Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " VỀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT SỰ GẶP GỠ GIỮA QUAN ĐIỂM VĂN NGHỆ CỦA HẢI TRIỀU VỚI LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.46 KB, 8 trang )


17
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 23, 2004



VỀ GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT
SỰ GẶP GỠ GIỮA QUAN ĐIỂM VĂN NGHỆ CỦA HẢI TRIỀU
VỚI LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN HIỆN ĐẠI
Trần Thái Học
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế

Đến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều
người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình
về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục
năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau,
thậm chí đối lập nhau.
Lịch sử văn học Việt Nam còn ghi nhớ cuộc phê bình luận chiến về duy
tâm và duy vật, về nghệ thuật vị nghệ thuật

và nghệ thuật vị nhân sinh
(*)
diễn ra
cách đây 70 năm về trước. Đó là lúc văn học nước ta chuyển qua một bước ngoặt
với sự xuất hiện hàng loạt sáng tác của các nhà văn đã có những cách tân táo bạo
so với những kinh nghiệm nghệ thuật truyền thống, nhất là trong lĩnh vực thơ ca
và tiểu thuyết. Và cùng với sáng tác, là sự xuất hiện của những nhà phê bình

18
đồng quan điểm tư tưởng - xã hội và quan điểm thẩm mỹ đã đóng vai trò tiên
phong phát ngôn cho một hệ thống nguyên tắc sáng tạo mới. Họ bác bỏ những


nguyên tắc đã và đang sáng tạo mà họ cho đã lỗi thời, phi nghệ thuật để đi đến
một tuyên ngôn dường như thống nhất “văn chương là văn chương” “nghệ thuật
vị nghệ thuật”. Đó cũng là lúc bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác của các
nhà văn theo khuynh hướng “tả thực” đi sâu phản ánh thực trạng của xã hội, qua
đó mà phơi bày sự bất công, đen tối của chế độ thực dân nửa phong kiến. Đặc
biệt, kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước đầu thế kỷ, cũng đến những năm 30
của thế kỷ XX, sáng tác của những nhà văn cách mạng đã tập trung phản ánh về
những vấn đề nóng hổi, bức xúc của đời sống xã hội trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế và văn hóa, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của quần
chúng nhân dân lao động chống thực dân và phong kiến. Bảo vệ và khẳng định
giá trị của sáng tác văn học theo khuynh hướng “tả thực”, nhất là “tả thực xã
hội”, các nhà phê bình đứng trên quan điểm ”nghệ thuật vị nhân sinh” đã kịch liệt
phê phán quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật” đòi tách văn học ra khỏi cuộc
sống chính trị - xã hội, coi nghệ thuật là cứu cánh của sáng tạo nghệ thuật. Nổi
bật trong số đó là Hải Triều - nhà phê bình tiên phong của Đảng trên mặt trận văn
nghệ.
Đánh giá vai trò của Hải Triều trong cuộc bút chiến với phái “nghệ thuật
vị nghệ thuật”, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định: ”Công lao của đồng chí
Hải Triều đáng cho chúng ta ghi nhớ. Cố nhiên với trình độ ngày nay nếu ta xem
lại những bài ấy có thể ta thấy còn sơ lược. Nhưng ở trình độ và hoàn cảnh xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ, trong những cuộc bút chiến có những bài như đồng chí
Hải Triều là xuất sắc. (nhấn mạnh T.T.H). Những bài đó trên một mức độ nhất
định đã làm sáng tỏ quan điểm giai cấp của Đảng trong văn học, nghệ thuật”.[2-
156]

19
Đứng trên quan điểm lịch sử, đồng chí Trường Chinh đã đánh giá đúng
mực về những đóng góp của Hải Triều không chỉ thể hiện trong lĩnh vực văn
nghệ, mà ngay trong lĩnh vực triết học, chính trị, xét ra cũng như vậy. Sau này,
khi triết học và lý luận văn học mác xít đã trở thành tư tưởng chính thống, công

khai phát huy ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và nghệ thuật thì nhìn lại
những quan điểm của Hải Triều trước đó mới chỉ là những nhân tố và không
tránh khỏi đôi chỗ “sơ lược”, nhưng xét trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của xã
hội nước ta vào những năm 30 cuả thế kỷ XX, khi mà việc dịch thuật và truyền
bá chủ nghĩa Mác trong điều kiện tư liệu còn hết sức hạn chế, việc vận dụng thế
giới quan vô sản và quan điểm của Đảng vào phê bình văn nghệ luôn bị chế độ
cũ kiểm duyệt một cách khắt khe thì những bài viết về triết học và văn học của
Hải Triều lúc đó quả là những đóng góp xuất sắc. Ngày nay đọc lại di sản lí luận
văn nghệ của Hải Triều, bên cạnh những vấn đề còn giữ nguyên giá trị cần được
kế thừa và phát triển, cũng có những vấn đề cần đổi mới về quan điểm và nhận
thức cho phù hợp với sự đổi mới của thời đại và thực tiễn văn học. Sự kế thừa và
đổi mới, đó là lẽ thường và hiển nhiên. Nhưng nhìn chung, những gì mà Hải
Triều đã bàn về nghệ thuật cách đây hơn nửa thế kỷ về trước, từ nguồn gốc, bản
chất, quy luật phát triển của nghệ thuật đến đặc trưng và chức năng xã hội của
nó, từ vấn đề tự do sáng tác của nghệ sĩ đến nội dung và hình thức của tác phẩm,
từ khuynh hướng sáng tác đến lập trường, quan điểm trong phê bình đánh giá
nghệ thuật ”về cơ bản là đúng đắn và là những viên ngọc quý trong kho tàng
văn nghệ của nước ta, đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu”.[1-9]
Nói về giá trị nghệ thuật mà tập trung chủ yếu ở chỉnh thể tác phẩm, mãi
đến nửa sau của thế kỷ XX, do sự tác động mạnh mẽ của đời sống văn học và
ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận hiện đại mà các nhà phê bình nước ta mới
quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống. Còn trước đó mấy chục năm, xung
quanh vấn đề này, ít nhiều chúng ta đã tìm thấy trong những ý kiến đánh giá và
luận giải của Hải Triều đáng để ghi nhận.

20
Trước hết, giá trị của nghệ thuật được Hải Triều nhìn nhận bắt đầu từ
khâu sáng tác, nhưng không coi mọi sáng tác đều tạo nên giá trị. Sáng tác có giá
trị hay không - theo ông, là ở chỗ nhà văn có xuất phát từ một quan niệm đúng
hay không về nghệ thuật. Vì vậy liên quan đến vấn đề này, các cuộc luận chiến

của Hải Triều với Phan Khôi để bảo vệ đến cùng tính khoa học của ”duy vật biện
chứng pháp” là vì mục đích lấy đó làm chỗ dựa tư tưởng nhằm xác lập và khẳng
định một quan niệm đúng đắn về nghệ thuật do ông khởi xướng nghệ thuật vị
nhân sinh. Viết trên báo Trung Kỳ (1935), sau khi đã chỉ trích ý kiến của những
người cho rằng: ”làm nghệ thuật là vì nghệ thuật, làm nghệ thuật để mà chơi, để
cho đẹp”, Hải Triều nói: ”Tôi hết sức chỉ cho họ thấy cái phát nguyên của nghệ
thuật là trong sự sống ( ). Nghệ thuật là vì nhân sinh chứ không bao giờ có cái
nghệ thuật vì nghệ thuật.”[1-30] Trên cơ sở một quan điểm như vậy, yêu cầu đặt
ra với nhà văn trước khi cầm bút là “sống phải sống cái vĩ đại của nhân dân, phải
cảm cái cảm sâu sắc của đại chúng, phải chiến đấu trong cái chiến đấu anh dũng
của dân tộc”[1-99] để khám phá, nhận thức và sáng tạo. Đây là cơ sở thực tiễn để
hình thành khuynh hướng “tả thực xã hội”, là điều kiện để sáng tác tạo nên
những giá trị nghệ thuật.
Tuy nhiên, giá trị nghệ thuật không chỉ dừng lại ở trách nhiệm và thái độ
sống của nhà văn, càng không chỉ đọng lại ở quan điểm của nhà văn về nghệ
thuật mà phải được thể hiện qua sáng tác bằng chính tác phẩm. Mỗi khi đã đứng
trên quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” để sáng tác, mặc nhiên, nhà văn đã gắn
việc sáng tác với đời sống xã hội, hướng sự phản ánh vào cuộc đời lầm than của
những người nghèo khổ, vào hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân và dân
tộc. Nhà văn hóa thân vào tác phẩm không còn là cái tôi cô lập mà đã hòa chung
trong cái ta của đồng loại, giai cấp để cảm và nghĩ về hiện thực. Trên báo Trung
Kỳ (1935) Hải Triều vạch rõ: ”Phái nghệ thuật vị nghệ thuật tưởng lầm rằng tình
cảm trong nghệ thuật là cái sản vật của từng cá nhân mà thôi. Trong khi họ viết
một cuốn sách, làm một bài thơ, họ nghĩ rằng đó là họ phát biểu cái bản ngã của

21
họ ( ). Có thế mà mới dám chủ trương cái sản vật của họ làm ra là chỉ vì nó và
làm ra không cần phải hỏi làm ra để làm gì ?“ [1-34]. Ông nói:”Nghệ thuật là cái
hệ thống của tình cảm diễn thành ra hình ảnh. Mà cái tình cảm trong nghệ thuật
không xuất phát ở một cá nhân nào cả, mà chính là ở cái tổng hợp (synthèse) của

những cái tình cảm giữa xã hội. Nhà nghệ sĩ khi diễn đạt cái tình cảm ấy lên trên
mặt giấy hay trên tấm đá là cố ý để cho mọi người xem tới cũng đồng mối liên
cảm theo (nhấn mạnh T.T.H)”. Như vậy, sáng tác của nhà văn không phải là tùy
hứng, vu vơ mà xuất phát từ ý đồ, mục đích trong mối liên hệ với độc giả qua tác
phẩm. Chính độc giả là nơi tập trung nhu cầu xã hội đối với nhà văn, là đối tượng
luôn đòi hỏi trông chờ nhà văn qua tác phẩm. Về mặt này, ý kiến của Hải Triều
trên Tiểu thuyết thứ 7 số 62 (1935) đã chứng tỏ một sự nhận thức rất rõ: ”Giữa sự
sống vất vả và gian khổ đầy những mâu thuẫn của xã hội ngày nay người ta đang
ước ao về mặt tinh thần, đọc được những tác phẩm có thể diễn dịch được nỗi
lòng của họ. Cái buồn, cái vui, cái giận, cái tiếc, cái thương, cái mơ ước ( ) cũng
cứ tô vẽ ra cho họ bằng những câu văn chân thật, cứng cỏi, mạnh bạo. Họ không
cần những lời văn hoa mỹ điêu toa. Họ ưa những thể văn bình dị mà thiết
thực”[1-27]. Nghĩa là, phải xuất phát từ yêu cầu của độc giả cả về nội dung và
hình thức, cả về tư tưởng và nghệ thuật để nhà văn chọn viết cái gì và viết như
thế nào nhằm phát huy được hiệu quả của sáng tác. Mối liên hệ giữa nhà văn với
độc giả, và ngược lại, giữa độc giả với nhà văn là mối liên hệ hai chiều trong quá
trình giao tế văn học. Không đợi đến khi tác phẩm ra đời mà ngay trong quá trình
sáng tác, độc giả đã trở thành người bạn đồng hành của nhà văn, ám ảnh, thôi
thúc và định hướng nhà văn cầm bút. Chỉ có những nhà văn chân chính mới đồng
hành với độc giả chân chính; sáng tác của họ mới “biểu hiện được cái tình cảm tư
tưởng phổ biến của số đông người trong một thời đại”[1-34] như Hải Triều nói,
và do đó mới có thể tạo ra những giá trị nghệ thuật đích thực.
Dĩ nhiên dù sáng tác có tạo ra được giá trị nghệ thuật, thì đó cũng mới chỉ
là giá trị ổn định, trong thế khả năng. Nó sẽ mãi mãi mất đi ý nghĩa nếu chỉ

22
khuôn lại trong phạm vi sáng tác mà không được độc giả thưởng thức, tiếp nhận.
Mác nói: ”Chỉ có sử dụng mới hoàn tất hành động sản xuất, mang lại cho sản
phẩm một sự trọn vẹn với tư cách là sản phẩm” (chuyển dẫn) [4-331]. Những
người theo phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” do không hiểu điều này hoặc cố tình

phớt lờ để bảo vệ cho quan niệm của mình nên đã bị Hải Triều thẳng thắn chỉ
trích. Trên báo Trung Kỳ số 1 và số 4 (1935), Hải Triều vạch rõ: ”Nhà nghệ sĩ
duy tâm đã cho rằng làm nghệ thuật chỉ là vì nghệ thuật. Vì nghệ thuật có giá trị
vốn có của nó (savaleur in trinsèque). Họ không cần sự phẩm bình của dư luận,
sự thưởng thức của công chúng, tự nó đã có sẵn một giá trị giá trị cố hữu của
nó” [1-35]. Đối lập với quan niệm đó, trên báo Tin văn số 6 (1935), ông khẳng
định: ”Cái giá trị của một tác phẩm và nghệ thuật không phải tự nó sẵn có mà
chính là ở chỗ bình phẩm của xã hội“. Sáng tác văn học đươc Hải Triều nhìn
nhận như một sản phẩm của ”sản xuất” tinh thần, nếu tac phẩm được viết ra
không được độc giả tiếp nhận thì cùng lắm như một kỹ vật, sáng tác sẽ trở nên vô
nghĩa và tác phẩm cũng dễ bị lãng quên. Chính khâu tiếp nhận của độc giả đã
làm cho giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ khả năng mà trở thành hiện thực, từ ổn
định mà trở nên biến đổi; mục đích giao tiếp giữa nhà văn với bạn đọc mới được
thực hiện. Ông nói: ”Ví thử nhà thi sĩ viết ra cuốn sách rồi bỏ vào rương khóa lại
đến khi chết đem xuống đất thì dầu ông ấy muốn cho tác phẩm của ông có giá trị
cố hữu, ta cũng chã nói làm gì. Bên này thì ông viết ra ngâm chán rồi lại muốn
đưa ra cho xã hội biết, tất cũng như cái mũ đưa ra giữa thị trường vậy thôi. Nó
cũng tùy theo sự nhu yếu, sự sử dụng, sự thiếu thốn, sự thời thượng của mỗi
giai cấp, mỗi thời gian, mỗi không gian mà quyết định cái giá cho tập sách của
thi sĩ”[1-35]. Như vậy, giá trị nghệ thuật được Hải Triều xem xét không những
trong mối liên hệ hữu cơ giữa sáng tác và tiếp nhận, mà ngay trong tiếp nhận,
việc định giá đối với sáng tác qua tác phẩm - theo ông, còn do độc giả quyết định
với sự chi phối của những yếu tố vừa mang tính chủ quan, vừa khách quan. Đó là
yêu cầu của mỗi người, nhưng gắn bó không tách rời với giai cấp là lập trường,

23
quan điểm, với thời gian, không gian là thời đại và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Đã
có lần ông khẳng định:”Cái giá của nghệ thuật trong xã hội này chỉ tương đối và
hữu hạn mà thôi. Vì nghệ thuật đối với giai cấp này, thời đại này, xứ sở này thì
cho là có giá trị, đối với giai cấp khác, thời đại khác, xứ sở khác thì chả ra gì”[1-

34]. Ý kiến của Hải Triều tuy chưa được triển khai một cách đầy đủ và cụ thể,
nhưng trong nội dung cốt lõi của nó đã chứng tỏ một cái nhìn đúng đắn và sâu
sắc của ông về một phương diện nữa của tiếp nhận. Đó là sự quy định của xã hội
và văn hóa - lịch sử đối với việc đánh giá giá trị nghệ thuật, mà sau này, các nhà
nghiên cứu tiếp nhận hiện đại ở nước ta đã có dịp phân tích và chứng minh một
cách sáng tỏ, có hệ thống.
Như vậy không đợi đến những năm 70 của thế kỷ trước, ở ta mới có người
đề xuất “xem xét giá trị nghệ thuật liên quan đến phạm vi thưởng thức tác phẩm
của độc giả“ - như một nhà phê bình đã nhận định, mà sớm hơn, cách đó 40 năm
trước, xung quanh về vấn đề này, trong quan điểm văn nghệ của Hải Triều đã có
nhiều ý kiến đặt cơ sở nền tảng. Giá trị di sản tư tưởng văn hóa của Hải Triều
được khẳng định trên nhiều lĩnh vực. Chỉ kể riêng ở lĩnh vực văn nghệ, đóng góp
của ông về một phương diện cụ thể như vậy đã xuất sắc mà trước đó chưa ai có
được.
(**)
Chú thích:
(*) Đại diện cho phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” có Thiếu Sơn, Hoài Thanh
còn đại diện cho phái “nghệ thuật vị nhân sinh” có Hải Triều, Hải Thanh, Hải
Vân, Bùi Công Trừng
(**) “ Khi xét công lao lịch sử, người ta không căn cứ và chỗ là các nhà
hoạt động lịch sử đã không cống hiến được gì so với nhu cầu của thời đại của
chúng ta, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối
của họ “ (Lênin về văn hóa văn học, nxb văn học (1977), trang 194.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hải Triều về văn học nghệ thuật. Nxb văn học, H.(1969).
2. Trường Chinh về văn hóa và nghệ thuật. T1. Nxb văn học, H. (1986).
3. Trường Chinh về văn hóa và nghệ thuật. T2. Nxb văn học, H. (1986).
4. Lý luận văn học, Nhiều tác giả, Nxb Giáo dục, H. (1986).

ABOUT THE VALUE OF ART - THE MEETTING
BETWEEN HAI TRIEU ‘S POINT OF VIEW ON ART
AND THE MODERN APPROACHING THEORY
Tran Thai Hoc.
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
Composing only creates the value of art in the tendency of potentiality and
stability. This value will come true and change constantly only if the readers
welcome the works. It’s the readers with personal and social factors that form
the foundation to determine the assessment results of the art value of the works.
In this field, Hai Trieu’s point of view on art meets the modern approaching
theory.

×