.
1.2. Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác cán bộ
Lãnh đạo công tác cán bộ là những công việc mà cấp uỷ, tổ chức đảng
tiến hành nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, đảm bảo cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các chỉ
thị, nghị quyết của cấp trên của tổ chức đảng được thực hiện có hiệu quả.
Cơng tác cán bộ của Đảng gồm nhiều cơng việc (có thể gọi mỗi cơng
việc là một khâu của công tác cán bộ). Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc",
11


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng những công việc chủ yếu như: huấn
luyện cán bộ; dạy cán bộ; dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ; cách đối với cán bộ;
chính sách cán bộ ... Theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong các Văn
kiện Đảng, Đảng ta chỉ ra những khâu chủ yếu của công tác cán bộ như: xây

dựng tiêu chuẩn cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nhận
xét, đánh giá cán bộ; luân chuyển cán bộ; nhân dân tham gia xây dựng và
giám sát cán bộ; kiểm tra cán bộ; quản lý cán bộ; chính sách cán bộ ...
Cơng tác cán bộ có vai trị rất quan trọng, nó tạo nên đội ngũ cán bộ
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ
muốn có cán bộ tốt phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phải tìm ra những cán bộ
có bản lĩnh, có năng lực cơng tác tốt để giao trọng trách. Đó là mấu chốt để
chỉ thị, nghị quyết của Đảng thành hiện thực.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh dạy rằng: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Trong
công cuộc đổi mới, nhất là thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, Đảng ta khẳng định vai trị quan trọng của cơng tác cán bộ và chỉ
rõ: “Mục tiêu của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có
chất lượng mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngành, các cấp và
cơ sở”.
Nói cách khác, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay
là nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị, có năng lực tổ chức,
năng lực cơng tác tốt; một đội ngũ cán bộ có trình độ chun mơn nghiệp vụ,
có phẩm chất chính trị trong sáng và đạo đức lối sống lành mạnh; đào tạo cho
Đảng, Nhà nước những cán bộ gương mẫu, đi đầu trong mọi khó khăn, thách
thức; tạo ra một đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng tốt; trẻ hoá đội ngũ
cán bộ và thu hút nhân tài.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng và công tác
cán bộ là khâu “then chốt” của cơng tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Đó là quan điểm, nguyên tắc nhất quán của Đảng ta, là sự đúc kết sâu sắc từ
12


lý luận và thực tiễn lãnh đạo của Đảng qua nhiều thập kỷ, là sự kế thừa quan
điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Bởi,

cán bộ là gốc của mọi cơng việc; cơng việc có thành cơng hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém; khi đã có đường lối chính trị đúng đắn thì yếu tố quyết
định sự thành bại của cách mạng là công tác tổ chức và cán bộ; Đảng thống
nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị; mục tiêu, lý tưởng của Đảng không thay đổi, nhưng
nhiệm vụ của từng thời kỳ lại khác nhau, do đó cơng tác tổ chức, cán bộ phải
luôn luôn đổi mới để đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử.

13


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
2.1. Thực trạng vai trị lãnh đạo cơng tác cán bộ của Đảng
Tháng 6 năm 1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã ra Nghị quyết về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua 10 năm thực hiện chiến lược cán bộ đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có trình
độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, đóng góp xứng đáng vào thành tựu rất quan
trọng của chiến lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội và công cuộc đổi mới
đất nước.
2.1.1. Đánh giá chung
- Thành tựu
Một là, Đảng và Nhà nước đã thể chế hóa, cụ thể hóa được một bước
nhiều chủ truơng, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ đề ra trong
chiến lược cán bộ của Đảng.
Từ sau khi có Chiến lược cán bộ , Bộ Chính trị các khóa VIII,IX,X
đã ban hành và chỉ đạo thực hịên nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy
định về cán bộ và công tác cán bộ; cac cấp ủy, tổ chức đảng đã thể chế

thành các quy chế, quy trình cơng tác cán bộ của địa phương, ngành, đơn vị
để thực hiện. Quốc hội đã thông qua luật cán bộ, cơng chức; Chính phủ đã
ban hành nhiều quyết định, quy định về chế độ, chính sách quản lý, tuyển
dụng, bổ nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, cơng chức. Nhờ đó cơng
tác cán bộ đã dần đi vào nề nếp, tạo ự thông nhất rong việc thực hiện và
góp phần mang lại hiệu quả chung trong công tác cán bộ.
Hai là, công tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới; đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu:
quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy họach, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố
14


trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và thực hiện chính sách cán bộ; trong đó
cơng tác quy họach và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực.
Ba là, nội dung, phương pháp , cách làm đổi mới, tiến bộ; dân chủ,
công khai trong công tác cán bộ được mở rộng trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng
thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc quy
định cán bộ, đảng viên đang công tác ở các cơ quan, đơn vị thừơng xuyên giữ
mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú; thực hiện bầu cử có số dư; lấy phiếu tín
nhiệm của mặt trận Tổ quốc các cấp trong việc giới thiệu bầu cử Đại biểu
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp…là cách làm mới thể hiện tính dân chủ,
cơng khai trong cơng tác cán bộ.
Việc phân cáp quản lý cán bộ được thực hiện hợp lý hơn; công tác kiểm
tra, giám sát trong công tác cán bộ được tăng cường; công tác bảo vệ chính trị
nội bộ tiếp tục được quan tâm và đang chuyển hướng sang xem xét, giải quyết
những vấn đề chính trị hiện nay…đã góp phần từng bước đổi mới công tác
cán bộ. Việc quyết định gắn nhiệm kỳ Đại hội Đảng với nhiệm kỳ Quốc hội,
hội đồng nhân dân các cấp, với kế họach phát triển kinh tế xã hội 5 năm đã
làm rõ hơn yêu cầu, mục tiêu thực hiện chiến lược cán bộ trong từng giai đọan

cụ thể.
- Hạn chế, tồn tại
- Việc quán triệt, triển khai Nghị quyết về chiến lược cán bộ chưa đồng
đều, sự chỉ đạo và tổơ chức thực hiện cịn lúng túng. Nhiều khuyết điểm, yếu
kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục. Tuy đã có cố gắng thể chế
hóa hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm của Đảng về cơng tác cán bộ
nhưng cịn chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Thiếu cơ chế có hiệu lực để phát
huy dân chủ, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ
yếu kém, trì trệ; quy trình bổ nhiệm cán bộ kéo dài nhưng vẫn còn sơ hở. Việc
tạo nguồn và đào tạo cán bộ trẻ từ học sinh, sinh viên xuất sắc trong và ngòai
15


nước khơng thành cơng; chưa có chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và
thu hút nhân tài vào các lĩnh vực quan trọng của đất nước, vào công tác trong
các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Công tác cán bộ chưa góp phần đẩy lùi
tham nhũng, tiêu cực; chưa thể hiện rõ vai trò của nhân dân trong tham gia
xây dựng Đảng cũng như trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quán triệt đầy đủ
quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng,
dẫn đến thiếu kiên trì, thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ, thiếu tầm chiến lược, tư
duy theo nhiệm kỳ. Việc bố trí, sử dụng cán bộ mới chỉ chú ý đến yêu cầu
hịan thành nhiệm vụ trước mắt, ít quan tâm đến việc đào tạo cán bộ cho lâu
dài; trong nhiều trường hợp còn nặng về chuyển dịch theo thứ tự, thâm niên,
chưa phù hợp với sở trường công tác, ngành nghề đào tạo; chậm khắc phục
tình trạng cục bộ, khép kín, hẫng hụt cán bộ ở nhiều địa phương, ngành. Việc
giải quyết tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nâng cao trình độ, năng lực
của đội ngũ cán bộ vừa qua chưa trúng, chưa thành công. Công tác quy họach,
đào tạo bồi dưỡng đào tạo cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu địa

phương, đơn vị chưa quan tâm đúng mức; ít quan tâm chú ý sử dụng và phát
huy khả năng đóng góp của người ngịai Đảng trong các lĩnh vực quản lý và
phát triển đất nước. Hầu hết chức vụ lãnh đạo, quản lý đều do đảng viên, cấp
ủy viên đảm nhiệm, dẫn đến quan niệm máy móc cho rằng đã là Bộ trưởng,
giám đốc sở..phải là ủy viên Trung ương Đảng, tỉnh ủy viên…, đã là cấp ủy
viên thì làm việc gì cũng được.
- Mơi trường làm việc của cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến
khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ; chưa cổ vũ ý chí
phấn đấu vươn lên, sự gắn bó mật thiết của cán bộ đối với cơng việc, với cơ
quan, với hệ thống chính trị. Đầu vào, đầu ra trong công tác cán bộ không
thông thóang, khó phát hiện được người tài, nặng về quá trình, thâm niên.
Khơng quan tâm đúng mức đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ cán
bộ, công chức và người lao động; còn cào bằng trong thưởng, phạt, khen
16


chê…Nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không đầy đủ,
không rõ trách nhiệm cá nhân; tư phê bình và phê bình trong nhiều cấp ủy và
tổ chức Đảng cịn x xoa, hình thức hoặc bị lợi dụng để ca tụng nhau hay
hãm hại nhau. Mặt khác sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường cùng với
chủ nghĩa các nhân ở một bộ phận cán bộ dẫn đến nạn chạy chức, chạy quyền,
chạy tội, chạy chổ tinh vi hơn, nguy hiểm hơn. Tâm lý chỉ có thăng quan tiến
chức mới là tiến bộ hoặc chức quyền đi liền với bổng lộc đang gây ra những
bức xúc trong đội ngũ cán bộ, trong nhân dân, làm giảm hiệu quả cơng tác,
làm suy yếu Đảng. Nhìn chung việc đổi mới cơng tác cán bộ cịn chậm so với
đổi mới kinh tế xã hội.
2.1.2. Đánh giá cụ thể công tác lãnh đạo trong từng khâu của công
tác cán bộ
- Đánh giá cán bộ
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đa cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với từng lọai

cán bộ, một số nơi đã xây dựng được tiêu chuẩn chức danh cán bộ cho ngành,
địa phương, đơn vị để làm cơ sơ đánh giá cán bộ. Việc đánh giá cán bộ đã
được thực hiện theo quy trình, quy chế công khai theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ. Diện lấy thông tin vê cán bộ được mở rộng hơn, một số nơi có cơ
chế để nhân dân tham gia nhận xét, đánh giá cán bộ; từng bước khắc phục
tình trạng nể nang, né tránh trong tự phê bình và phê bình. Một số cấp ủy
Đảng đã có đổi mới trong phương pháp và quy trình nên việc đánh giá cán bộ
hiệu quả hơn, thực chất hơn.
Tuy nhiên đánh giá cán bộ được coi là khâu tiền đề quan trọng nhất
nhưng vẫn là khâu khó nhất và yếu nhất, khó nhất là đánh giá cái tâm, cái tầm
và bản lĩnh chính trị của cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là hình thức, chưa phản
ánh đúng thực chất cán bộ, chưa lấy hiệu quả công việc làm thức đo chủ yếu
trong đánh giá cán bộ; cịn cảm tính, hình thức, x xoa, chiếu lệ; thiếu tính
chiến đấu, thiếu tinh thần xây dựng trong đánh giá cán bộ. Mặt khác nhiều
17


cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ chưa
thật sự chú trọng, thiếu biện pháp cụ thể quản lý cán bộ, hiểu và nắm sâu về
tư tưởng, lập trường, khả năng hịan thành nhiệm vụ, uy tín cá nhân, quan hệ
xã hội của bản thân và gia đình cán bộ; có trường hợp cịn khơng biết mặt cán
bộ, dẫn đến việc nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thực chất, chưa khách quan,
chưa sát.
- Quy họach cán bộ
Quy họach cán bộ đã gắn với nhiệm vụ chính trị ; lấy quy họach cấp
dưới làm quy hoach cho cấp trên, thực hiện quy họach mở và động, xây dựng
quy họach cấp ủy làm cơ sở quy họach cac chức danh cán bộ lãnh đạo Đảng,
chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các đòan thể, thực hiện quy hoạch đồng bộ
ở ba cấp; số lượng cán bộ được quy hoach vào từng chức danh cán bộ lãnh

đạo, quản lý bình quân đạt từ 1,5 đến lần so với số lượng cần bầu cử, bổ
nhiệm. Công tác quy họach cán bộ thời gian qua thực hiện tương đối tốt và
đang đi dần vào nề nếp.
Mặt yếu kém trong công tác quy họach cán bộ là thực hiện chưa đồng
đều, khối địa phương thực hiện tốt hơn, nghiêm túc hơn khối bộ ngành, cơ
quan trung ương. Cịn phổ biến tình trạng khép kín trong từng ngành, từng địa
phương, chưa thực hiện được quy hoạch đồng bộ từ trên xuống dưới; chưa
bảo đảm sự liên thông, gắn kết giữa quy hoach của cấp duới với quy hoạch
cấp trên, giữa trung ương với địa phương, giữa các bộ, ban ngành, giữa cán bộ
lãnh đạo đảng, đòan thể với cán bộ lãnh đạo, qủan lý Nhà nước…, chưa bảo
đảm được cơ cấu ba độ tuổi trong quy họach cán bộ. Chưa xây dựng được
quy họach tổng thể đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị. Việc quy họach
cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở còn lúng túng.
Do chưa có quy định chung thống nhất, nên nhiều bộ, ngành, địa
phương mới tập trung quy họach cán bộ lãnh đâo, quản lý, chưa chú ý quy
họach cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý san xuất kinh doanh, cán bộ khoa
học, chuyên gia, cán bộ trong các cơ quan tư pháp, cán bộ đối ngọai,…Nhìn
18



×