Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Thảo luận Hôn Nhân Gia Đình Buổi 3.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.21 KB, 10 trang )

Buổi thứ ba
I.
Câu hỏi
1.Cơ sở phát sinh quan hệ vợ chồng theo pháp luật là do kết hôn (hoặc sống
chung )
2. Nghĩa vụ và quyền nhân thân giữa vợ và chồng?
Quyền và nghĩa vụ về nhân thân được quy định từ Điều 17 đến Điều 23 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.
Nghĩa vụ và quyền nhân thân riêng tư:
- Chung thủy
- Chăm sóc giúp đỡ
- Sống chung (Điều 43 BLDS 2015)
Nghĩa vụ và quyền nhân thân chung:
- Bình đằng (Điều 39 BLDS 2015)
- Lựa chọn nơi cư trú
- Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 34 BLDS 2015)
- Tơn trọng tự do, tín ngưỡng, tơn giáo
- Quyền và nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội
3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với các giao dịch do một bên thực hiện?
Ý nghĩa của cơ chế ?
Theo quy đình tại Điều 27 Luật HN&GÐ năm 2014 như sau:
"1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy
định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các
điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật
này."
"Nghĩa vụ dân sự liên đới" theo BLDS 2015 quy định : “Nghĩa vụ dân sự liên đới là
nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ
ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện tồn bộ nghĩa vụ". Luật HN&GÐ
năm 2014 chỉ rằng buộc vợ, chồng bởi “trách nhiệm dân sự liên đới" chứ không phải


“nghĩa vụ dân sự liên đới".
Trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng chỉ phát sinh theo quy định tại Điều 27 Luật
HN&GÐ năm 2014 khi thực hiện các giao dịch đáp ứng nhu cầu cần thiết hoặc hoặc
các giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại Điều 24, 25, 26, khoản 1 điều
30 và điều 37 của Luật HN &GĐ năm 2014.
Ý nghĩa:
- Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng là một quy định rất quan trọng và cần thiết,
nhằm rằng buộc trách nhiệm giữa vợ chồng với nhau, vừa đảm bảo cuộc sống gia đình
vừa đảm bảo quyền lợi của người thứ ba khi tham gia giao dịch do một bên vợ hoặc
chồng thực hiện.
- Quy định này khắc phục được tình trạng thường xảy ra trên thực tế: đó là sự thờ ơ,
vơ trách nhiệm của vợ và chồng đối với công việc gia đình. Đơi khi vợ và chồng tự
mình thực hiện những giao dịch dân sự vì hoạt động chung thiết yếu của gia đình,
nhưng khi trách nhiệm phát sinh người chồng hoặc người vợ lại không chịu chia sẻ
trách nhiệm, khơng có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau trong cuộc sống gia đình.


Chính vì thế, quy định của Luật HN&GÐ năm 2014 là hoàn toàn phù hợp với truyền
thống yêu thương, quý trọng, hỗ trợ lẫn nhau trong gia đình.
4. Quan hệ đại diện giữa vợ và chồng?
Trả lời:
Mục tiêu: hướng đến việc bình đẳng, tự do và được pháp luật cơng nhân, bảo vệ
đối với quyền của vợ và chồng.
- Căn cứ xác lập: được quy định tại Điều 24 Luật hơn nhân và gia đình 2014:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch được
xác định theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà
theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự
đồng ý của cả hai vợ chồng.
3. Vợ, chồng đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia

có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự mà bên kia được Tòa án chỉ định làm người đại diện theo pháp luật cho người đó,
trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thì người đó phải tự mình thực hiện quyền,
nghĩa vụ có liên quan.
Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có u
cầu Tịa án giải quyết ly hơn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự,
Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải
quyết việc ly hơn.”
Bên cạnh đó, vợ, chồng cịn có quyền đại diện cho nhau trong các quan hệ kinh
doanh, có thể sử dụng tài sản cá nhân để kinh doanh hoặc tài sản chung:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì vợ, chồng trực tiếp tham gia
quan hệ kinh doanh là người đại diện hợp pháp của nhau trong quan hệ kinh doanh
đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận
khác hoặc Luật này và các luật liên quan có quy định khác.
2. Trong trường hợp vợ, chồng đưa tài sản chung vào kinh doanh thì áp dụng quy
định tại Điều 36 của Luật này”. (Điều 25 Luật hơn nhân gia đình 2014)
Đối với tài sản chung như giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì cợ, chồng
cũng có quyền đại diện cho nhau:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao
dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận
quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại
Điều 24 và Điều 25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy
chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao
dịch đó vơ hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay
tình được bảo vệ quyền lợi.” (Điều 26 Luật hơn nhân gia đình 2014)
Xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung của gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chồng thì việc đặt ra vấn đề đại diện là vô cùng cần thiết. Như vậy có thể

tránh việc các giao lưu dân sự giữa vợ, chồng với người thứ ba bị gián đoạn, hạn chế,
tránh kìm hãm sự phát triển chung của xã hội.


5. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận?
Trả lời:
Tài sản giữa vợ chồng sau khi hết hôn gồm khối tài sản được người vợ hoặc
người chồng tạo lập trước thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được vợ chồng tạo lập trong
thời kỳ hôn nhân, khối tài sản được tặng cho riêng, được tặng cho chung và các hoa
lợi lợi tức phát sinh từ các khối tài sản này.
- Luật Hơn nhân và gia đình 2000 mặc dù thừa nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa
thuận là cần thiết và đem lại nhiều lợi ích nhưng chỉ quy định duy nhất một chế độ tài
sản vợ chồng theo pháp luật. Việc này đem lại nhiều hạn chế. Thứ nhất, quy định của
Luật hiện hành không bảo đảm quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản được quy
định trong Hiến pháp và Bộ luật Dân sự. Về nguyên tắc, mỗi cá nhân có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình theo ý chí của mình,
miễn sao khơng xâm phạm đến lợi ích của người khác, khơng trái với đạo đức xã hội.
Thứ hai, việc chỉ áp dụng một chế độ hôn sản pháp định cho tất cả các trường hợp
không đáp ứng được nhu cầu của một số cặp vợ chồng. Thực tế, có những trường hợp
mà hai người kết hôn muốn tất cả tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hơn cũng như
trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung; ngược lại, có những trường hợp mà người
kết hơn có nhiều tài sản riêng có nguồn gốc từ gia đình mình, có con riêng hoặc vì lý
do kinh doanh riêng, nên muốn thực hiện một chế độ tách riêng tài sản và thỏa thuận
với nhau về việc đóng góp cho đời sống chung của gia đình. Đến Luật hơn nhân và gia
đình năm 2014 đã quy định hai cách thức xác lập chế độ tài sản vợ chồng hoặc theo
pháp luật hoặc theo thỏa thuận. Cụ thể tại Điều 28 có quy định: “Vợ chồng có quyền
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận.”
- Về hình thức: Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập thành
văn bản và phải được công chứng, chứng thực
- Thời điểm xác lập: Thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn. Chế độ tài sản

của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
- Chế độ tài sản thỏa thuận của vợ chồng ở Việt Nam có những đặc điểm về nội dung
sau:
+ Thứ nhất, trong văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, trước hết
vợ, chồng cần xác định rõ những tài sản nào là tài sản riêng của mỗi bên và những tài
sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Vì khi xác định được phạm vi các loại tài sản,
quyền sở hữu của mỗi bên thì vợ, chồng sẽ thỏa thuận và thống nhất được với nhau
các quyền cũng như nghĩa vụ đối với từng loại tài sản.
+ Thứ hai, trên cơ sở xác định nội dung về tài sản trong thỏa thuận trước đó vợ
và chồng thỏa thuận về các quyền của mỗi bên đối với tài sản chung, tài sản riêng
cũng như những nghĩa vụ riêng, nghĩa vụ chung về tài sản hai bên phải gánh chịu và
những nhu cầu thiết yếu của gia đình sẽ được đảm bảo bằng tài sản chung hay tài sản
riêng. Bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ của vợ,
chồng; trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận tài sản bảo đảm nhu cầu thiết yếu của
gia đình là tài sản chung nhưng tài sản chung không đủ thì vợ, chồng cần thỏa thuận
việc có đóng góp tài sản riêng của mối bên và đóng góp bao nhiêu vào tài sản chung
để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cho gia đình.
+ Thứ ba, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng được lập trước khi kết
hơn và có hiệu lực kể từ ngày vợ, chồng thực hiện thủ tục đăng ký kết hơn theo trình
tự, điều kiện và quy định của pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu của mỗi bên, vợ chồng


có thể thỏa thuận các điều kiện được đưa ra khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa
thuận và xác định trong những trường hợp nào một bên hoặc cả hai bên vợ chồng có
quyền yêu cầu chấm dứt chế độ tài sản này. Khi chấm dứt chế độ tài sản theo thỏa
thuận, tài sản sẽ được chia cho vợ chồng theo thủ tục (thỏa thuận hoặc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền giải quyết) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng và nguyên tắc chia
tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản đó. Về nguyên tắc tài sản có thể chia theo cách
thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo nguyên tắc phân chia khác
do hai vợ chồng tự thỏa thuận thống nhất với nhau. Và khi có tranh chấp xảy ra, việc

giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng theo thỏa thuận của vợ chồng.
+ Thứ tư, ngoài những nội dung chủ yếu nêu trên, trong nội dung của thỏa thuận
vợ, chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác (ví dụ như vấn đề cấp dưỡng cho
cha, mẹ, con …) liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với nhu cầu và
hoàn cảnh của mỗi bên.
6. Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được xác định theo quy định tại
Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do
vợ, chồng tại ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật này; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài
sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng. Trong trường hợp khơng có căn
cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi
bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung” Bên cạnh đó, Điều 9, Điều 10 Nghị định
126/2014/NĐ-CP có hướng dẫn chi tiết quy định trên như sau: Điều 9 Nghị định
126/2014/NĐ-CP giải thích thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hơn
nhân. Theo đó, thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bao
gồm: * Khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp, trừ trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 11 của nghị định này; * Tài sản mà vợ, chồng được xác lập
quyên sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị
chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước;
* Thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Điều 10 Nghị định
126/2014/NĐ-CP giải thích về hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng
như sau: * Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng là sản vật tự nhiên mà vợ,
chồng có được từ tài sản riêng của vợ, chồng; * Lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của
vợ, chồng là khoản lợi mà vợ, chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ,
chồng.
7. Phân tích chế định chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và

nêu quan điểm về chế định trong việc bảo vệ quyền về tài sản của vợ chồng.
Theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình 2014, về chế định chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định từ Điều 38 đến Điều 42
của Luật này.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 khơng đặt ra các điều kiện để vợ hoặc
chồng được quyền phân chia tài sản chung, có nghĩa là vợ hoặc chồng có quyền thỏa


thuận phân chia hoặc yêu cầu tòa án phân chia tài sản chung của họ và thỏa thuận này
phải lập thành văn bản (Điều 38).
→ Việc chia tài sản chung đầu tiên là dựa trên sự thỏa thỏa thuận của vợ, chồng
nhằm đảm bảo sự tự định đoạt, bình đẳng.
Về quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước
thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác (khoản 4 Điều 39).
→ Từ tài sản chung thành tài sản riêng thì khơng ảnh hưởng đến quyền và nghĩa
vụ phát sinh đối với người thứ ba nhằm đảm bảo quyền lợi người thứ ba ngay tình.
Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng thì phần hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản riêng của mỗi bên là tài sản riêng của vợ, chồng (khoản 1 Điều 40).
→ Đảm bảo quyền lợi phát sinh về tài sản riêng của mỗi bên.
Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận
chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Đồng thời quyền, nghĩa vụ về tài sản
trước thời điểm chấm dứt hiệu lực vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp có quy định khác
(khoản 1, 3 Điều 41).
→ Vợ chồng có quyền thỏa thuận việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
nên thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản đó cũng do vợ chồng thỏa thuận,
điều đó khơng làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ về tài sản trước thời điểm chấm
dứt hiệu lực vẫn có hiệu lực.
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ bị vô hiệu nếu ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con đồng thời

khơng nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ về tài sản (Điều 42).
→ Luật quy định điều này nhằm đảm bảo việc chia tài sản chung trong thời kỳ
hơn nhân sẽ khơng phải vì mục đích xấu khác.
Từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có
được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu
nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
8. Căn cứ xác định và chế độ pháp lý về tài sản riêng (tài sản pháp định) của vợ
hoặc chồng? Quyền định đọat về tài sản riêng của vợ chồng? Pháp định hạn chế
quyền định đọat tài sản riêng của vợ chồng tại Khoản 4 Điều 44 LHNGĐ sửa đổi
có trái với nguyên tắc đảm bảo quyền định đọat về tài sản của con người? Cơ sở
lý giải?
Trả lời:
- Căn cứ xác định: Điều 43 Luật HN&GĐ 2014.
- Chế độ pháp lý về tài sản riêng của vợ chồng:
+ Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình;
nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Trong trường hợp vợ hoặc
chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng khơng ủy quyền cho người
khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo
đảm lợi ích của người có tài sản.
+ Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh tốn từ tài sản riêng của
người đó. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản


riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự
đồng ý của chồng, vợ.
+ Nghĩa vụ riêng về tài sản bao gồm: Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước
khi kết hôn; Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng,
trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của
vợ, chồng khi quản lý tài sản riêng của bên kia; Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do

một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; Nghĩa vụ phát sinh từ hành
vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
+ Tài sản riêng của vợ, chồng khi nhập vào tài sản chung được thực hiện theo
thỏa thuận của vợ chồng. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của
pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải đăng ký hoặc cơng chứng, chứng
thực, thì phải thực hiện theo quy định đó. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập
vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Quyền định đọat về tài sản riêng của vợ chồng:
Căn cứ tại Điều 44 Luật HN&GĐ 2014, vợ chồng có quyền định đoạt tài sản
riêng theo ý chí của mình, miễn là khơng làm thiệt hại hoặc ảnh hưởng đến lợi ích nhà
nước, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, xuất
phát từ lợi ích chung của gia đình, do đó trong trường hợp tài sản chung không đủ để
đáp ứng các nhu cầu trong gia đình, vợ chồng phải dùng tài sản riêng của mình để đáp
ứng nhu cầu đó. Đối với các tài sản mà vợ, chồng đã chi dùng cho gia đình và khơng
cịn nữa; vợ, chồng khơng có quyền đòi lại.
- Pháp định hạn chế quyền định đoạt tài sản riêng của vợ chồng tại khoản 4 Điều 44
Luật HN&GĐ 2014 sửa đổi không trái với nguyên tắc đảm bảo quyền định đoạt về tài
sản của con người. Vì xuất phát từ việc đảm bảo quyền định đoạt của vợ chồng đối
với tài sản riêng, đồng thời đảm bảo lợi ích của các thành viên trong gia đình, Luật
HN&GĐ 2014 đã đặt ra quy định hạn chế quyền định đoạt của vợ chồng đối vưới tài
sản riêng của họ.
9. Phân tích quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng. Đánh giá thực tiễn áp
dụng pháp luật với việc đảm bảo quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng hiện
nay.
Phân tích quyền bình đẳng về tài sản của vợ chồng
Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản chung được thể hiện tại Khoản 1 Điều
29 Luật hơn nhân và gia đình 2014, theo đó:
“Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung; khơng phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao

động có thu nhập.”
Xuất phát từ tính chất của quan hệ hơn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức
trong việc tạo nên khối tài sản nhằm xây dựng gia đình, bảo đảm cho gia đình thực
hiện tốt chức năng xã hội của nó như phát triển kinh tế, tạo điều kiện tốt cho ni dạy
con. Vì vậy, pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chỉ căn cứ
vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải
do công sức của cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng tạo ra
trong thời kỳ hôn nhân.


Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Quyền bình đẳng của vợ chồng
đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc nguồn sống duy nhất của gia
đình, việc dùng tài sản để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận.
Trong trường hợp vợ, chồng ủy quyền cho nhau thì người được ủy quyền có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung trong phạm vi được ủy quyền.
Sự bình đẳng về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng cịn được thể
hiện ở quy định vợ chồng có tài sản riêng của mình: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm
tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại
các điều 38, 39 và 40 của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014. cụ thể: “Khi hơn
nhân tồn tại, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung;
việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu khơng thoả thuận được thì có
quyền u cầu Toà án giải quyết.” và “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên
sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận khác. Phần tài sản cịn lại khơng chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng".
+ Vợ, chồng có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
Việc quy định như vậy không làm ảnh hưởng tới tính chất của quan hệ hơn nhân và

cũng không làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của gia đình. Bên cạnh đó cịn góp phần
ngăn chặn hiện tượng hơn nhân nhằm vào lợi ích kinh tế mà khơng nhằm xác lập quan
hệ vợ chồng và có ý nghĩa quan trọng trong việc định đoạt tài sản. Điều này khơng
mâu thuẫn với ngun tắc bình đẳng giữa vợ và chồng. Vì:
- Là sự tơn trọng quyền sở hữu cá nhân của cơng dân nói chung và vợ chồng nói riêng,
giúp tạo ra mơi trường pháp lí đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tài sản
giữa vợ và chồng
- Tôn trọng sự độc lập của vợ chồng trong việc tham gia vào các mối quan hệ xã hội
khác ngồi hơn nhân và gia đình. Đảm bảo sự tự do của vợ và chồng khi tham gia các
giao dịch ngồi xã hội
- Là căn cứ pháp lí để các cấp tịa án giải quyết thấu đáo, cơng bằng những vụ việc
tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng
- Đồng thời khẳng định một cách nhất quán trong việc tiếp cận về bình đẳng giới xét
cả về mặt lý luận và thực tiễn của việc ghi nhận pháp luật trong đời sống.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc vợ chồng bình đẳng về tài sản được pháp luật ta đặc
biệt chú trọng, tạo điều kiện, căn cứ để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên, đặc biệt là người phụ nữ, giúp cho hạnh phúc gia đình được duy trì.

II.
2.1

Tình huống
1. Hành vi đơn phương bán xe của ơng Khánh (có trái với quy định về quyền
định đoạt tài sản của vợ chồng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 35 Luật
HNGĐ?)


Nếu hai chiếc xe đó là tài sản chung thuộc sở hữu của hai vợ chồng
thì ơng Khánh có vi phạm về quyền định đoạt tài sản của vợ chồng
quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 35 LHNGĐ

Nếu ông Khánh lập hợp đồng bán hai chiếc ô tô hiệu Toyota Altis là việc kinh doanh
của doanh nghiệp tư nhân K-D thì ơng Khánh khơng vi phạm quy định về quyền định
đoạt tài sản của vợ chồng quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ ( Khoản
1 Điều 25
2.2 Di sản của ông Lưu là 8 chỉ vàng, 1 tỷ 2 và căn nhà.Đối tượng được hưởng di sản
của ông là bà Tâm và con nuôi.
2.3 Năm 1952, ông Anh sống chung như vợ chồng với bà Nga. Hai người khơng có
con chung. Năm 1954, ơng Anh tiếp tục cưới bà Lành. Ơng Anh, bà Lành có con nuôi
chung là Túy. Năm 1988, ông Anh kết hôn với bà Nhung. Con chung của họ là Thắm,
Hùng. Ông Anh, bà Lành, bà Nhung cùng chung sống tại nhà số 11/8 xã K, Huyện LK,
tỉnh HB. Nhà này là tài sản mà ông Anh được thừa kế riêng năm 1953. Năm 2014, bà
Nhung và ông Anh sử dụng 72 triệu đồng - số tiền có được từ việc bán 18 chỉ vàng mà
hai người được mừng cưới để nâng cấp, cải tạo nhà số 11/8. Năm 2015, ông Anh chết
khơng để lại di chúc.
Anh, chị hãy:
i) Xác định có lý giải vợ của ông Anh theo quy định của pháp luật?
- Thứ nhất, năm 1952 ông Anh sống chung như vợ chồng với bà Nga. Căn cứ theo
điểm a khoản 3 NQ 35/2000/NQ-CP thì việc ơng Anh và bà Nga sống chung như vợ
chồng trước ngày 3/1/1987 mà chưa đăng ký kết hôn vẫn được công nhận là vợ chồng
hợp pháp. Do đó, bà Nga là vợ của ơng Anh.
- Thứ hai, năm 1954 ông Anh tiếp tục cưới bà Lành. Tại thời điểm này, LHNGĐ
1959 chưa có hiệu lực nên vẫn chấp nhận hôn nhân đa thê và căn cứ theo điểm a
khoản 3 NQ 35/2000/NQ-CP thì ơng Anh và bà Lành là vợ chồng hợp pháp. Do đo,
bà Lành là vợ của ông Anh.
- Thứ ba, năm 1988 ông Anh kết hôn với bà Nhung. Tại thời điểm này, LHNGĐ
1986 đã có hiệu lực nên áp dụng luật này. Theo điểm a Điều 7 LHNGĐ 1986, cấm kết
hơn trong trường hợp đang có vợ hoặc có chồng nên việc ơng Anh (đang có vợ là bà
Nga và bà Lành) kết hôn với bà Nhung là trái pháp luật. Do đó, bà Nhung khơng là vợ
của ơng Anh.
ii) Xác định di sản thừa kế của ông Anh và đối tượng được hưởng di sản thừa kế

của ông giả thiết có tranh chấp về thừa kế và tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ
án, nhà số 11/8 tại xã K, Huyện LK, tỉnh HB do ông Anh đứng tên; được định giá
3 tỷ đồng.
- Căn nhà là tài sản mà ông Anh được thừa kế riêng năm 1953.
- Năm 2014, bà Nhung và ông Anh sử dụng 72 triệu đồng - số tiền có được từ việc
bán 18 chỉ vàng mà hai người được mừng cưới để nâng cấp, cải tạo nhà. Mà quan hệ
vợ chồng giữa bà Nhung và ông Anh không được công nhận nên theo khoản 1 Điều
16 LHNGĐ 2014 thì quan hệ tài sản sẽ được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên;
trong trường hợp khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự
và các quy định khác của pháp luật có liên quan. (khơng biết làm)
- Đối tượng được hưởng di sản thừa kế của ông Anh:
Năm 2015, ông Anh chết không để lại di chúc nên chia thừa kế theo pháp luật theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 BLDS 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 651
-


BLDS 2015 (điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005) xác định người thuộc hàng thừa
kế thứ nhất của ông Anh là: bà Nga, bà Lành, Tuý, Thắm, Hùng.
* Bản án 98/2016 /HNGĐ-PT Ngày 26/7/2016 của TAND cấp cao tại Hà Nội.
1. Đánh giá phán quyết của Tòa án sơ thẩm (thể hiện trong Bản án Hơn nhân và Gia
đình sơ thẩm số 34/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của TAND tỉnh Nam Định) về
việc xác định quyền sở hữu tài sản là nhà, đất thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại
11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố Nam Định.
Trả lời:
Theo nhóm em thì phán quyết trên của Tồn án sơ thẩm là khơng hợp lý. Vì:
Theo quy định pháp luật, thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ
chồng, được tính từ ngày đăng ký hết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân tức là ngày
bản án quyết định ly hôn của Tịa án có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, mặc dù năm 2005 vợ chồng bà Hằng và ông Tân đã ly thân nhưng thực
chất quan hệ hôn nhân giữa hai người vẫn cịn tồn tại hợp pháp, do đó, tài sản nhà đất

thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An, thành phố
Nam Định vẫn được coi là tài sản hình thành trong hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 33, Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 quy định về tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng: thửa đất tại số 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An,
thành phố Nam Định tuy do một mình bà Hằng lo tiền để mua và ơng Tân khơng có
cơng sức đóng góp gì nhưng nó vẫn được hình thành trong thời kỳ hơn nhân. Tương
tự, đối với tài sản trên thửa đất (là nhà 4 tầng, 01 tum, gồm 5 phịng có trang thiết bị
phịng hát - Biên bản định giá BL 44) cũng là tài sản hình thành trong thời kỳ hơn
nhân. Do đó, toàn bộ tài sản trên vẫn dược coi là tài sản chung của vợ chồng.
Vì vậy tồn bộ tài sản trên phải được chia như tài sản chung của vợ chồng khi
giải quyết ly hơn.
2. Tịa án phúc thẩm trong bản án số 98/2016/HNGĐ-PT ngày 26/7/2016 đã đánh giá,
xác định nhà đất thửa số 2, tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc
An, thành phố Nam Định dựa trên căn cứ nào? Theo anh, chị, nhà, đất được tạo lập
trong khoản thời gian ông Tân, bà Hằng ly thân, do 1 bên đứng tên và có tranh chấp
thì bên nào có nghĩa vụ chứng minh?
Trả lời:
Tòa án Phúc thẩm trong Bản án số 98/2016/HNGĐ-PT ngày 26/7/2016 đã đánh giá
xác định nhà đất số 2 tờ bản đồ số 9.1 tọa lạc tại 11A Nguyễn Văn Cừ, xã Lộc An
thành phố Nam Định dựa trên căn cứ:
- Thửa đất đứng tên cả hai vợ chồng
- Tại khoản 1 Điều 43 Luật HNGĐ 2014 về chế độ tài sản riêng của vợ chồng:
“Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia
riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật Hơn nhân và Gia
đình; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy
định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng”.
- Cũng như tại khoản 3 Điều 33 Luật HNGĐ 2014:
“Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.



- Nếu nhà đất được tạo lập trong khoảng thời gian ông Tân và bà Hằng ly thân mà một
bên đứng tên và có tranh chấp đất đai thì bên cịn lại có nghĩa vụ chứng minh nếu hợp
lí tài sản đó sẽ là của chung cịn nếu khơng hợp lí thì đó sẽ là tài sản riêng của người
đứng tên.
3. Trên cơ sở pháp lý, hãy cho biết đường lối của Tòa án khi giải quyết lại lại theo thủ
tục chung phần tranh chấp tài sản là nhà đất 11A, giả thiết:
- Thửa đất được nhận chuyển nhượng bằng số tiền 350.000.000 đồng – khoản tài sản
do bà Hằng tạo lập khi đi lao động tại Hàn Quốc và số tiền cịn thiếu (33.000.000
đồng) thì vay em trai là ông Lê Duy Hùng đúng như lời khai của bà Hằng tại phiên tịa
phúc thẩm trước đó;
- Nhà trên đất được xây dựng với mục đích kinh doanh karaoke, từ nguồn tiền của vợ
chồng ông Tân, bà Hằng là 1.500.000 đồng, có sự góp vốn của ơng Tuấn Anh và ông
Hùng là 1.500.000 đồng. Tại thời điểm giải quyết tranh chấp, nhà định giá 4.000.000
đồng.
Trả lời:
Dựa theo khoản 2 Điều 33 Luật hơn nhân gia đình 2014 thì tịa đã xác định
quyền sử dụng khu đất 11A là tài sản riêng của bà Hằng, còn tài sản trên mặt đất là
ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng sau hôn nhân nên tiến hành phân chia theo quy
định về phân chia tài sản trong luật dân sự và cũng phải trả phần đóng góp cho các chủ
thể có liên quan.



×