Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

tiểu luận cao học Vai trò lãnh đạo công tác tư tưởng của đảng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.67 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác
tư tưởng là linh hồn của mọi công tác khác. Tư tưởng đúng đắn, thông suốt,
lập trường tư tưởng vững vàng là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên sự đoàn
kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
Bước vào thời kỳ đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tư
tưởng đã bám sát cuộc sống, góp phần xác lập và phát triển quan điểm đổi
mới, khơi dậy và nhân lên sức sáng tạo, niềm tin của nhân dân, sức mạnh tổng
hợp mới của toàn dân tộc, đưa đất nước vượt qua những khó khăn thử thách,
tạo tiền đề cho thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước. Công tác tư tưởng đã thể hiện được vai trò to lớn của
mình trong việc chống lại những tư tưởng, luận điệu sai trái, phản động, góp
phần tạo nên sự ổn định chính trị - xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và những giá trị, truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong bối cảnh toàn
cầu hóa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn trong lãnh đạo công tác tư
tưởng mà Đảng ta đạt được thì một số tiêu cực về tư tưởng đang biểu hiện
phức tạp và nghiêm trọng hơn, tiềm ẩn các nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định
chính trị. Tình trạng suy thóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống trong
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục có
hiệu quả đã làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Trong Đảng đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm
trạng bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng đến tính đồng thuận trong xã hội ta.
Đặc biệt trong những năm gần đây, tình trạng xung đột sắc tộc,
tôn giáo diễn ra nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh đó, các nước lớn dùng thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” hoặc can thiệp trực tiếp nhằm thay đổi chế độ
chính trị ở một số quốc gia, dân tộc. Thực trạng đó là mối đe dọa nghiêm
trọng đến an ninh chính trị, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gai của các



nước. Ở nước ta, các thế lực thù địch câu kết chặt chẽ với bọn phản động
người Việt lưu vong ra sức phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta. Lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo và nhân quyền, chúng ra
sức lối kéo những phần tử phản động để chia rẽ, gây hằn thù dân tộc dân tộcở
những địa bàn trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Mục tiêu mà
chúng hướng đến là làm mất ổn định chính trị - xã hội, gây bạo loạn lật đổ chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Trong khi đó trong Đảng đã xuất hiện sự suy thóai về nhận thức, tư
tưởng chính trị của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Hiện tượng
phai nhạt lý tưởng cách mạng, sa sút phẩm chất đạo đức, tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí có chiều huớng phát triển. Đảng chưa thường xuyên làm tốt
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chưa phê phán mạnh và đấu tranh kiên
quyết chống chủ nghĩa các nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, những quan
điểm mơ hồ sai trái trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chính vậy tôi mong
muốn được thực hiện đề tài “Vai trò lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần tìm hiểu rõ
hơn những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, cũng như thực trạng
trong công tác tư tưởng. Qua đó tổng hợp những phương hướng, nhiệm vụ và
các giải pháp nhằm nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình hiện nay.


B. PHẦN NỘI DUNG
I. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác tư tưởng.
1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác tư
tưởng.
Theo quan điểm của các nhà Mác xít, công tác tư tưởng là những hoạt
động nhằm củng cố, phát huy hiệu quả công tác lý luận, đưa lý luận thâm
nhập vào quần chúng. Biến tri thức thành niềm tin vững chắc, thành ý chí,
tình cảm, nghị lực kiên định, biến lý luận thành sức mạnh vật chất để cải tạo

thế giới hiện thực. “Vũ khí của phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự
phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”.[1]
Công tác tư tưởng và công tác lý luận là hai mặt của một vấn đề, không
thể tác rời. Khi nó về mối quan hệ này Lênin cho rằng, công tác tư tưởng và
công tác lý luận không có mục đích tự thân, vừa phải phục vụ cho công tác tư
tưởng vừa tiến hành trên cơ sở công tác lý luận. Công tác tư tưởng và công
tác lý luận, có mối quan hệ biện chứng nên không thể coi nhẹ mặt nào.
Bất kỳ một đảng cách mạng nào cũng phải coi cả hai công tác đó là
nhiệm vụ quan trọng, cần phải tiến hành đồng thời. Lênin nói “Không thể là
một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại khôngblàm công tác lý luận nói trên, cũng
như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó
theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại khômh tuiyên truyền trong công
nhân những kết luận của lý luận đó”[2]
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng : các hệ thống lý luận tạo thành “ bối
cảnh xã hội” và “cơ sở lý luận” của các phong trào thực tiễn. Vai trò định
hướng, dẫn đường của công tác lý luận cũng được V.I. Lê Nin nêu rõ: “Chỉ
Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”[3]


Với vai trò như vậy công tác tư tưởng, lý luận có ảnh hưởng rất lớn đến
sự thành bại của cách mạng, như C.Mac và Ph.Ăngghen khảng định: “…mỗi
sai lầm phạm phải, mỗi thất bại đều là hậu quả không thể tách khỏi của những
luận điểm lý luận, không chính xác của cương lĩnh ban đầu”[4]
Công tác tư tưởng, lý luận không chỉ đóng vai trò định hướng dẫn
đường, là cơ sở của các hoạt động thực tiễn, mà còn là sức mạnh góp phần cải
biến hiện thực. Lênin chỉ rõ: Tư tưởng trở thành sức mạnh khi nào tư tư tưởng
thâm nhập vào quần chúng.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng công tác tư
tưởng, lý luận có những nhiệm vụ căn bản đó là: Bảo vệ tư tưởng Cộng sản
Chủ nghĩa đấu tranh với hệ tư tưởng Tư sản. Tuyên truyền, giải thích các
quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng đảm bảo sự thống nhất trong toàn
Đảng.
2. Quan Điểm Của Hồ Chí Minh Về Công Tác Tư Tưởng
Trong cách mạng chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm lãnh
đạo công tác tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh người đã sáng lập và rằng luyện
Đảng cộng sản Việt Nam tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại trên
nền tảng của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã chỉ rõ nền tảng tư tưởng của
Đảng là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với một Đảng cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai củng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam”[5]
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng là vấn đề cốt lõi trong đời sống tinh thần
của con người, tư tưởng luôn giữ vai trò chủ đạo chi phối, mọi suy nghĩ, hành
động của con người. Công tác tư tưởng là sự tác động lên trạng thái tư tưởng,
tình cảm, tinh thần của những đối tượng khác nhằm thúc đấy cách mạng tiến
lên.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng điểm quan trọng nhất trong công tác tư
tưởng là lòng tin vào con người, tin vào những gì tốt đẹp và cao thượng của
con người. Người chỉ rõ: “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu dần bị mất đi, đó là thái độ của người cách mạng”.
Trong công tác tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công
tác lý luận “có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn,
mới phát triển được tài năng và lý luận vô cùng tận của mình”. Tuy nhiên

Người luôn nhấn mạnh, lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành,
nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống… Tuyệt đối tránh tình trạng “lý luận
suông”, “nói suông” trong cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cán bộ lãnh
đạo.
Như vậy “công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một gai
cấp , một chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng
trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư
tưởng. Công tác tư tưởng dưới Chủ nghĩa Xã hội là hành động có mục đích
của Đảng cộng sản, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng Xã
hội Chủ nghĩa thành hệ tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã
hội. Hình thành, phát triển, truyền bá cương lĩnh, đường lối, chính sách của
Đảng trong xã hội, cổ vũ, động viên mọi người hành động chủ động, tích cực,
sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu Xã hội Chủ nghĩa, đấu tranh chống lại những
luận điệu sai trái, phản động, bảo vệ Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
CHí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ gìn phát huy bản sắc dân
tộc”.[6]
II. Thực trạng công tác tư tưởng của Đảng.
1. Một số cán bộ, đảng viên suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng,
chính trị, đạo đức và lối sống.


Trong Đảng xuất hiện hiện tượng xa rời, phai nhạt lý tưởng cách
mạng, chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng cơ hội, thực dụng có chiều hướng tăng.
Hiện tượng quan liêu, mất dân chủ gây bất bình trong nhân dân diễn ra nhiều
nơi, làm xáo trộn đời sống chính trị - xã hội nông thôn, điển hình là vụ Thái
Bình năm 1997. Theo kết quả điều tra thống kê vào năm 2006 – 2007, số
người được hỏi chó rằng nạn tham nhũng là vấn đề bức xúc nhất chiếm 89%,
và trong đó có 83% là cán bộ hưu trí, đảng viên.[7]
Sự suy thoái đạo đức trở thành mối lo của toàn xã hội, theo kết quả điều
tra vào năm 1997 có đến 43,07% ý kiến cho rằng sa sút, trong khi đó có

40,16% khẳng định khá hơn. Lối sống sùng ngọai, coi thường những giá trị
văn hóa, dân tộc, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, xô bồ, cá nhân, vị kỷ…đã
gây ra tác hại đến thuần phong, mỹ tục của dân tộc, không ít người vì đồng
tiền chà đạp lên nghĩa tình gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp…Trong thanh niên, bên cạn những người có chí tiến thủ, chăm chỉ học
hành, lao động vì sự nghiệp ngày mai, thì cũng không ít bộ phận thanh niên
sống không có lý tưởng, không có ước mơ, hoài bão, đam mê cờ bạc, rượu
chè, nghiện hút, mại dâm… gây mất ổn định xã hội, làm tăng gánh nặng gia
đình và xã hội. Điều đáng lo ngại hơn đó là tình trạng này đang có xu hướng
tăng lên hiện nay.
Dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ, càng mang tính hình
thức, tính chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng và đảng viên kém. Đặt biệt là
đảng viên trong các cơ quan, các đơn vị kinh tế không dám phê bình khuyết
điểm của người đứng đầu vì sợ trù dập, mất mát những lợi ích thiết thân.
Thiếu dân chủ thường đi đôi với việc lãnh đạo, quản lý độc đoán, thậm chí gia
trưởng, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, chấp hành nghị quyết của
Đảng, pháp luật của nhà nước không nghiêm.
Tệ nạn mại dâm và các tệ nạn xã hội khác đang bùng nổ HIV/AIDS.
Kết quả điều tra của trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội năm 2002 có 67%,
2003 có 65%, 2004 có 63%, 2007 có 63%. Đánh giá nạn ma túy vào năm


2002 có 55%, 2003 có 55%, 2004 có 63% đánh giá sự phát triển của
HIV/AIDS là những vấn đề bức xúc nhất.[8]
2. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội trong và ngoài nước
tăng cường chống phá.
Âm mưu của các thế lực thù địch là xóa bỏ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù
địch đã đẩy mạnh chiến dịch “diễn biến hòa bình”, dùng thủ đoạn hòa bình để

giành thắng lợi, là phương pháp “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”,
“cách mạng nhung”, “cách mạng phố”…Trong chiến lược này, hoạt động tư
tưởng – văn hóa được coi là “mũi đột phá”.
Ra sức xuyên tạc lịch sử, truyền bá các quan điểm sai trái, làm
rối loạn tư tưởng, truyền bá các quan điểm sai trái, làm khủng hoảng niềm tin
là những thủ đoạn của những kẻ thù địch. Chúng coi đây là là mũi nhọn chọc
sâu, tạo ra sự chống đối từ nội bộ xã hội ta để phá ta từ bên trong phá ra. Bọn
chúng thông qua các tổ chức phi chính phủ, các hình thức hợp tác về kinh tế,
văn hóa, giáo dục, khoa học…để thâm nhập, làm chuyển hóa tư tưởng,
chuyển hóa chính trị, mua chuộc cán bội, cài nội gián, móc nối những với
những người bất mãn, cơ hội chính trị, những người nắm được bí mật quốc
gia. Đưa học sinh, sinh viên nước ngoài vào Việt Nam học tập, nghiên cứu
với những mục đích đen tối.
Lợi dụng các hoạt động tôn giáo, dân tộc để can thiệp vào nội
bộ nước ta, lợi dụng các diễn đàn công khai để tuyên truyền “tự do”, “dân
chủ”, “dân quyền”, tuyên truyền những quan điểm cá nhân ích kỷ, lối sống
thực dụng, suy đồi, vu cáo Đảng ta vi phạm dân chủ, nhân quyền để tạo cớ
can thiệp vào nước ta. Cuối năm 2005, có 53 đài phát thanh và truyền hình,
370 tờ báo và tạp chí tiếng Việt tuyên truyền chống phá Việt Nam. Các thế
lực thù địch tung một số lượng lớn tài liệu, sách, báo, truyền đơn, băng đĩa có
nội dung phản động, đồi trị vào nước ta. Chúng lợi dụng những thư từ góp ý,


những cuộc thảo luận, những tranh luận trong nội bộ ta để xuyên tạc, cắt xén,
nhào nặn theo ý chúng rồi đưa lên Internet, tổ chức gặp gỡ, phỏng vấn, ve vãn
những đối tượng họ cho là có thể lôi kéo được, trịt để khai thác các thông tin
từ những phần tử cơ hội chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức phản động người Việt sống lưu vong ở nước ngoài
tiếp tục sử dụng chiêu bài chống tham nhũng, đòi dân chủ, nhân quyền để
tuyên truyền, kích động chia rẽ nội bộ ta, tìm mọi cách câu kết, móc nối với

những người bất mãn trong nước, kêu gọi người Việt ở hải ngoại ủng hộ, tiếp
sức cho lực lượng “quốc nội” nổi dậy. Chúng dựng lên phong trào đòi áp
dụng mô hình “xã hội dân sự” mà thực chất là đòi tự do dân chủ vô chính phủ
và đang cố dựng lên những “ngọn cờ” để chhống ta.
Một số phần tử phản động lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền,
vận động, lôi kéo quần chúng theo đạo, gây thanh thế, tranh giành ảnh hưởng,
đòi thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. Một số chức sắc tôn giáo truyền
đạo trái phép, kích động tín đồ chống lại những chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Lợi dụng các vùng sâu, vùng xa như Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ, chúng lôi kéo tín đồ, kể ảc cán bộ, đảng viên đi lễ
bái, tham gia hành đạo và cách hoạt động mê tín dị đoan.
Toàn bộ những hoạt động chống phá trên của bọn phản động,
tuy có những biểu hiện khác nhau, với những tính chất, phạm vi, mức độ khác
nhau song chúng đều tập trung vào những vấn đề căn bản sau:
+ Phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
từ chổ phủ nhận một luận điểm cho đến phủ nhận toàn bộ, chúng cho rằng
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã lỗi thời, đối lập chủ nghĩa Mác với Lênin, đối lập
chu nghĩa Mác với tư tưởng Hồ Chí Minh..
+ Phủ nhận con đường chủ nghĩa xã hội. Chúng cho rằng đi lên
con đường chủ nghĩa xã hội là ảo tưởng, viển vong, kinh tế thị trường không
song hành với chủ nghĩa xã hội, muốn đất nước giàu lên phải hội nhập vào
chủ nghĩa tư bản, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.


+ Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, chúng cho rằng, một
Đảng Cộng sản lãnh đạo là phi dân chủ, cần phải đa nguyên về chính trị, đa
đảng lãnh đạo mới có dân chủ.
+ Phủ nhận thành tựu của cách mạng, thành tựu của công cuộc
đổi mới của Đảng và nhân dân ta, chúng thổi phồng những khuyết điểm, bôi
đen hiện thực rồi quy đó là do đuờng lối sai, do sự lãnh đạo của quản lý yếu

kém của Đảng và Nhà nước.
+ Kích động, chia rẽ nội bộ, tung ra luận điệu trong Đảng, trong
Trung ương, Bộ Chính tri, có phe này, phái kia, nội bộ mất dân chủ, mất đoàn
kết. Bịa đặt, xuyên tạc lịch sử, vu cáo, bôi nhọ cán bộ, kể cả cán bộ cao cấp
của Đảng, thậm chí bôi nhọ Bác Hồ…vv
3. Trong dư luận nổi lên một số tình hình về nội bộ của Đảng.
Sở dĩ xảy ra vấn đề nay là vì có một số vụ việc trong Đảng tuy
đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị xem xét, xử lý và kết
luận, nhưng trong Đảng vẫn còn những ý kiến khác nhau. Do nhiều vấn đề
phức tạp, lại thiếu thông tin chính thức nên trong một số đơn, thư của cán bộ,
đảng viên góp ý, phê bình ra kiến nghị với Đảng có phần thiếu bình tĩnh, thiếu
chính xác, có trường hợp mang tính suy diễn. Một số đơn thư đưa lên mạng
đã bị bọn phản động lợi dụng khai thác thông tin để bôi nhọ Đảng, lợi dụng
để xuyên tạc, gieo rắc hoài nghi trong dư luận và đã kích sự lãnh đạo của
Đảng.
4. Tình hình tôn giáo, dân tộc và nội bộ nhân dân có nhiều phức
tạp.
Ở nước ta dù có sự nhất trí về chính trị và đồng thuận xã hội
ngày càng tăng, và đại bộ phận nhân dân đồng tình lên án, bác bỏ luận thuyết
“một dân tộc – một quốc gia”. Đồng thời tích cực đấu tranh làm thất bại âm
mưu thành lập cái gọi là “ Vương quốc Mông” ở Tây Bắc, Nhà nước “Đềga
độc lập” ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, trước những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân
tộc và tôn giáo phá hoại khối đoàn kết dân tộc các thế lực thù địch, một bộ


phận nhân dân các dân tộc thiểu số có trình độ nhận thức kém, bị kẻ thù lôi
kéo, dụ dỗ và biểu tình, gây bạo loạn, điển hình là cuộc bạo loạn chính trị ở
Tây Nguyên năm 2001 và 2004.
Cùng với những sai phạm, khuyết điểm của chính quyền các
cấp chậm sửa chữa giải quyết, đã làm phát sinh mâu thuẫn xã hội gây nên tình

trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp trong nông dân. Theo thống kê của Bộ
Nội vụ, trong 10 năm (1987 – 1997), ở nông thôn nước ta xảy ra 77.995 vụ
tranh chấp, khiếu kiện. Riêng ở tỉnh Thái Bình, trong năm 1997 có 251/285
xã có khiếu kiện[9]. Qua đó cho ta thấy được rằng tình trạng khiếu kiện của
nhân dân ngày càng tăng lên.


Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng trên:



Nguyên nhân chủ quan:
Công tác quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị
của ta vẫn còn nhiều yếu kém. Hiệu quả đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí chưa cao. Việc chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính
sách của Đảng, nhà nước chua nghiêm. Một số tổ chức đảng, nhất là những
cơ quan bộ ngành cấp cơ sở làm việc còn lỏng lẻo, cán bộ, đảng viên không
gương mẫu, đoàn kết nội bộ còn kém.
Kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và
trong xã hội còn nhiều mặt buông lỏng, việc xử lý sai phạm, khuyết điểm theo
kỷ luật của Đảng, pháp luật cảu nhà nước chưa nghiêm, và không kịp thời.
Nguyên tắc tập trung dân chủ, yêu cầu mở rộng dân chủ đối với việc giữa gìn
kỷ luật, kỷ cương chưa được đề cao, thực hiện quy chế dân chủ ở nhiều nơi
còn quá hình thức.
Công tác tư tưởng đã đạt được một số tiến bộ nhất định song
nhìn chung chưa theo kịp yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, chua thực
sự bám sát thựch tiễn, còn lúng túng, bị động trước những tình huống phức
tạp và cùng những biểu hiện tiêu cực, tính chiến đấu và sức thuyết phục còn
thấp. Một số cán bộ trực tiếp làm công tác tư tưởng trong các lĩnh vực báo



chí, phát thanh, truyền hình, văn hóa…còn thiếu nhạy cảm chính trị, bộc lộ xu
hướng “thương mại hóa”, xa rời tôn chỉ, mục đích.
Tổ chức đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, vu cáo, xuyên
tạc, âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch còn thiếu
chủ động, kịp thời, sắc bén. Nhiều cấp ủy chưa quan tâm chỉ đạo, chưa giành
công sức, phương tiện và cán bộ thảo đáng cho cuộc đấu tranh ngày càng
quyết liệt trên mặt trận tư tưởng.


Nguyên nhân khách quan.
Các thế lực thù điịch tăng cường chiến tranh tâm lý, đẩy mạnh
các hoạt động “diễn biến hòa bình”, ra sức kích động các phần tử cơ hội chính
trị, bộ phận cực đoan trong một số tôn giáo, các phần tử chống đối trong một
số dân tộc thiểu số….tăng cường gây rối, phát tán tài liệu vu cáo Đảng ta vi
phạm quyền dân chủ, nhân quyền. Chúng ra sức tác động vào giới trí thức,
văn nghệ sĩ, thanh niên, sinh viên những tư tưởng phản động
Lợ dụng những diễn biến phức tạp ở một số nước trong khối
SNG như Grudia, Ucraina, Cưrơgưaxtan, các thế lực phản động ra sứuc tán
dương cuộc “cách mạng cam”, “cách mạng màu”, gieo rắc tâm lý hoang
mang, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
III. Những chủ trương của Đảng đối với công tác tư tưởng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ : “Để tăng
cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi
mới về mọi mặt, đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán
bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”[10]
Để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công tác tư tưởng phải đổi mới toàn
diện và đồng bộ. Đảng ta chỉ rõ, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là điều kiện đảm bảo lãnh đạo, thực hiện thắng lợi Nghị
quyết VI của Đảng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng

Đảng, Hội nghị lần 5 Ban chấp hành Trung ương, khóa VI (6.1988) ra Nghị
quyết về một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị


quyết Đại hội VI của Đảng, Đảng ta khẳng định trong các nhiệm vụ cấp bách
về xây dựng Đảng thì đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng được dặt lên
hàng đầu, với hai nhiệm vụ cơ bản đó là:
+ Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, đúc
kết kinh nghiệm nhằm thiết thực đổi mới tư duy, cụ thể hóa kịp thời, đúng đắn
các nghị quyết của Đảng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế - xã
hội, trong đó cấp bách nhất là chống lạm phát.
+ Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về nội dung lẫn hình
thức, tổ chức và phương pháp, con người và phương tiện nhằm nâng cao giác
ngộ lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa và Cộng sản Chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương lần 6 (khóa VI) Đảng ta xác định:
+ Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nhân dân ta, là sự
lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng, đó là mục tiêu, là lý tưởng của
Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ
nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan
niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức bước đi và biện pháp
thích hợp.
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn là nề tảng tư tưởng của Đảng ta trong
chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh và hiệu lực của
Chuyên chính Vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động
có hiệu quả cao nhất.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Dân

chủ phải đi đôi với tập trung, kỷ luật, pháp luật với ý thức trách nhiệm cao.


+ Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với Chủ nghĩa quốc tế Vô sản và quốc tế
Xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều kiện mới.
Trước sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, cùng với những chuyển
biến phức tạp Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VI (8 –
1989) ra Nghị quyết về một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước
tình hình trong nuớc và quốc tế hiện nay. Nghị quyết chỉ ra những nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn ở các nước xã hội chủ nghĩa để rút
ra kinh nghiệm cho Đảng ta phòng và tránh những sai lầm trong lãnh đạo nói
chung, đặc biệt là trong công tác tư tưởng. Nghị quyết đã khẳng định những
thành tựu của công tác tư tưởng, như đã coi trọng hơn việc quán triệt quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sát thực tế hơn, phát hiện những
nhân tố tích cực, giúp các cơ sở khắc phục khó khăn, kịp thời uốn nắn những
nhận thức không đúng và những biểu hiện dao động về con đường xã hội chủ
nghĩa.
Tháng 3.1990, trước sự khủng hoảng nghiêm trọng ở các nước xã
hội chủ nghĩa, Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương, khóa VII ra Nghị
quyết về “tình hình các nước xã hội chủ nghãi, sự phá hoại của Chủ nghĩa đế
quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta. Nghị quyết Hội nghị đã phân tích
những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, trong đó nguyên nhân trực tiếp là
“xã rời hoặc từu bỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” và sự
phá hoại của chủ nghĩa đế quốc là một nguyên nhân trực tiếp. Khắc phục tư
tưởng bi quan, thất vọng, mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội. Khẳng định cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội trước mắt tuy gặp nhiều khó khăn song chắc chắn sẽ tiếp tục phát
triển.
Sự sụp đổ chế độ xã hôi chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu

đã tác động xấu đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, khiến
nhiều người hoang mang, dao động, giảm sút niềm tin vào con đường chủ


nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
VII của Đảng khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định 6 đặc trưng, 7 phương hướng xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là thành tựu trong hoạt
động lý luận của Đảng, đồng thời đánh dấu sự xác lập hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội Việt Nam.
Tuy nhiên nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuuộc
đổi mới chưa được là sáng tỏ, thêm vào đó các thế lực thù địch đẩy mạnh
những hoạt động phá hoại, mưu toan gây rối, làm mất ổn định chính trị để tạo
thời cơ tiến hành bạo loạn lật đổ. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ,
khóa VII (1-1994) đã quán triệt trong Đảng và trong nhân dân Nghị quyết của
Hội nghị công tác tư tưởng tập trung làm rõ những nội dung cơ bản sau:
+ Khẳng định thành tựu của công cuộc đổi mới, chỉ rõ những yếu kém
và đưa ra kết luận của Hội nghị: Mặc dù còn nhiều yếu kém phải khắc phục
song những thành tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra tiền đề đưa đất
nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ Công nghiệp hóa và Hiện
đại hóa đất nước.
+ Vạch ra bốn nguy cơ trước mắt: tụt hậu về kinh tế so với nhiều nước
trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những
lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện, nạn tham nhũng và
quan liêu, “diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch”
+ Xác định nhiệm vụ chủ yếu để hoàn thành thắng lợi mục tiêu Đại hội
VII đã đề ra, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hó và hiện đại hóa, tạo thêm cơ sở để chuyển sang thời kỳ mới.

Nhằm tăng cường sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, tạo ra sự nhất trí
trong nhân dân, góp phần giữ vững trận địa trên mặt trận tư tưởng và bảo vệ,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày 18-


2-1995, Bộ Chính trị ra nghị quyết sô 09- NQ/TW về một số định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay. Nghị quyết nêu sáu định hướng về công tác
tư tưởng:
+ Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn
+ Chế độ ta là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước ta là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản.
+ Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm
trong thời kỳ quá độ.
+ Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Phát triển nền văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Sau 10 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng đã tạo
ra bước phát triển mới trong công tác tư tưưởng, góp phần bổ sung và phát
triển đường lối đổi mới, cụ thể hóa một bước cương lĩnh chính trị. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6.1996) khẳng định “con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”[11]
Những định hướng tư tưởng của Đảng ta tạo ra sự ổn định chính trị, tư
tưởng. Đó là cơ sở quan trọng cho sự phát triển bền vững khi đất nước bước
vào thừoi kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại

hóa đất nước.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành
mạnh, Đảng chủ trương, trước hết phải bắt đầu từ trong Đảng, từ cán bộ, đảng
viên. Tháng 11- 1999 Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII tập trung bàn


về những vấn đề cơ bản và cấp bách về nhận thức, tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và một số vấn đề về tổ chức. Về chính trị,
tư tưởng, Hội nghị chỉ rõ Đảng phải kiên định những vấn đề quan điểm có
tính lý tưởng của Đảng ta, dân tộc ta, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, không chấp nhận
“đa nguyên, đa đảng”, Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân.
Mặc khác trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng đã giành được
những thắng lợi quan trọng, xong vẫn còn tiềm ẩn nhiều nhiều yếu tốn gây
mất ổn định, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Tác động của quá trình toàn
cầu hóa và mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng xấu đến tư tưởng
chính trị, làm mai một các giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng ta chỉ rõ, tình
trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ, cán bộ, đảng viên đang trở thành mối đe dọa cho sự
công bằng, dân chủ xã hội. Đại hội cũng đã xác định phương hướng, mục tiêu
và nhiệm vụ xây dựng đất nước trong hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, đồng thời
thông qua “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010”
Nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước đến thắng lợi,
nghị quyết Trung ương 5, khóa IX (3-2002) kịp thời xác định phướng hướng
của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới: “Kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt đường lối đổi mới,
phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và từ Trung ương đến
cơ sở. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng, đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời triển khai liên tục và sâu rộng


công tác tuyên truyền giáo dục nhằm phát huy chủ nghĩa yêu nước, phẩm chất
đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo…”[12]
Đứng trước công cuộc đổi mới đất nước của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta đã có nhiều thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, nội dung giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh chưa thống nhất và chưa đạt được chiều sâu tư tưởng, lý luận. Cán
bộ, đảng viên chưa gắn việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh với giải quyết
những vấn đề thực tiễn. Việc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh chưa
chủ động, kịp thời và sắc bén. Trước thực trạng đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí
thư Trung ương Đảng ra chỉ thị số 23-CT/TW Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới.
Nhằm đẩy mạnh công tác tư tưởng trong thời kỳ mới, ngày 1-8-2007,
Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 16- NQ/TW về công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí trước yêu cầu mới. Nghị quyết khẳng định những thành tựu, đồng
thời chỉ ra những hạn chế trong công tác tư tưởng, lý luận trong những năm
đầu thế kỷ XXI. Trung ương Đảng xác định mục tiêu của công tác tư tưửong,
lý luận và báo chí là: Tích cực góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội X của Đảng, củng cố tăng cường sự thống nhất về tư tưởng,
chính trị trong Đảng, sự đồng thuận về chính trị và tinh thần trong nhân dân,
giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
IV. Một số thành tựu và hạn chế
1. Thành tựu
Sau hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, công tác tư tưởng đã góp

phần khẳng định và bảo vệ lập trường chính trị đúng đắn của Đảng và nhà
nước trước tình hình phức tạp trong nước và trên thế giới, từng bước tạo ra sự
thống nhất trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, sự đồng thuận
trong xã hội trên nhiều vấn đề cơ bản như: mục tiêu xây dựng đất nước theo
tiêu chí “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, về
đường lối đổi mới toàn diện và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, về


thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh chống các
luận điểm sai trái, thù địch,làm thất bại những âm mưu, hành động chống phá
của các thế lực cơ hội, phản động, giữ vững ổn định chính tri.
Công tác tư tưởng đã góp phần tạo ra sự đoàn kết thống nhất trong toàn
Đảng và ngoài xã hội, xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân đối với Đảng và nhà nước.
Nét nổi bậc của công tác tư tưởng trong những năm qua đó là từng đổi
mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, khắc phục một phần biểu hiện của chủ
nghĩa giáo điều, kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí. Phòng ngừa và ngăn
chặn sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới nhiều hình thức.
Nhờ có sự đổi mới về tư duy mà công cuộc đổi mới ngày càng thu được
những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Nâng
cao khả năng phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng nguy hại của chủ
nghĩa cơ hội xét lại và những tư tưởng lệch lạc như: đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, đòi chuyển sang kinh tế tư nhân…Trong tư duy của Đảng, lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày
càng sáng tỏ.
Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng trong việc phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từng bước hình thành
những cơ sở khoa học cho việc hoạch định cương lĩnh, đường lối phát triển
kinh tế xã hội. Những năm qua mặc dù các thế lực ra sức phủ nhận, đi đến
xóa bỏ Chủ nghĩa Mác- Lênin, mặc dù có nhiều người hoài nghi, mất niềm tin

vào chủ nghĩa Mác – Lênin, và chủ nghĩa xã hội, nhưng Đảng ta vẫn sáng
suốt, nhận thức đúng tầm quan trọng của lý luận Mác – Lênin đối với cách
mạng Việt Nam.
Khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
chứng tỏ lý luận về một mô hình chủ nghĩa xã hội chung cho tất cả các dân
tộc không còn phù hợp. Trước tình hình đó, Đảng xác định mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam với sáu đặc trưng cơ bản. Đại hội VII chỉ rõ mô hình


chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều
kiện mới. Công tác nghiên cứu lý luận đã góp phần làm sáng tỏ con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Công tác tư tưởng đã trực tiếp góp phần hình thành và phát triển
đường lối đổi mới, nổ lực tìm tòi tổng kết thực tiễn, những sáng kiến của nhân
dân để xây dựng những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, củng
cố niềm tin cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân vào lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng trong
việc phát triển đường lối, xây dựng những luận cứ khoa học cho những quyết
sách lớn của Đảng và Nhà nước, hình thành những quan điểm của Đảng về
chủ ngghiax xã hội. Khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Công tác tư tưởng đã khơi dậy sức sáng tạo của nhân dân, tạo
nên sức mạnh tổng hợp, đưa đất nước vượt qua những thử thách, tạo lập nên
những thành tựu to lớn và rất quan trọng trên các mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, đối ngoại. Tích cực vào việc tuyên truyền chủ trương
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật nhà nước, đưa hệ tư tưởng cách
mạng và khoa học vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giúp họ
những hiểu biết về quy luật phát triển của xã hội và những tri thức khoa học,
về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, giúp cho cán bộ,
đảng viên gạt bỏ những tàn dư tư tưởng xấu còn rơi rớt lại cùng những tư

tưởng lệch lạc mới phát sinh.
Công tác tư tưởng là nhân tố quyết định trực tiếp đến năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cùng với công tác tổ chức, công tác tư
tưởng góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Công tác tư
tưởng có vai trò xây dựng và bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, chủ
trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, phát huy tính sáng tạo của các tổ chức Đảng và đảng viên.


Trong thời kỳ đổi mới, công tác tư tưởng có vị trí và tầm quan
trọng đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng và trong quá trình lãnh đạo cách
mạng của Đảng. Có thể nói rằng công tác tư tưởng đã góp phần xây dựng hệ
thống lý luận làm cơ sở cho hoạt động lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ
trí tuệ cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, không chỉ góp phần
vào xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên mà còn tham gia xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không chỉ tham gia
vào hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, mà còn cổ vũ ,
động viên, tuyên truyền giáo dục cả dân tộc hăng say lao động tự giác, quên
mình vì mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, đấu tranh với các tư tưởng sai
trái…
Có thể khẳng định rằng, công tác tư tưởng có liên quan trực tiếp
đến vận mệnh của Đảng, đến tương lai tiền đồ cảu cả dân tộc. Sự vững mạnh
của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là tiền đề và là điều kiện tiên quyết
để Đảng ta thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh đạo đất nhước xây
dựng chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trước những âm mưu thủ đoạn chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, kịp thời và linh hoạt của Đảng, công
tác tư tưởng đã góp phần làm phá sản chiến lược “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch, làm thất bại âm mưu lật đổ Đảng Cộng sản và chế độ xã

hội chủ nghĩa ở Việt Nam cùng mưu đồ làm “nhạt” Đảng “phai” Đoàn và
“thay máu” Cộng sản của các thế lực thù địch.
Để có được những thành tựu trên là do nhiều nguyên nhân,
nhưng chủ yếu là do nổ lực, phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta. Mặc dù tình hình trong nước và quốc tế diễn biến phức tạp, xong Đảng đã
tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ sáng
tạo, đề ra đường lối đổi mói đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước. Vì thế,
đã huy động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia xây dựng đất nước. Đại
bộ phận cán bộ cán bộ, đảng viên đã phát huy được vai trò tiền phong gương


mẫu, tổ chức động viên nhân dân thực hiện có kết quả các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Đó là kết quả hoạt động năng động, sáng tạo của
các Đảng bộ và nhân dân.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lơn mà Đảng ta đạt được trong hơn 20
năm qua, thì vẫn còn những tồn tại và nhiều yếu kém bất cập. Đáng quan tâm
đó là: lý luận chưa đi sâu, đi sát vào cuộc sống, công tác nghiên cứu lý luận
chưa ra khỏi tình trạng lạc hậu, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực
tiễn đổi mới. Số lượng các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học nhiều,
nhưng tính ứng dụng và hàm lượng khoa học không cao, tác phẩm dịch ra
nhiều hơn là công trình nghiên cứu trong nước. Điều này chứng tỏ trình độ
khoa học lý luận và khoa học xã hội - nhân văn còn hạn chế, tiềm lực nghiên
cứu lý luận còn mỏng, nhiều phê phán nhận xét cái cũ, cái hạn chế là điều rất
cần thiết xong những kiến nghị và giải pháp thì còn quá ít. Chính vậy công tác
nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận nhiều cơ quan khoa học chưa
đặt đúng tầm quan trọng của vấn đề, còn dung hòa, né tránh, ngại đấu tranh.
Sự tham gia của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên và chưa đông
đảo.

Mặt khác trước những biến động của tình hình thế giới, nhất là kể từ
sau khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, một bộ
phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có những biểu hiện dao động tư tưởng,
giảm sút niềm tin, một số nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác –
Lênin và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một số bị ảnh hưởng những luận điểm
sai trái nên đã đi đến phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phủ nhận thành quả của cách mạng. Một số cán bộ, đảng viên tỏ ra mơ
hồ trước những luận điệu của kẻ thù đã chủ trương thủ tiêu đấu tranh, nghi
ngờ sự lãnh đạo của Đảng, đề cao con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và
lối sống thực dụng, né tránh việc khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã


hội của nước ta. Đặc biệt đáng chú ý đó là một bộ phận cán bộ cấp cao của
Đảng không còn giữ niềm tin và lập trường vào chủ nghĩa duy vật biện chứng,
mà còn có biêu hiện duy tâm, tin vào thần linh. Sự suy thoái về đạo đức, lối
sống không giảm, thậm chí còn có xu thế tăng lên ở một số nơi. Nổi lên đó là
tình trạng mất đoàn kết kéo dài, kéo bè lập cánh để ăn chia nhau lợi ích, lợi
dụng sơ hở để làm giàu bất chính, thậm chí còn tiếp tay cho các băng nhóm xã
hội đen. Điển hình như vụ Năm Cam, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ Tăng Minh
Phụng, PMU18….
Thực hiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng chưa
nắm bắt được những quan điểm cơ bản của Đảng, nên dễ đi đến sai lầm.
Trong đó, biểu hiện rõ nhất đó là không thấy được mặt trái của nền kinh tế thị
trường, xem nhẹ hoặc buông lỏng vai trò của kế hoạch, lơi lỏng trong việc
quản lý kinh tế, quản lý văn hóa xã hội, trong giáo dục đạo đức…Trong quan
hệ hợp tác quốc tế, chưa nắm vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, không vì lợi
ích chung của đất nước, hoặc chỉ thấy lợi ích kinh tế mà xem nhẹ lợi ích về
chính trị, văn hóa - xã hội.
Công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu tính chiến đấu, phương pháp
chưa linh hoạt, chưa tạo được sự nhận thức thống nhất cao và thông suốt với

một số vấn đề trong chủ trương và đường lối của Đảng, chưa thường xuyên
làm tốt công tác chính trị, chưa phê phán mạnh và kiên quyết trong đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân. Tư tưởng có hội, thực dụng, khuynh hướng “thương
mại hóa”, chạy theo những thị hiếu tầm thường. Công tác tư tưởng chưa gắn
với công tác tổ chức, xây dựng cơ chế, chính sách đào tạo cán bộ.
Thụ động trong việc đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của thế
lực thù địch, mất cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù.
Bên cạnh đó, trong nước một số phần tử xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc
để gây rối, hay phát tán những tài liệu mật của Đảng và Nhà nước cho các
phần tử cơ hội và các thế lực phản động nước ngoài. Điều hết sức nguy hiểm
hiện nay là “tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,


lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” rất nghiêm trọng. Tình
trạng lãng phí quan liêu phổ biến, điều đó đã và đang gây bất bình trong dư
luận xã hội, làm suy giảm uy tín của Đảng.
Công tác tư tưởng chậm đổi mới, tuyên truyền giáo dục một chiều từ
trên xuống, thiếu sự đối thoại, tranh luận, thảo luận đi đến thống nhất. Chưa
làm cho cán bộ, đảng viên cũng như nhân dân hiểu và nhận thức rõ những
thành tựu to lớn, đáng tự hào của đất nước, chưa tạo được sức mạnh xã hội cổ
vũ cho những xu hướng tích cực, chưa tạo ra những phong trào hành động
tích cực…Một số phương tiện thông tin đại chúng thiếu nhạy bén chính trị,
chưa làm tốt chức năng là vũ khí sắc bén của công tác tư tưởng văn hóa, có
biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý Nhà nước.
Trong hoạt động văn hóa - nghệ thuật, xuất hiện xu hướng hạ thấp chức
năng giáo dục, từng bước xa rời các chức năng cao quý của văn học, nghệ
thuật cách mạng. Công tác nghiên cứu lý luận còn lạc hậu, chưa đáp ứng
những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động hết sức mau lẹ và phức tạp, công
tác lãnh đạo, quản lý các hoạt động lý luận chưa đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn.

Những hạn chế yếu kém trên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, xong chung quy lai gồm những nguyên nhân cơ bản sau: Đảng chưa đặt
đúng việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng trong giai
đoạn mới, chưa xây dựng được quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động của công tác tư tưởng...Chậm tăng cường đổi mới công
tác xây dựng đội ngủ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, chưa nhận thức
được tầm quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận trong sự nghiệp đổi mới.
V. Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp.
1. Bài học kinh nghiệm:
Công tác tư tưởng phải luôn bám sát với tình hình thế giới và trong
nước, luôn theo kịp và nhiều khi “vượt trước” sự vận động, đòi hỏi của thực


tiễn kinh tế - xã hội đất nước. Nắm bắt và giải đáp thấu đáo, kịp thời nguyện
vọng, đòi hỏi của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Đổi mới để có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, để phát triển nhanh và bền
vững hơn. Bởi vậy, càng đổi mới càng phải kiên định, trung thành với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, với chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên phải vận dụng sáng tạo, và phát triển hơn nữa chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thì công tác tư tưởng, quan điểm, lý luận đổi
mới của Đảng càng phù hợp hơn và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Thực tế cho thấy nơi nào Đảng, chính quyền chưa có mối quan hệ máu
thịt với nhân dân, chưa thấu hiểu tư tưởng, tâm trạng, tình cảm của nhân dân,
công tác tư tuởng của Đảng không được tiến hành thường xuyên, kịp thời thì
nơi đó trở thành“điểm nóng”. Nhất là khi chịu thêm sự tác động tiêu cực
những nhân tố khách quan và chủ quan.
Mở rộng dân chủ, tạo lập môi trường, không khí cởi mở, thẳng thắng
công khai trong nghiên cứu, tranh luận khoa học, lý luận trong việc lấy ý kiến
đóng góp của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với đường lối, chính sách của
Đảng và nhà nước.

Công tác tư tưởng chỉ thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi biết khơi
dậy trách nhiệm pháp lý, đạo đức của mọi công dân.Vì thế, không ngừng xây
dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, cũng như chuẩn mực đạo đức xã hội là
rất quan trọng và có tác dụng hổ trợ mạnh mẽ cho công tác tư tưởng.
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân phát triển, công bằng và
dân chủ hóa xã hội từng bước được thực hiện rộng rãi là cơ sở vật chất và tinh
thần vững chắc đối với việc củng cố niềm tin, nâng cao tính tích cực chính trị
của Đảng, phát huy vai trò tác dụng của công tác tư tưởng.
Đấu tranh tư tưởng, lý luận , nội dung và phương pháp đấu tranh mang
tính gáin tiếp, tăng cường lập luận logic, khoa học chặt chẽ và khơi gợi cùng
những dẫn chứng thực tế cụ thể, sát thực, để đêm lại kết quả cao hơn so với
đấu tranh mang tính trực diện.


2. Một số giải pháp.
Nâng cao hơn nữa nhận thức cán bộ, đảng viên về vị trí vai trò của
công tác tư tưởng đối với công cuộc đổi mới hiện nay, nâng cao trách nhiệm
của mỗi cán bộ, đảng viên trong công tác tư tưởng như yêu cầu cầu Nghị
quyết Trung ương lần thứ 5 khóa X. Đây là vấn đề quyết định sự thành công
của công tác tư tưởng trong tình hình mới. Tuy nhiên vấn đề tư tưởng chỉ có
thể được giải quyết trong một xã hội hài hòa, công bằng về các lợi ích vật chất
lẫn tinh thần, tiến bộ và dân chủ.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức cơ sở Đảng chính quyền,
đoàn thể trong công tác tư tưởng đối với nhân dân nói chung và các thành
viên đoàn thể nói riêng. Bên cạnh đó cần định kỳ mở các lớp bồi dưỡng ngắn
hạn nhằm nâng cao trìng độ, năng lực của đội ngũ làm công tác tư tưởng ở
các cấp.
Công tác tư tưởng cần tập trung giải quyết những thắc mắc, bức xúc
nhất của người dân như: tăng giá, tham nhũng, vi phạm pháp luật, sự sa sút
đạo đức của cán bộ, công chức.

Công tác tư tưởng không nên né tránh những vấn đề nhạy cảm đã đưa
lên các phương tiện truyền thông một cách không có lợi cho đất nước, cần có
giải thích phù hợp , kịp thời về những vấn đề này để người dân hiểu rõ, từ đó
có thái độ đúng đắn và hành động hợp lý. Tạo điều kiện và quy định cán bộ,
đặc biệt là cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, phải có số ngày đi thực tế
nhất định tại ác cơ sở để phát hiện vấn đề, tổng kết các mô hình, đúc kết kinh
nghiệm.
Đối với công tác nghiên cứu lý luận, cần chú trọng đổi mới nội dung
nghiên cứu lý luận, lý luận cần gắn liền với thực tiễn.Tổng kết thực tiễn một
cách khách quan, khoa học sẽ góp phần dự báo chính xác xu hướng phát triển
của các quá trình kinh tế - xã hội. Trong hoạt động nghiên cứu và phát triển lý
luận cần quan tâm thích đáng hơn đến việc theo dõi, phân tích và kế thừa
những thành tựu nghiên cứu lý luận của thế giới. Vận dụng sáng tạo và phát


×