Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiêu luận cao học xu hướng phát triển của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.34 KB, 22 trang )

Đề tài: xu hướng phát triển của Chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
A. Phần mở đầu
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã đập tan ách áp bức, bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở nước Nga, đưa giai cấp cơng
nhân, nơng dân lên nắm chính quyền, biến ước mơ, nguyện vọng hàng trăm năm
của quần chúng lao động về một chế độ xã hội khơng cịn bóc lột, áp bức, bất công
và biến lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học thành hiện thực sinh động. Với Cách
mạng Tháng Mười, sự nghiệp giải phóng vĩ đại nhất đã mở ra trong lịch sử lồi
người: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người; đồng thời mở đầu một kỷ nguyên mới gắn mục tiêu phát triển với các mục
tiêu cao cả khác là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ngay đêm thắng lợi đầu tiên của Cách mạng, chính quyền Xơ-viết vừa ra đời đã
ban hành Sắc lệnh hịa bình và Sắc lệnh ruộng đất, tuyên bố nước Nga Xô-viết rút
ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới và thỏa mãn những mơ ước ruộng đất từ hàng
nghìn năm của nơng dân. Tiếp đó, Tun ngôn về quyền của các dân tộc Nga
khẳng định quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc ở Nga; Sắc luật xóa
bỏ mọi sự phân biệt đẳng cấp, dân tộc và mọi tước vị phong kiến, xác lập sự bình
đẳng giữa nam và nữ, quyền tự do tín ngưỡng, quyết định nhà thờ tách khỏi trường
học. Bằng những việc làm thiết thực ấy, Cách mạng Tháng Mười đã thể hiện bản
chất đích thực là một cuộc cách mạng giải phóng những người nghèo khổ và vì
những người nghèo khổ - những người anh hùng đã dũng cảm vùng dậy chiến đấu
dưới lá cờ đỏ búa liềm phá tan xiềng xích, xây dựng cuộc đời mới và gan góc bảo
vệ thành quả cách mạng trước vịng vây khốc liệt của thù trong, giặc ngoài.
Lịch sử nước Nga và Liên Xô bước sang trang mới. Từ đầu những năm 20 trở
đi, nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản đã giành được những


thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, cứu loài
người khỏi thảm họa phát-xít. Từ một nước nơng nghiệp, Liên Xơ đã trở thành một
cường quốc cơng nghiệp, có tổng sản lượng cơng nghiệp đứng đầu châu Âu và thứ
hai thế giới. Bộ mặt đất nước Xô-viết đã thay đổi căn bản, mức sống và chất lượng


cuộc sống của người dân hoàn toàn khác trước. Người lao động đã có được những
bảo đảm về mặt xã hội mà không một nhà nước tư sản đương thời nào có thể đạt
tới. Ngày nay, lịch sử đã chứng tỏ rằng, những vấn đề cơ bản của nhân quyền
mang tính nhân văn cao cả, như bảo đảm đời sống, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng
nhu cầu nhà ở, giáo dục, công ăn việc làm, giảm thiểu tệ nạn xã hội,... là những
lĩnh vực mà nhiều nước phương Tây hiện đại không thể so sánh nổi với Liên Xô
trước kia. Chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập ở 15 quốc gia trên thế giới, trở thành
đối trọng hữu hiệu với chủ nghĩa tư bản đế quốc; một trong những nhân tố quan
trọng hàng đầu quyết định chiều hướng vận động của lịch sử. Tuy đã xảy ra nhiều
đổi thay, biến động, nhưng đây là những trang sử thật hào hùng, từng được thế giới
khâm phục và là những sự thật lịch sử khơng gì có thể bác bỏ được.
Cách mạng Tháng Mười có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục
diện thế giới, đã làm cho chủ nghĩa tư bản khơng cịn là một hệ thống hoàn chỉnh
bao trùm cả hành tinh. Thế giới khơng cịn là độc tơn của chủ nghĩa tư bản, mà đã
hình thành sự cùng tồn tại của hai chế độ xã hội, sau này trở thành hai hệ thống xã
hội đối lập nhau là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, chịu sự tác
động trực tiếp của bối cảnh rất mới ấy, chủ nghĩa tư bản khơng thể giữ ngun diện
mạo, chính sách, hoạt động... như trước được nữa. Những ưu việt kinh tế, xã hội,
văn hóa, tinh thần, khoa học - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội đã tạo ra động lực thúc
đẩy cuộc đấu tranh của lao động toàn thế giới, buộc chủ nghĩa tư bản phải điều
chỉnh chính sách kinh tế - xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, chú trọng các dịch vụ
công thiết yếu như giáo dục, y tế, bảo hiểm, thông tin...


Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga thành công đã mở rộng ảnh hưởng, vai trò
của các vấn đề dân tộc và biến đổi nó từ vấn đề riêng của cuộc đấu tranh chống áp
bức dân tộc thành vấn đề chung của cơng cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức,
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Ánh
sáng Cách mạng Tháng Mười soi rọi con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp
bức và mở ra một triển vọng xán lạn cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên

phạm vi tồn thế giới thơng qua việc gắn kết cuộc đấu tranh của các dân tộc với
cuộc cách mạng vơ sản; gắn phong trào giải phóng dân tộc vào phong trào đấu
tranh của các lực lượng cách mạng thế giới chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Nhờ vậy, chỉ trong thời gian vài ba thập kỷ, bão táp của cách mạng giải phóng dân
tộc đã phá sập tồn bộ hệ thống thuộc địa mà chủ nghĩa thực dân đã dày công thiết
lập ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la-tinh. Hơn một trăm quốc gia độc lập ra
đời, chủ động quyết định con đường phát triển của đất nước, nhiều nước công khai
thể hiện như những đồng minh chính trị của CNXH và một số nước khác tuyên bố
đi theo định hướng XHCN. Bản đồ chính trị thế giới đã được vẽ lại một cách căn
bản, không gian của chủ nghĩa tư bản phải nhường lại nhiều vị trí chiến lược cho
CNXH. Bước vận động tích cực này của lịch sử thế kỷ 20 rõ ràng là có động lực
trực tiếp và sâu xa từ Cách mạng Tháng Mười. Ðúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu đã từng nhận định: "Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười
chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột
trên trái đất. Trong lịch sử lồi người, chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa
to lớn và sâu xa như thế".
Thế giới đã bước sang thiên niên kỷ mới với biết bao chuyển động đa tầng, đa
diện, làm cho nhận thức của con người về hướng đi của lịch sử trở nên phức tạp
hơn, khó thống nhất với nhau hơn. Dù thế nào đi nữa, thì như chính nhiều học giả
của chủ nghĩa tư bản (Rene Dumond, Jacques Derrida, Jean Fonce, Peter Drucker,


Noam Chomxky...) đã từng công khai lên tiếng rằng, chủ nghĩa tư bản khơng phải
là tương lai của lồi người. Chưa bao giờ chủ nghĩa tư bản giàu mạnh như ngày
nay, nhưng cũng chưa bao giờ phong trào chống chủ nghĩa tư bản lại có quy mơ
tồn cầu như hiện nay. Trong một thế giới sáng - tối đan xen, vẫn có hàng chục
triệu người sắt son niềm tin cộng sản, tiếp tục con đường Tháng Mười để đi đến
những mục tiêu cao cả của thời đại. Ðó là đội ngũ hơn 80 triệu đảng viên thuộc
hơn 150 đảng cộng sản - cơng nhân tồn thế giới hiện nay. Ðó cịn là hơn 1,5 tỷ
cơng dân sống ở các quốc gia XHCN đang dành tâm sức, trí tuệ phát triển cả lý

luận và thực tiễn của CNXH lên tầm cao thời đại mới. Ngày nay, mặc dù CNXH
vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách lớn, phong trào XHCN thế giới chưa
vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng sau sự đổ vỡ chế độ XHCN ở Ðông Âu và
Liên Xô, nhưng con đường được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười với ý nghĩa
trọng đại của nó vẫn là một xu thế vận động tất yếu của lịch sử nhân loại. Trong
điều kiện lịch sử mới, các đảng cộng sản, công nhân và cánh tả trên thế giới vẫn nỗ
lực đoàn kết, củng cố đội ngũ, sáng tạo điều chỉnh chiến lược, sách lược, tìm kiếm
cách thức hoạt động, đấu tranh bằng nhiều hình thức đa dạng, đổi mới tập hợp lực
lượng,... chuẩn bị từng bước những tiền đề hiện thực cho sự nghiệp đi lên CNXH
phù hợp với điều kiện cụ thể ở mỗi nước, mỗi dân tộc, phù hợp với những biến đổi
diễn ra trên thế giới trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri
thức và tồn cầu hóa.
Các đảng cộng sản cầm quyền ở Trung Quốc, Việt Nam, Cu-ba và Lào... đã chủ
động tổng kết những bài học kinh nghiệm thành công cũng như không thành công
trong xây dựng CNXH ở Liên Xơ, Ðơng Âu và những kinh nghiệm của chính
mình, tích cực tìm tịi mơ hình về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH. Nỗ lực
khai phá mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của các đảng này mang
tính đột phá, được thể hiện trước hết trong việc sử dụng kinh tế thị trường và hội


nhập kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH. Trung Quốc xác định mơ hình kinh tế thị trường XHCN. Việt
Nam trong tiến trình đổi mới đang ra sức tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, Lào thực hiện nền sản xuất hàng hóa và từng bước
chuyển sang kinh tế thị trường, quá độ tới CNXH. Nhiều đảng cộng sản, công nhân
trên thế giới đánh giá cao sự lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội của Trung
Quốc và Việt Nam, coi đây là sự bổ sung độc đáo về lý luận của CNXH, đóng góp
thiết thực vào việc phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phát triển lý luận CNXH
trong điều kiện lịch sử mới. Những thành tựu cải cách, đổi mới của các nước
XHCN là một minh chứng sinh động cho sức sống và khả năng tự đổi mới của

CNXH. Nhờ vậy, công cuộc cải cách, đổi mới, phát triển CNXH ở Trung Quốc,
Việt Nam, Cu-ba và Lào nhiều năm qua đạt được những thành tựu rất đáng khích
lệ, góp phần to lớn vào việc củng cố vai trò và ảnh hưởng của CNXH trên thế giới,
làm cho các nước XHCN ngày càng trở thành những chủ thể quan trọng của quan
hệ quốc tế trong thế giới đương đại.
Là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với góc nhìn của một học viên
đang cơng tác trong trường Đảng, em đã lựa chọn đề tài về xu hướng phát triển của
chế độ Chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay làm đề tài tiểu luận của mình,
nhằm tìm hiểu và làm sáng rõ hơn một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về sự lựa
chọn và con đường đi của Đảng ta từ khi thành lập đến nay, đó là đi theo con
đường Chủ nghĩa xã hội là một sự lựa chọn mang tính khách quan, hợp quy luật
vận động của lịch sử xã hội lồi người. Đó cũng chính là nguyện vọng của mọi
người dân Việt Nam


B. Phần nội dung.
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý thuyết
không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học
đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một


nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng
mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn
không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thế nhưng, vào
những thập niên cuối thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã
dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu. Chủ nghĩa xã hộ hiện thực đã tạm lâm vào thoái trào. Các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử
đó đã đặt ra một vấn để lớn về tương lại của chủ nghĩa xã hội.Liệu chủ nghĩa xã

hội có vượt qua khủng hoảng khơng? Và triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội
ra sao?
I. Phải chăng chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ?
Thứ nhất: Thời đại mới trong lịch sử thế giới được khởi đầu từ nước Nga, một
nước tư bản phát triển ở trình độ lạc hậu so với châu Âu đương thời, nhưng đã mau
chóng vươn lên trở thành một siêu cường - Liên bang xã hội chủ nghĩa Xơ-viết.
Những cơng tích vĩ đại mà Liên Xô đã đạt được trên mọi phương diện của đời sống
xã hội và trong sự nghiệp cứu nhân loại thốt khỏi thảm họa phát xít trong chiến
tranh thế giới thứ hai là một thực tế hào hùng không thể phủ nhận. Trong suốt
nhiều thập niên của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa được thiết lập ở một loạt
nước từ châu Âu, đến châu Á và sang cả Mỹ La-tinh với hơn một tỉ dân đã góp
phần to lớn vào sự nghiệp giữ gìn hịa bình thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, thúc đẩy phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, do những hạn chế, thiếu sót của mơ hình xã hội
chủ nghĩa, như chủ quan duy ý chí, quan liêu, giáo điều, xem thường các quy luật
kinh tế khách quan, chậm trễ trong việc ứng dụng những thành tựu khoa học và
công nghệ hiện đại chưa được phát hiện và khắc phục kịp thời, nên hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới chẳng những không thể phát huy đầy đủ sức sống và ưu thế của
mình mà cịn lâm vào tình trạng trì trệ và khủng hoảng trầm trọng. Cùng với những


nguyên nhân sâu xa đó, sự chống cộng ráo riết của các thế lực phản động quốc tế
đồng thời với sự phản bội của một số lãnh đạo cao nhất trong bộ máy đảng cầm
quyền là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cơn “địa chấn chính trị” gây sốc lớn đối
với cả nhân loại- sự đổ vỡ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô
vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ qua.
Song, sự đổ vỡ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, trước
hết, không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tư cách một học thuyết
cách mạng và khoa học duy nhất đúng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, một học
thuyết đã vạch đường cho sự giải phóng hồn tồn, triệt để giai cấp cơng nhân,

nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và cho việc xây dựng một xã hội phồn
vinh, công bằng, văn minh thực sự- xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Chúng ta biết rằng, các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, như chính C.Mác
từng nhấn mạnh, chỉ là “kim chỉ nam” định hướng cho hành động. Vậy nên, áp
dụng một cách rập khn, máy móc các nguyên lý đó là trái với tinh thần của Mác.
Các ngun lý đó địi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện lịch
sử cụ thể ở từng nơi từng lúc. Bởi vậy, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông
Âu với những hạn chế của nó chỉ là một mơ hình của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa,
mơ hình này lại phản ánh không đầy đủ, thiếu sáng tạo những ý tưởng của học
thuyết Mác - Lê-nin.
Thứ hai, sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu càng khơng có
nghĩa là sự phá sản cả một xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn
cầu. Thực tế hơm nay khẳng định, chủ nghĩa xã hội vẫn đang tồn tại, đang cải cách,
đổi mới và tràn đầy sức sống ở một số nước xã hội chủ nghĩa với hơn 1,4 tỉ dân.
Ông K. Ta-da-si, Ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Nhật Bản, nhấn mạnh rằng
chủ nghĩa xã hội thông qua nền kinh tế thị trường đang được thực hiện ở một số
nước sẽ là xu hướng chính có ý nghĩa quyết định tiến trình lịch sử thế giới. Ở Việt
Nam, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được trên mọi lĩnh vực đời


sống xã hội trong hơn 20 năm qua chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Điều này được đánh giá tổng kết rõ trong văn
kiện Đại hội X của Đảng: “Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự
thay đổi cơ bản và tồn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn
định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế của nước ta trên trường quốc
tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia được tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”.

Mặt khác, ngay tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, những lực lượng xã hội
chủ nghĩa đang dần phục hồi, tiếp tục và phát triển không ngừng cuộc đấu tranh
giai cấp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã để lại một nét son đậm, một dấu ấn khơng
thể xố mờ trong tâm khảm của quần chúng nhân dân nơi đây. Sự rêu rao rằng chủ
nghĩa tư bản là liều thuốc chữa bách bệnh đã lắng xuống bởi những mâu thuẫn về
kinh tế và xã hội ở những nước này đã ngày càng trở nên sâu sắc.
Thứ ba, sự đổ vỡ của mơ hình xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu và Liên Xô càng
chứng tỏ rằng chế độ mới ra đời bao giờ cũng phải trải qua một quá trình đấu tranh
quyết liệt, phức tạp và lâu dài với các thế lực thù địch ln tìm mọi thủ đoạn chống
phá nó. Trong q trình đó, do tác động của nhiều nguyên nhân mà chế độ mới trên
mỗi bước tiến của nó có thể bị vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại, tổn thất lớn,
thậm chí thối trào. Lịch sử của chế độ tư bản đã như vậy, lịch sử phát triển của
chế độ xã hội chủ nghĩa lại càng như thế, bởi xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa là
xây dựng một chế độ hoàn toàn mới và khác về bản chất so với các chế độ bóc lột
tồn tại trước đó, một xã hội mà ở đó, như C. Mác khẳng định trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”.


Vậy sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở các nước Liên xô, Đông Âu không phải
là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự
thất bại của một mơ hình thực tiễn nhất định. Mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên
xơ, mơ hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, nó khơng đồng nghĩa với sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế-xã hội mà lồi người đang
vươn tới. Sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đơng Âu chỉ chứng tỏ tính
quanh co, phức tạp của sự phát triển xã hội mà thôi.
II. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội.
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong

tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, các ơng viết “giai cấp tư sản đã đóng vai
trị hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng dự báo và chứng minh
những dự báo của mình “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như nhau”. Vận dụng quan điểm, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản” chỉ ra những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản
đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột cùng”, ăn bám và giãy chết và là phòng
chờ của chủ nghĩa xã hội. Nhưng tình hình thực tế trong mấy thập niên vừa qua,
chủ nghĩa tư bản ngày nay phát triển rất mạnh do biết tự điều chỉnh và thích ứng,
biết tìm bí quyết để sống lại từ con đường cùng. Chủ nghĩa tư bản còn khả năng để
phát triển nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản thì khơng thay đổi, những mâu
thuẫn của chủ nghĩa tư bản, bản thân nó khơng thể khắc phục nổi, đó là tình trạng
khủng hoảng kinh tế, ngồi khủng hoảng mang tính chu kỳ ra cịn có khủng hoảng
cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng hoảng tài chính tiền tệ v.v. Các loại khủng
hoảng và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt vấn đề xã hội
nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo xã hội,


mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng
v.v. Chủ nghĩa tư bản ngày nay dù đã có những điều chỉnh nhưng vẫn là “một thế
giới không thể chấp nhận” như Renê Duynơng khẳng định trong cuốn sách của
mình.
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản
Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá
trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với tư cách là hai
hình thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau
thay thế, xã hội sau vừa phủ nhận xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những
thành tựu mà xã hội trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai
đoạn cao nhất của nó- chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa
xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị

đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học công nghệ ngày
càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy mầm” những nhân tố
của chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công ty cổ phần trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác
có nghĩa là sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản
bắt đầu quá độ sang phương thức sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về
mặt sở hữu, sự xuất hiện quốc hữu hố, chế độ hợp tác, cơng ty cổ phần, nhà nước
đóng vai trị điều tiết quản lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản lý xí nghiệp ở
mức độ khác nhau, sự rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nơng thơn, lao động
trí óc với lao động chân tay, tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên v.v tất cả
những cái đó nếu khơng nói đó là những nhân tố của chủ nghĩa xã hội ở mức độ
nhất định, thì đó cũng là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên điều đó vẫn chưa vượt ra khỏi cái khung tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi về
lượng chưa chuyển thành sự biến đổi về chất, vẫn là chủ nghĩa tư bản.


c.Tính đa dạng các xu hướng phát triển của thế giới đương đại
Sau cách mạng Tháng Mười nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự tồn
tại hai hệ thống kinh tế xã hội đối lập nhau đã tác động đến sự lựa chọn con đường
phát triển của các dân tộc.
Ở các nước vốn trước đây là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau khi giành
độc lập đã, đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình. Con đường tư
bản tư nghĩa trong những điều kiện nhất định đã đem lại những thành công cho
một số nước cịn phần lớn cách nước khác khơng thốt khỏi đói nghèo, nợ nần
chồng chất.
Ngay ở các nước tư bản phát triển cũng nảy sinh xu hướng phát triển “phi tư
bản”, “hậu tư bản”, xu hướng xã hội dân chủ v.v điều này chứng tỏ chủ nghĩa tư
bản không phải là “xã hội tốt đẹp cuối cùng”, không phải là tương lai của lồi
người mà nó sẽ phải bị thay thế.

2. Chủ nghĩa xã hội - tương lai của xã hội lồi người
a. Sự sụp đổ của Liênxơ và các nước Đơng Âu khơng có nghĩa là sự cáo
chung của chủ nghĩa xã hội
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện Liênxô, Đông
Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị tổn thất nghiêm trọng. Kẻ thù
thì vội vã vui mừng cho đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự cáo chung của
chủ nghĩa Mác, còn người dân cũng không khỏi hoang mang bối rối. Sự thật, sự
tan rã của Liên xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mơ hình thực tiễn nhất định.
Mơ hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liênxơ, mơ hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, nó
khơng đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái
kinh tế-xã hội mà lồi người đang vươn tới. Sự sụp đổ của Liênxô và Đông Âu
cũng khơng vì thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại. Thời đại ngày nay
vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sự tan rã của chủ


nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu chỉ chứng tỏ tính quanh co, phức tạp của sự
phát triển xã hội mà thơi.
b. Các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và
ngày càng thu được những thành tựu to lớn
Trong bối cảnh Liênxô và các nước xẫ hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì ở
một số nước xã hội chủ nghĩa khác điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã tiến
hành đổi mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó khăn
khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, trong qua
trình đổi mới, cải cách, mở cửa đã giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng
phải tự đổi mới theo hướng dân chủ, khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước mình.
Đã từ bỏ mơ hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường,

thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu,
lấy hình thức phân phối theo lao động là nguyên tắc chủ yếu. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. Nhà nước
quản lí vĩ mơ, giảm dần sự can thiệp vi mô, thực hiện chế độ dân chủ, công khai
minh bạch. Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu
dài, trải qua nhiều giai đoạn. Sau hơn 30 năm (1978) cải cách, mở cửa của Trung
Quốc, hơn 20 năm (1986) đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao,
vị thế của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được thế giới tôn trọng. Thành công
của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng là thắng lợi của
chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội.
c. Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 - Sự trỗi dậy của châu Mỹ Latinh Sau những
cơn địa chấn dữ dội về chính trị, dẫn tới sự tan rã của cộng đồng các nước xã hội


chủ nghĩa ở Liên Xô và khu vực Trung, Đông Âu, các thế lực thù địch của chủ
nghĩa xã hội đã triệt để lợi dụng cơ hội này để “thừa gió bẻ măng”. Chúng ra sức
khua chiêng gióng trống hịng tống khứ cái “bóng ma chủ nghĩa cộng sản đã từng
ám ảnh châu Âu” và không ngừng khuấy động các cuộc bạo loạn về chính trị nhằm
xuất khẩu phản cách mạng dưới những ngôn từ lừa mị: “cách mạng đường phố”,
“cách mạng nhung”, “cách mạng màu sắc” – “màu hoa hồng”, “màu da cam”,
“màu hoa tuy-líp”, “màu Jeans”… Thế nhưng, cũng chính trong thời điểm ấy, tại
khu vực Tây bán cầu đã xuất hiện một “làn sóng đỏ” - thơng qua bầu cử dân chủ,
các thủ lĩnh của phong trào cánh tả đã nắm chính quyền tại 9 quốc gia từng được
mệnh danh là “sân sau” của Mỹ: Brazil, Bolivia, Chile, Venezuela, Argentina,
Panama, Paraguay, Nicaragua, Ecuador. Châu Mỹ Latinh vốn là một “tân đại lục”
nổi tiếng của cộng đồng 560 triệu cư dân, là “miền đất hứa” có những nguồn lợi
thiên nhiên vơ cùng phong phú. Theo tính tốn của các chuyên gia kinh tế, vùng
đất Mỹ Latinh có thể bảo đảm cho 1 tỷ người trên trái đất hưởng thụ mức sống cao.
Ấy thế mà hàng trăm triệu dân Trung và Nam Mỹ đã phải sống triền miên trong

cảnh đói nghèo. Ở Argentina, số địa chủ chỉ với tỷ lệ 1,2% dân số nhưng lại chiếm
hơn một nửa ruộng đất canh tác trong cả nước. Tại Mexico, giữa lúc 2 triệu nơng
dân khơng có ruộng, thì gần 2.500 chủ đại điền trang chiếm hữu từ 10.000 đến
300.000ha điền địa mỗi người. Chỉ tính trong 2 thập niên (1980-1999), số người
nghèo đói ở Mỹ Latinh đã tăng thêm 100 triệu. Tổng số nợ nước ngoài trong khu
vực đã vượt lên mức kỷ lục với 850 tỷ USD và số người thất nghiệp đã gia tăng
đến hơn 200 triệu. Có thể nói nạn đói nghèo, thất nghiệp, nợ nước ngồi, tham
nhũng và khủng hoảng xã hội là những căn bệnh kinh niên của miền đất hứa này.
Giương cao ngọn cờ đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội, kiên quyết thốt khỏi vịng kiềm tỏa của cái gọi là “chủ nghĩa tự do mới”
do Mỹ áp đặt, những lãnh tụ có uy tín của phong trào cánh tả như Daniel Ortega
(Nicaragua), Lula da Silva (Brazil), Hugo Chavez (Venezuela), Evo Morales


(Bolivia), Rafael Correa (Ecuador)…, đã và đang tìm tịi xây dựng những mơ hình
mới thích ứng với sự nghiệp đấu tranh “giành chính quyền trong thế kỷ 21”, nhằm
mục tiêu tiến tới “xây dựng nền dân chủ toàn diện”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội
kiểu mới”, “xây dựng chủ nghĩa xã hội Simon Bolivar”, “xây dựng chủ nghĩa xã
hội thế kỷ 21”… Cao trào đấu tranh hướng tới “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” của
nhân dân lục địa châu Mỹ Latinh hiện nay là nhằm giải quyết vấn đề dân tộc, dân
quyền, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Phong trào cánh tả đang lên tại lục địa
châu Mỹ Latinh, chính là sự hợp lưu của các dòng chảy được khơi nguồn từ Đảng
Lao động Brazil, Đảng Xã hội Chile, Mặt trận giải phóng dân tộc Sandino, Đảng
Phong trào nền cộng hòa thứ năm của Venezuela, Đảng Phong trào tiến lên chủ
nghĩa xã hội của ông Evo Morales ở Bolivia… Nguồn lực và sức mạnh của những
dòng chảy ấy, đã được khơi dậy từ trong tình cảm cách mạng và ý chí quật khởi
của các tầng lớp nhân dân. Được sự ủng hộ mạnh mẽ của quảng đại quần chúng
thông qua lá phiếu bầu cử tổng thống, những nhân vật nổi tiếng của phong trào
cánh tả đã đàng hồng bước lên vũ đài chính trị. Với sự đóng góp đắc lực kể cả
nhân lực, vật lực và tài lực của quần chúng, các chính phủ của phong trào cánh tả

đã tiến hành được những cải cách về thể chế, quốc hữu hóa những ngành kinh tế
trụ cột (như ngành dầu khí), giải quyết những vấn đề quan trọng như: xóa đói giảm
nghèo, xóa nạn mù chữ, xây dựng thêm trường học, cải thiện dịch vụ y tế… Một
nhân tố khác góp phần quyết định sự thắng lợi của các lực lượng cánh tả ở lục địa
châu Mỹ Latinh, đó là sự ủng hộ của phong trào cộng sản và công nhân trong khu
vực. Ở Venezuela, Đảng Cộng sản kiên định ủng hộ các phong trào đấu tranh của
các lực lượng cánh tả suốt 10 năm qua. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2006,
Đảng Cộng sản đã góp gần nửa triệu phiếu bầu cho Tổng thống Hugo Chavez.
Quốc hội và Chính phủ Venezuela hiện nay có một bộ trưởng và 6 nghị sĩ là đảng
viên Cộng sản… Theo dõi những cuộc bầu cử ở lục địa châu Mỹ Latinh trong thời
gian qua, chúng ta có thể thấy rõ các lực lượng đối lập chiếm khoảng 40% tỷ lệ


phiếu bầu. Điều quan trọng là, sau khi giành được chính quyền bằng con đường
nghị trường, các thế lực cách mạng phải tổ chức thực thi quyền lực trong hành lang
pháp lý, điều kiện thể chế chính trị và cơ sở kinh tế-xã hội của chế độ tư bản chủ
nghĩa. Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” sẽ diễn ra phức tạp trong
nhiều lĩnh vực hoạt động. Những vấn đề dân tộc, dân quyền, dân sinh, dân chủ và
khủng hoảng kinh tế-xã hội đã tồn đọng qua nhiều năm tháng, các tầng lớp nhân
dân khao khát mong đợi sớm được giải quyết, sẽ tạo thành áp lực lớn đối với các
chính phủ đang cầm quyền. Đó là những khó khăn, thách thức khơng nhỏ. Nhằm
thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21”, các nhà
lãnh đạo cánh tả ở châu Mỹ Latinh đã đề ra nhiều quyết sách quan trọng. - Thành
lập một chính đảng tiền phong “rộng lớn nhất, dân chủ nhất và cách mạng nhất” để
lãnh đạo đất nước. Sự ra đời của Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Venezuela hai
năm trước đây, do Tổng thống Hugo Chavez làm Chủ tịch, là một sự kiện lịch sử
có ý nghĩa lớn lao. Đảng tự xác định là chính đảng xã hội chủ nghĩa, chống chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, vì lợi ích của giai cấp lao động và của dân tộc, lấy
tư tưởng Các Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, X. Bôliva làm kim chỉ nam hoạt
động. Đảng cũng tự khẳng định nhiệm vụ của mình là “rèn luyện đạo đức cách

mạng, phê bình và tự phê bình, áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống nguy
cơ quan liêu, xa rời thực tiễn và độc đoán, chuyên quyền”… - Tiến hành sửa đổi
hiến pháp và thực hiện các biện pháp hiến định phù hợp để cải tạo bộ máy Nhà
nước tư sản, nhằm tạo ra hàng loạt các chính sách vĩ mơ về quản lý Nhà nước đối
với nền kinh tế như: đẩy mạnh việc quốc hữu hóa các ngành dầu khí, điện lực, viễn
thơng… Ưu tiên dành vốn đầu tư cho các chương trình xã hội, chống đói nghèo. Đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, biến qn
đội thành cơng cụ chính trị và qn sự của Đảng để bảo vệ và phát triển thành quả
cách mạng. - Củng cố sự đoàn kết và mở rộng mối quan hệ hợp tác và liên kết giữa
những chính phủ cánh tả với các nước trong khu vực lục địa châu Mỹ Latinh và


vùng biển Caribe – đặc biệt là với Cuba, tạo thành sức mạnh tổng hợp giành lại
chủ quyền về kinh tế. Cùng với sự toàn thắng của cách mạng Cuba, những thắng
lợi vang dội của phong trào cánh tả ở lục địa châu Mỹ Latinh trong thời gian qua
đã đập tan “thuyết định mệnh địa lý” vẫn đầu độc nhân dân châu Mỹ Latinh. Nó
cịn là một bằng chứng sinh động xác minh rằng sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không có nghĩa là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với
tư cách là một học thuyết cách mạng và khoa học. Nó cũng khẳng định tính đúng
đắn và sức sống vĩ đại của học thuyết Mác
Tóm lại, tình hình thế giới đang vận động rất phức tạp, những diễn biến từ sau
cách mạng Tháng Mười Nga đến nay cũng chứng tỏ dù phải trải qua những bước
quanh co phức tạp nhưng loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, đó cũng
chính là quy luật vận động khách quan của lịch sử.


C. Phần kết luận.
Phần nội dung, tác giả đã chỉ ra được xu hướng phát triển chung của loài
người hiện nay vẫn là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là một xu thế tất yếu
khách quan. Là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, em xin được liên hệ về
sự lựa chọn con đường đi của Đảng ta từ khi mới thành lập tới nay, đó là kiên trì

mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta không đi theo con đường TBCN vì thời đại ngày nay khơng phải là
thời đại của CNTB, mặc dù CNTB đang có sự Động lực chủ yếu để phát triển đất
nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và
trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã


hội...” điều chỉnh để thích nghi với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng
CNTB vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn, bất công xã hội thuộc về
bản chất của chế độ TBCN. Theo quy luật phát triển của lịch sử thì CNTB khơng
thể khơng bị phủ định. Vì thế, Đảng ta đã lựa chọn hướng đi phù hợp với lịch sử cụ
thể của Việt Nam là thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN dựa trên cơ
sở củng cố chính quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; dựa vào khối
liên minh cơng - nơng - trí thức để tổ chức và huy động mọi tiềm lực của các tầng
lớp nhân dân, tiến hành CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH. Con đường này hồn
tồn mới mẻ và khơng ít khó khăn, nhưng giảm bớt được đau khổ cho nhân dân lao
động. “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đồn kết tồn dân trên cơ sở
liên minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội...”
Những thành tựu đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng tỏ sự lựa chọn
đó là đúng hướng, phù hợp với lợi ích của cả dân tộc và hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Toàn bộ lịch sử cách mạng
Việt Nam đã chứng minh: quy luật của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Và
trong thực tiễn, CNXH không những đã trở thành động lực tinh thần, mà còn là sức
mạnh vật chất to lớn góp phần đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

ở nước ta đến thắng lợi. Quá trình cách mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những
tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể “rút ngắn” tiến trình phát triển lịch sử - tự
nhiên của xã hội. Vì thế, dân tộc ta đã chọn con đường quá độ lên CNXH bỏ qua


chế độ TBCN. Đó là con đường phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm
lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn cảnh quốc tế.
Nói “nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN” chỉ có nghĩa là trong
lịch sử nước ta khơng có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm chính quyền
và quan hệ sản xuất TBCN giữ địa vị thống trị trong nền kinh tế quốc dân. “Con
đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN,
tức là bỏ qua việc xác lập vị thế thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(5). Con đường đi lên CNXH ở
nước ta, gọi là TKQĐ với ý nghĩa là đất nước ta phải trải qua một trạng thái xã hội
mang tính trung gian, chuyển tiếp giữa HTKTXH cũ và HTKTXH mới, trong đó
nền kinh tế là nền kinh tế quá độ gồm nhiều thành phần kinh tế. Những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác kinh tế quốc tế đa
phương, đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại cơng nghiệp của cả thế giới để có
thể “rút ngắn” quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển “rút ngắn” chỉ có
nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những
khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và
có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH.
Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình
phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân của nước ta
chứng minh rằng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, có nhiều phong trào
đấu tranh chống Pháp thấm đượm tinh thần yêu nước, bất khuất, song đều lâm vào
bế tắc và cuối cùng thất bại. Đó là sự bế tắc và thất bại về đường lối chiến lược. Và

như vậy, tất cả các phương án chính trị của các giai cấp, từ đường lối cứu nước



×