Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " TÌM HIỂU TRỊ SỐ LƯU LƯỢNG ĐỈNH THỞ RA Ở TRẺ EM XÃ HƯƠNG HỒ THÀNH PHỐ HUẾ BẰNG MÁY ĐO LƯU LƯỢNG ĐỈNH PEAK- FLOW ETER " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.68 KB, 14 trang )



65
TÌM HIỂU TRỊ SỐ LƯU LƯỢNG ĐỈNH THỞ RA
Ở TRẺ EM XÃ HƯƠNG HỒ THÀNH PHỐ HUẾ
BẰNG MÁY ĐO LƯU LƯỢNG ĐỈNH PEAK- FLOW ETER
Lê Thị Cúc
Trường Đại học Y khoa, Đại học Huế

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản, nhất là hen trẻ em ngày nay là một vấn đề đáng quan tâm
của ngành y tế của các nước trên thế giới vì có khuynh hướng gia tăng cả về tần
suất mắc bệnh cũng như độ nặng.
Để có thể chẩn đoán, đánh giá độ nặng và diễn biến của hen một cách
khách quan, dễ thực hiện tại bệnh viện cũng như theo dõi tại nhà, người ta đã sử
dụng máy đo lưu lượng đỉnh (Peak Flow Meter- PFM)[3,4,5]. Gần đây PFM
cũng bắt đầu sử dụng ở nước ta.
Trên thế giới, người ta sử dụng bảng trị số lưu lượng đỉnh thở ra (Peak
Expiratory Flow- PEF) bình thường do GODFREY và cộng sự xây dựng năm
1970. Đây cũng là bảng trị số PEF bình thường được Viện Tim Phổi và Máu
thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ sử dụng. Gần đây, một số tác giả Việt Nam đã khảo sát trị
số PEF trên người bình thường ở khu vực Thượng Đình và Thanh Trì, Hà Nội.
Tuy nhiên, đối tượng khảo sát của họ là 12 -15 tuổi. Chúng tôi nghĩ rằng cần có
bảng trị số PEF bình thường cho trẻ em địa phương với đặc thù riêng của nó. Vì


66
thế, chúng tôi thực hiện đề tài: Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã
Hương Hồ, thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh PFM, nhằm mục đích:
- Xây dựng bảng trị số PEF bình thường ở trẻ em 5 - 15 tuổi thuộc xã
Hương Hồ.


- Xác định mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi và chiều cao.
Chúng tôi hy vọng góp phần xây dựng bảng trị số PEF bình thường cho trẻ em
khu vực Thừa Thiên Huế cũng như trẻ em Việt Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng:
- Trẻ em bình thường từ 5 - 15 tuổi thuộc 6/9 thôn thuộc xã Hương Hồ,
thành phố Huế gồm 1166 em.
- Chọn 200 em, chia đều cho các thôn: Long Hồ Thượng, Long Hồ Hạ,
Lựu Bảo, Dăm Biều, Xướt Dũ, Ngọc Hồ, đạt một tỉ lệ tương đương 17,14 % tùy
theo số trẻ thôn đó có.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp: phương pháp điều tra cắt ngang.
- Chọn mẫu: Dựa theo nghiên cứu trước đó của Nguyễn Thanh Long,
chúng tôi tính: + Cỡ mẫu: theo công thức: n =
2
2
2
2/


s


+ Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên: trong mỗi thôn chia thành 5
nhóm tuổi: 5 - 6 tuổi, 7 - 8 tuổi, 9 - 10 tuổi, 11 - 12 tuổi, 13 - 15 tuổi. Trẻ em


67
trong mỗi nhóm tuổi được đánh số thứ tự, bốc thăm theo số cho từng nhóm tuổi
và theo tỉ lệ phân bố theo nhóm tuổi của mỗi thôn.

- Trẻ được chọn được hướng dẫn kỹ cách đo PEF bằng máy PFM hiệu
Vitalograph sản xuất tại EC.
- Mỗi trẻ được đo PEF 3 lần và lấy kết quả đo cao nhất. Đồng thời trẻ
được đo chiều cao.
- Xử lý số liệu bằng chương trình STATISTICA.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong khi xử lý số liệu, 1 em đã bị loại ra khỏi quần thể nghiên cứu vì có
chiều cao quá thấp so với tuổi (8 tuổi, nhưng chiều cao chỉ 80,5cm). Như vậy chỉ
còn 199 em từ 5 - 15 tuổi, trong đó có 99 nam và 100 nữ.
Bảng 1: Chiều cao, tuổi và trị số PEF trung bình
Thông số N Tối thiểu Tối đa Trung bình SD
- Chiều cao (cm)
- Tuổi (năm)
- Trị số PEF(
lít/phút)
199
199
199
88,50
05
120
156
15
420
123,32
9,57
240,08
13,87
3,11
73,21

Bảng 2: Bảng so sánh tỉ lệ về giới


68
Giới n Tỉ lệ % p
- Nữ
- Nam
100
99
50,30
49,70
>0,05
N 199
Nhận xét: Sự phân bố về giới không khác biệt với p>0,05.
Bảng 3: Bảng so sánh trị số PEF trung bình theo giới
Giới PEF (l/ph) p
Nam
Nữ
243,73± 72,78
236± 73,8
>0,05
Nhận xét: Trị số PEF trung bình không khác biệt ở cả 2 giới với p>0,05.


69
Bảng 4: Bảng trị số PEF trung bình theo tuổi
Nhóm tuổi

n Tối thiểu Tối đa Trung bình SD
5 - 7

8 - 10
11 - 13
14 - 15
65
54
51
29
120
130
200
250
250
300
380
420
169,46
227,78
285,49
341,38
30,55
42,37
42,86
53,10
Nhận xét: Trị số PEF trung bình tăng dần theo tuổi.
Bảng 5: Bảng trị số PEF trung bình theo chiều cao
Chiều cao PEF ( l/ph)
(cm)
n
Tối thiểu Tối đa Trung bình SD
85 - 95

95 - 105
105 - 115
115 - 125
3
13
51
52
120
120
125
150
220
150
220
300
153,33
139,61
170,49
219,80
57,73
9,67
23,03
35,95


70
125 - 135
135 - 145
145 - 155
55

29
14
200
250
250
350
420
410
282,00
321,37
343,57
35,98
56,93
56,38
Nhận xét: Trị số PEF trung bình tăng dần theo chiều cao.













Tæång quan giæîa chiãöu cao vaì PEAKFLOW
PEAKFLOW = -334,0 + 4,6550 * CAO

Hãû säú tæång quan r = 0,88179 (p< 0,01)
CAO
PEAKFLOW
50
100
150
200
250
300
350
400
450
80 90 100 110 120 130 140 150 160 170


71


Hình 1: Biểu đồ biểu diễn mối tương quan giữa PEF và chiều cao















Tæång quan giæîa TUÄØI vaì PEAKFLOW
PEAKFLOW = 42,750 + 20,613 * TUÄØI
Hãû säú tæång quan : r = 0,87515 (p < 0,01)
TUOI
PEAKFLOW
50
100
150
200
250
300
350
400
450
4 6 8 10 12 14 16


72
Hình 2: Biểu đồ biểu diễn sự tương quan giữa PEF và tuổi
Phương trình hồi qui của PEF theo chiều cao và tuổi:
PEF = 4,66H+ 20,61A - 291,25
Trong đó: PEF : tính bằng lít/phút
H : Chiều cao tính bằng cm
A : Tuổi tính bằng năm.
Bảng 6: Bảng trị số PEF trung bình và chiều cao ở 175 trẻ từ 6 - 15 tuổi
Tối thiểu Tối đa Trung bình SD
PEF

Chiều cao
125
90
420
156
252,54
125,94
69,03
12.50
4. BÀN LUẬN
4.1. Qua bảng 4 và bảng 5 chúng tôi đã xây dựng được bảng trị số PEF
theo tuổi và chiều cao cho trẻ em từ 5- 15 tuổi tại xã Hương Hồ, thuận tiện, dễ sử
dụng.
4.2. Xác định mối tương quan giữa trị số PEF theo tuổi và chiều cao:
Theo bảng trị số PEF của Godfrey và cộng sự [3,4] do Viện máu và tim
phổi Hoa Kỳ đưa ra sử dụng từ năm 1970 thì PEF được tính dựa theo tuổi, giới


73
và chiều cao tính bằng centimet. Tuy nhiên, theo tác giả Leiner GC và cộng sự
(1963) thì PEF của trẻ em được tính chỉ dựa vào tuổi và chiều cao. Vậy vấn đề
đặt ra là có cần thiết phải đối chiếu PEF với tuổi, giới và chiều cao hay chỉ cần
đối chiếu với tuổi và chiều cao thôi. Theo nghiên cứu của chúng tôi, trị số PEF
trung bình giữa nam và nữ ở lứa tuổi 5-15 tuổi không khác biệt có ý nghĩa thống
kê với p> 0,05. Điều này được củng cố thêm ở tỉ lệ phân bố nam nữ trong nghiên
cứu cũng không có sự khác biệt với p>0,05. Như vậy, ở trẻ em từ 5 đến 15 tuổi ta
chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao là đủ, không cần thiết phải đối chiếu
với giới. Điều này cũng phù hợp với sự phát triển thể chất và tinh thần bình
thường ở trẻ em: ở lứa tuổi 5 - 15 tuổi thì chiều cao của trẻ em nữ phát triển
tương đương với trẻ em nam.

Chúng tôi đã xác định được hệ số tương quan r giữa PEF và chiều cao là
0,88 (p<0,01) và giữa PEF và tuổi cũng là 0,88 (p<0,01). Tương quan này là
tương quan thuận và chặt. Như vậy, ở trẻ em 5-15 tuổi, PEF tỉ lệ thuận với tuổi
và chiều cao. Điều này được chứng minh qua biểu đồ tương quan giữa PEF với
chiều cao, giữa PEF và tuổi. Qua hệ số tương quan r, chúng tôi thiết lập được
phương trình hồi qui của PEF theo tuổi và chiều cao:
PEF = 4,66H+ 20,61A- 291,25.
Chúng tôi không thể so sánh phương trình này với nghiên cứu của các tác
giả Nguyễn Đình Hường, Trịnh Bỉnh Di, Nguyễn Văn Tường, Trần Thị Duy, Lê
Bá Thúc, Công Thị Kim Khánh ở trẻ em 12-15 tuổi ở khu vực Thượng Đình và
Thanh Trì, Hà Nội [1]
Bảng 7: So sánh trị số PEF trung bình và chiều cao của trẻ em từ 6 - 15 tuổi
ở xã Hương Hồ với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Long


74
Nguyễn Thanh Long
(N = 1563)
Chúng tôi (N= 175) p
PEF 271,26 ± 65,38 252,54± 69,03 <0,01
Chiều cao 132,09 ± 16,21 125,94± 12,50 <0,01
Khi so sánh với Nguyễn Thanh Long (nghiên cứu trên 1563 trẻ từ 6-15
tuổi tại các trường học khu vực Huế) [2] chúng tôi thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,01)về trị số PEF trung bình và chiều cao. Như vậy có lẽ do nhóm
nghiên cứu của chúng tôi là trẻ em nông thôn có chiều cao thấp nên trị số PEF
trung bình cũng thấp hơn so với trẻ em thành phố.
Hình 3: So sánh đường biểu diễn của Golfrey (đường thẳng dưới)
và chúng tôi (đường thẳng trên).
Biãøu âäö so saïnh våïi GODFREY
CHIÃÖU CAO

peakflow
50
100
150
200
250
300
350
400
450
95 105 115 125 135 145 155
Hæång Häö
Godfrey


75
Khi so sánh đường biểu diễn của trị số PEF trung bình theo chiều cao của
chúng tôi với Godfrey [3,4] chúng tôi nhận thấy ở lứa tuổi 5 - 15 tuổi, PEF của
trẻ em Hương Hồ cao hơn cho dù chiều cao khởi điểm của chúng tôi thấp hơn là
95cm. Phải cho đến chiều cao 150-160 cm thì trị số PEF của cả 2 nhóm mới cân
bằng. Phải chăng sau 15 tuổi khi sự phát triển chiều cao ổn định và thể lực tương
đối cân bằng thì PEF sẽ giống nhau? Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Long
cũng vậy, trị số PEF ở trẻ có chiều cao 100- 125 cm cao hơn Godfrey. Như thế
phải chăng trẻ em Thừa Thiên Huế nói riêng và trẻ em Việt Nam có chức năng
hô hấp tốt hơn? Điều này chỉ là một nhận xét bước đầu và cần có một công trình
nghiên cứu qui mô trên cả nước mới có thể xác nhận được điều này. Trong
nghiên cứu của chúng tôi nhóm trẻ có chiều cao 85-95cm có trị số trung bình cao
hơn nhóm trẻ 95 - 105cm có lẽ là do nhóm 85 - 95cm chỉ có 3 trẻ. Do đó, trị số
PEF này không thể đại diện được mà cần phải làm thêm số trẻ ở nhóm này.
5. KẾT LUẬN

- Có mối tương quan thuận và chặt giữa PEF với chiều cao và tuổi.
- Chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao ở trẻ em 5-15 tuổi.
- Mặc dù PEF của Godfrey được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng kết
quả của chúng tôi lại cao hơn. Do đó, cần xây dựng một bảng PEF riêng cho trẻ
em Việt Nam để có kết quả chính xác hơn trong chẩn đoán, điều trị và theo dõi
trẻ em bị hen.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Tường, Trịnh Bỉnh Di, Nguyễn Đình Hường và cộng sự.
Giá trị bình thường các chỉ tiêu chức năng phổi nghiên cứu tại khu vực


76
Thanh Trì và Thượng Đình, Hà Nội. Kết quả bước đầu nghiên cứu một
số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, NXB Y học Hà Nội (1996) 143.
2. Nguyễn Thanh Long. Thử tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh bình thường ở
trẻ em trường học khu vực thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh
Mini - Wright. Tập san Nghiên cứu khoa học, trường Đại học Y Khoa
Huế (1996) 13 - 14
3. Leiner GC et al. Expiratory peakflow rate. Standard values for normal
subjects. Use as a clinical test of ventilatory function. Am Rev Resp Dis
(1963).
4. Man S. Kavuru and Herbert P. Wiedemann. Diagnois and
Management of Asthma. (1998) 33
5. Chretien, J. Marsac. Pneumologie 3
e
edition, Masson (1990) 89
TÓM TẮT
1. Mục đích của đề tài: Tìm hiểu trị số lưu lượng đỉnh thở ra ở trẻ em xã
Hương Hồ thành phố Huế bằng máy đo lưu lượng đỉnh Peak- Flow Meter là:
- Xây dựng bảng trị số PEF bình thường ở trẻ em 5- 15 tuổi thuộc xã

Hương Hồ.
- Xác định mối tương quan giữa trị số PEF với tuổi và chiều cao.
2. Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang.
3. Kết quả:
- PEF trung bình ở trẻ trai không khác biệt so với trẻ gái (p>0.05).


77
- Có mối tương quan thuận và chặt giữa PEF với chiều cao và tuổi.
- PEF trung bình ở trẻ em 5-15 tuổi ở xã Hương Hồ cao hơn ở bảng
Godfrey.
4. Kết luận:
- Chỉ cần đối chiếu PEF với tuổi và chiều cao ở trẻ em 5-15 tuổi.
- Mặc dù PEF của Godfrey được sử dụng rộng rãi trên thế giới nhưng kết
quả của chúng tôi lại cao hơn. Do đó, cần xây dựng một bảng PEF riêng cho trẻ
em Việt Nam để có kết quả chính xác hơn trong chẩn đoán, điều trị và theo dõi
trẻ em bị hen.

STUDYING THE PEAK EXPIRATORY FLOW (PEF) IN THE
CHILDREN
AT HUONG HO COMMUNE WITH PEAK FLOW METER
Le Thi Cuc
College of Medicine, Hue University
SUMMARY
1. Study aim
- Establish the normal PEF in the children aged 5 to 15 at Huong Ho
Commune


78

- Establish the relationship between the PEF in age and height.
2. Method:
Cross and randomized study of 200 children aged from 5 to 15 at Huong Ho
Commune.
3. Results:
- The mean PEF is the same between males and females. (P

0.05).
- There is a good relationship between the PEF in age and height.
- The normal PEF in the children aged from 5 to 15 at Huong Ho Commune
is higher than the one by Godfrey et al widely used in the world.
4. Conclusion:
- It is sufficient to compare PEF with age and height.
- There should be a normal DEF designed for the Vietnamese children.




×