Mục lục
I. TỔNG QUAN CHUNG............................................................................3
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................3
2. Tình hình nghiên cứu.................................................................................3
3. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu.................................................................3
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................4
5.1. Phương pháp luận:.................................................................................4
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:...........................................................4
II. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG...........4
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHÈO...........................................4
1.1.1. Khái niệm nghèo...................................................................................4
1.1.1.1........................................Quan niệm về nghèo của các tổ chức quốc tế
4
1.1.2. Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá nghèo..................................10
1.1.2.1..................................................Chuẩn nghèo và tiêu chí của thế giới
10
1.1.2.2.............................................Chuẩn nghèo và tiêu chí của Việt Nam:
10
1.2 . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG..........12
1.2.1. Khái niệm về giảm nghèo bền vững....................................................12
1.2.2. Vai trò của giảm nghèo bền vững.......................................................12
1.1.2.1. Giảm nghèo bền vững góp phần ổn định chính trị và phát triển xã
hội.
12
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa Giảm nghèo bền vững với phát triển kinh tế......12
1
1.2.3. Nội dung Giảm nghèo bền vững.........................................................13
1.2.4. các nhân tố ảnh hương đến giảm nghèo bền vững..............................13
1.2.4.1. Do điều kiện tự nhiên.......................................................................13
1.2.4.2. Do bản thân người nghèo.................................................................13
1.2.4.3. Do cơ chế chính sách.......................................................................13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGHÈO VÀ GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN
KIẾN THỤY...........................................................................................................19
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ- XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG TỚI
GIẢM NGHÈO Ở TỈNH PHÚ THỌ.......................................................................19
2.1.1. Tổng quan chung.................................................................................19
2.1.1.1............................................................................Vị trí địa lý và dân số:
19
2.1.1.2...........................................................................Bức tranh tồn kinh tế:
20
2.2.1. Thực trạng của vấn đề.........................................................................24
2.2.2. Vấn đề đặt ra cảnh...............................................................................25
3.1. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG Ở HUYỆN KIẾN THỤY...................................................................28
3.1.1. Bối cảnh thực hiện công tác giảm nghèo hiện nay..............................28
3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế:..............................................................................28
3.1.1.1. Bối cảnh trong nước.........................................................................28
3.1.2 Quan điểm giảm nghèo bền vững ở huyện Kiến Thụy:.......................28
3.1.3. Phương hướng giảm nghèo bền vững.................................................29
4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải
pháp………………………………………………………………………………..3
0
2
4.1 Hiệu quả kinh
tế……………………………………………………………………………………
…………………………………………31
4.2 Hiệu quả về xã
hội……………………………………………………………………………………
………………………………………31
4.3
Giá trị làm lợi
khác…………………………………………………………………………………
………………………...................32
3
I.
TỔNG QUAN CHUNG
1.
Lí do chọn đề tài
Huyện Kiến Thụy là một huyện hành chính thuộc thành phố Hải Phịng, có
vị trí và chiến lược quan trọng trong việc phát triển và nâng cao vị thế của thành
phố Hải Phòng. Những năm gần đây, huyện Kiến Thụy đã đạt được những bước
tiến đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo. Tuy nhiên, nguy cơ tái
nghèo vẫn cao. Vì vậy,
“ Giảm nghèo bền vững tại huyện Kiến Thụy đến năm
2020” vẫn đang là vấn đề cấp thiết cần được nghiên cứu, giải quyết.
2.
Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về giảm nghèo, tạo
cơ sở khoa học cho đề xuất và thực hiện các chính sách nhằm thực hiện mục tiêu
Giảm Nghèo Bền Vững. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đề cập sâu tới vấn đề giảm nghèo bền vững ở huyện Kiến Thụy theo phương
diện quản lí kinh tế.
3.
Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của luận văn là hệ thống hóa những vấn đề lí luận về giảm nghèo
bền vững, trên cơ sở đó phân tích đánh giá thực trạng giảm nghèo trên địa bàn
huyện Kiến Thụy, đề xuất giải pháp giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh thời
gian tới.
Mục tiêu của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lí luận chủ yếu về nghèo và giảm nghèo
bền vững.
- Nghiên cứu và đánh giá thực trạng nghèo và giảm nghèo bền vững trên địa
bàn huyện Kiến Thụy.
- Đề xuất một số giải pháp giảm nghèo bền vững ở huyện Kiến Thụy đến
năm 2020.
4
4.
Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là giảm nghèo được tiếp cận trên góc độ
quản lí kinh tế, trong đó tập trung đi sâu phân tích, đánh giá nội dung chính sách
giảm nghèo bền vững.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận về khơng gian là hoạt động giảm nghèo
trên địa bàn tồn huyện Kiến Thụy, về thời gian: phân tích, đánh giá thực trạng
giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 , đề xuất những giải pháp tiếp tục thúc đẩy giảm
nghèo bền vững của huyện đến 2020.
5.
Phương pháp nghiên cứu
5.1.
Phương pháp luận:
Việc nghiên cứu tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế và quản lí phổ biến
như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, thu thập thơng tin và các tài liệu có liên
quan để làm rõ cơ sở lí luận của giảm nghèo bền vững; thực trạng giảm nghèo ở
huyện Kiến Thụy thời gian vừa qua; đồng thời đưa ra một số giải pháp giảm nghèo
bền vững trên địa bàn huyện Kiến Thụy trong thời gian tới; có kế thừa có chọn lọc
kết quả các cơng trình nghiên cứu có liên quan.
I.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHÈO
1.1.1. Khái niệm nghèo
5
1.1.1.1.
Quan niệm về nghèo của các tổ chức quốc tế
Đói nghèo từ tiếng nói của chính người nghèo.
Tiếng nói của người nghèo cho ta những cảm nhận cụ thể, rõ ràng nhất về
các khía cạnh của nghèo đói (nghèo đói khơng chỉ bao hàm sự khốn cùng về vật
chất mà còn là sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế. Một người nghèo ở
Kênia đã nói về sự nghèo đói: “Hãy quan sát ngơi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ
thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên
người. Hãy quan sát tất cả và ghi lại những gì ơng thấy. Cái mà ơng thấy chính là
nghèo đói”. Một nhóm thảo luận Braxin đã định nghĩa về đói nghèo là: “Tiền
lương thấp và thiếu việc làm, và cũng có nghĩa là khơng được hưởng thụ về y tế,
khơng có thức ăn và quần áo”. Ngồi ra, khái niệm đói nghèo cịn được mở rộng để
tính đến cả nguy cơ dễ bị tổn thương, khơng có tiếng nó và quyền lực. Từ tiếng nói
của người nghèo, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm về đói nghèo. Tuỳ
thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc
gia mà ta có các quan điểm khác nhau về nghèo đói.
Quan niệm trước đây
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp. Coi
thu nhập là tiêu chí chủ yếu để đánh giá sự nghèo đói của con người. Quan niệm
này có ưu điểm là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn
nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo
thu nhập chỉ đo được một phần của cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết
được các khía cạnh của đói nghèo, nó khơng cho chúng ta biết được mức khốn khổ
và cơ cực của những người nghèo. Do đó, quan niệm này cịn rất nhiều hạn chế.
Quan điểm hiện nay
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo đã
được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách tiếp cận khác
nhau:
6
- Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu á Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đã đưa ra khái niệm về
định nghĩa đói nghèo: Nghèo đói bao gồm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng.
+ Theo khía cạnh kinh tế: Nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực
và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu là
trong lĩnh vực kinh tế.
+ Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một
vùng.
- Năm 1998 UNĐP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo
khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người
như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng dồng và được nuôi
dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là khơng có khả năng
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định
như sự khơng có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí lương thực
7
chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc
nước khác.
1.1.1.2.
Quan niệm của Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh khái niệm
nghèo đói, song ý kiến chung nhất cho rằng:
Ở Việt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm riêng biệt.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu và vật chất để duy trì cuộc sống. Đó
là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ 1 đến 3 tháng, thường vay mượn
cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ dùng trong nhà không đáng kể, nhà
ở dốt nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới 13kg gạo/người/tháng (tương
đương 45.000VND).
Qua các định nghĩa trên, ta có thể đưa ra định nghĩa chung về nghèo đói:
“Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng có những điều kiện về cuộc
sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, quyền được tham gia vào các
quyết định của cộng đồng”
Qua các cách tiếp cận trên đã giúp chúng ta nâng cao sự hiểu về các nguyên
nhân gây ra nghèo đói nhằm có những phương hướng cách thức hành động đúng
đắn để tấn công đẩy lùi nghèo đói, làm cho chất lượng cuộc sống của người dân
ngày càng tốt đẹp hơn.
Các khía cạnh của đói nghèo.
Về thu nhập:
Đa số những người nghèo có cuộc sống rất khó khăn, cực khổ. Họ có mức
thu nhập thấp. Điều này do tính chất cơng việc của họ đem lại. Người nghèo
8
thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều, công việc cực
nhọc nhưng thu nhập chẳng được là bao. Hơn thế nữa, những công việc này lại
thường rất bấp bênh, không ổn định, nhiều công việc phụ thuộc vào thời vụ và có
tính rủi ro cao do liên quan nhiều đến thời tiết (chẳng hạn như mưa, nắng, lũ lụt,
hạn hán, động đất...). Các nghề thuộc về nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là
những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập thấp nên việc chi tiêu cho cuộc sống của
những người nghèo là rất hạn chế. Hầu hết các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con
người như cái ăn, cái mặc, chỗ ở chỉ được đáp ứng với mức độ rất thấp, thậm chí
cịn không đủ. Nhiều người rơi vào cảnh thiếu ăn liên miên: chưa nói đến vấn đề
đủ dinh dưỡng, riêng việc đáp ứng lượng Kcalo cần thiết, tối thiểu cho con người
để có thể duy trì hoạt động sống bình thường họ cũng chưa đáp ứng được, hoặc
đáp ứng một cách khó khăn. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề khác như
làm giảm sức khoẻ của người nghèo, do đó giảm năng suất lao động, từ đó giảm
thu nhập... cứ như thế, nó đã tạo nên vịng luẩn quẩn mà người nghèo rất khó thốt
ra được.
Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản ở những người nghèo. Tài
sản ở đây có thể là tài sản vật chất, tài sản con người, tài sản tự nhiên, tài sản tài
chính, tài sản xã hội. Tài sản con người thể hiện ở khả năng có được sức lao động
cơ bản, kỹ năng và sức khoẻ tốt. Như đã trình bày ở trên, do thu nhập thấp nên
người nghèo không thể đáp ứng một cách đầy đủ nhu cầu về lương thực thực
phảam. Ăn uống cực kì thiếu thốn cộng với lao động nặng nề đã làm giảm sức
khoẻ của người nghèo do đó cũng khơng đảm bảo được các kỹ năng cũng như sức
lao động cơ bản. Tài sản tự nhiên như đât đai, thiếu tài sản tự nhiên có nghĩa là
thiếu, khơng có hoặc có nhưng đất đai quá cằn cỗi, không thể canh tác được. Tài
sản vật chất ở đây như nhà ở, phương tiện sản xuất - người nghèo có rất ít hoặc hầu
như khơng có các phương tiện sản xuất. Điều này đã hạn chế khả năng lao động
của họ, làm họ khó khăn hơn nhiều so với những người có đủ phương tiện sản xuất
9
nó cũng làm giảm thu nhập của họ. Cịn về nhà ở, đại đa số người nghèo sống
trong những căn nhà tạm bợ, dột nát, chật chội. Nhiều căn nhà khơng đủ đảm bảo
an tồn, khơng bảo đảm sức khoẻ cho những người sống trong đó. Do khơng có
những tài sản giá trị để bảo đảm nên người nghèo cũng có rất ít khả năng tiếp cận
với các tổ chức cho vay vốn, do thu nhập thấp nên người nghèo cũng khơng có khả
năng tiết kiệm nhiều. Đó chính là thiếu hụt tài sản tài chính. Cịn tài sản xã hội,
như các mối quan hệ và trách nhiệm đối với nhau để khi cần có thể nhờ cậy và ảnh
hưởng chính trị đối với các nguồn lực, đối với người nghèo điều này cũng rất hạn
chế, do thu nhập thấp, lúc nào cũng phải lo chạy ăn đủ bữa nên người nghèo khơng
quan tâm hoặc khơng có khả năng tham gia nhiều vào các mối quan hệ xã hội. Một
điều cản trở nữa là, hầu hết khi tham gia vào các nhóm, tổ chức nào đó cũng đều
phải đóng một khoản phí nhất định, người nghèo lo ăn cịn chưa đủ, nói gì đến việc
bỏ tiền tham gia nhóm, hội nào đó. Điều này đã làm cho người nghèo dần bị cơ lập
và do đó khó nhận được sự giúp đỡ từ các nhóm, hội khi gặp khó khăn.
Y tế - giáo dục
Những người nghèo có nguy cơ mắc phải các bệnh thông thường cao như
ốm đau, các bệnh về đường giao tiếp, tình trạng sức khoẻ khơng được tốt do ăn
uống không đảm bảo, lao động cực nhọc. Người nghèo thường sống ở những vùng
có điều kiện vệ sinh, y tế thấp, còn nhiều hạn chế, chẳng hạn, họ khơng được sử
dụng nguồn nước sạch, khơng có cơng trình phụ hợp vệ sinh, điều này cũng làm
giảm đáng kể sức khoẻ của họ. Nó đã dẫn đến tình trạng tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu máu
rất cao. Có điều này là do người nghèo có thu nhập thấp, khơng đủ trả khoản tiền
viện phí lớn cũng như các chi phí thuốc men khác, thêm vào đó có thể do đối xử
bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo khơng được quan tâm chữa trị bằng người
giàu nên tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo là rất thấp. Bên cạnh đó,
do nhận thức của người nghèo, họ thường khơng quan tâm lắm bệnh tật của mình,
10
khi bị bệnh họ thường cố tự chạy chữa bằng mọi biện pháp rẻ tiền, chỉ đến khi
bệnh trở nên trầm trọng họ mới vào viện vì vậy việc điều trị đem lại hiệu quả
khơng cao mà cịn tốn thêm nhiều khoản tiền khơng đáng có.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng thất vọng. Hầu
hết những người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ thất học,
mù chữ ở hộ nghèo, đói cao. Có tình trạng như vậy là do các gia đình này khơng
thể trang trải được các chi phí về họctập của con cái họ như tiền học phí, tiền sách
vở... đi học, họ sẽ mất đi một lao động trong gia dình. Những người nghèo cũng đã
nhận thức rõ được tầm quan trọng của học thức với nghèo đói nhưng vấn đề học
phí của con em họ quả là vấn đề q khó khăn với tình hình tài chính của gia đình.
Một phụ nữ đã nói: “Các con tôi đã sẵn sàng tới trường vào tháng 9, nhưng tơi
khơng biết làm thế nào để có thể cho cả ba đứa tới trường. ở một số nước, trẻ em
phải thơi học bởi lỡ hạn nộp học phí đến đúng vào lúc mà gia đình khơng có khả
năng thanh tốn nhất.
Tóm lại, y tế - giáo dục là vấn đề được nhiều người nghèo quan tâm, họ
cũng đã hiểu rõ tầm quan trọng của các yếu tố này tới bản thân họ cũng như tương
lai của họ và gia đình nhưng do thu nhập thấp, khơng đủ trang trải, học phí, viện
phí, họ đành phải để con cái thơi học, người bệnh không được khám và chữa chạy
đúng mức, kịp thời, hầu hết các người nghèo không được tiếp cận với các dịch vụ
y tế. Điều này đã làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ, giảm sức khoẻ cũng như
hạn chế cơ hội phát triển của các thế hệ sau.
Nguy cơ dễ bị tổn thương
Ở những người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với
sự khốn cùng về vật chất và con người. Vậy nguy cơ dễ bị tổn thương là gì? Nó
chính là nguy cơ mà người nghèo phải đối mặt với nhiều loại rủi ro như bị ngược
đãi, đánh đập, thiên tai, bị thơi việc, phải nghỉ học... Nói cách khác, những rủi ro
mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn của họ chính là ngun nhân
11
khiến họ rất dễ bị tổn thương. Những người nghèo do tài sản ít, thu nhập thấp, họ
chỉ có thể trang trải hạn chế, tối thiểu các nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống. Vì
vậy, khi rủi ro xảy ra họ rất dễ bị tổn thương và rất khó vượt qua được các cú sốc
có hại, những cú sốc mang tính tạm thời mà những người có nhiều tài sản hơn dễ
dàng vượt qua được. Do thu nhập thấp, người nghèo có rất ít khả năng tiếp cận với
các cơ hội tăng trưởng kinh tế, vì thế họ thường phải bỏ thêm các chi phí khơng
đáng có hoặc giảm thu nhập. ở các hộ nghèo, khi có rủi ro xảy ra như mất cắp hay
có người bị ốm đau thì họ dễ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, làm đảo lộn cuộc
sống của cả gia đình mà một thời gian lâu sau mới có thể phục hồi được. Cũng có
khi việc khắc phục những rủi ro trong ngắn hạn có thể làm trầm trọng thêm sự
khốn cùng của họ trong dài hạn. Chẳng hạn, ví dụ trên, do thiếu tài sản nên để chạy
chữa cho một người bị ốm, gia đình đã buộc phải quyết định cho một đứa con nghỉ
học hay họ phải bán trâu, bò, ngựa... những phương tiện lao động cần thiết của gia
đình. Cũng có thể người bệnh thì khơng khỏi được cịn gia đình từ cảnh khá giả rơi
vào cảnh khốn cùng. Như vậy, nếu có thêm một vài sự kiện nghiêm trọng nữa xảy
ra thì sự suy sụp đến cùng kiệt là điều khó tránh khỏi với người nghèo.
Nguy cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên một tâm lý chung của người nghèo là
sợ phải đối mặt với rủi ro, vì vậy họ luôn né tránh với những vấn đề mang tính rủi
ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành cơng (ví dụ
đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng phương thức sản xuất mới...) chính điều này đã
làm họ sống tách biệt với xã hội bị cô lập dần với guồng quay của thị trường và do
vậy cuộc sống của họ càng trở nên bần cùng hơn.
Khơng có tiếng nói và quyền lực
Những người nghèo thường bị đối xử khơng cơng bằng, bị gạt ra ngồi lề xã
hội do vậy họ thường khơng có tiếng nói quyết định trong các công việc chung của
cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân họ. Trong cuộc
sống những người nghèo chịu nhiều bất công do sự phân biệt đối xử, chịu sự thô
12
bạo, nhục mạ, họ bị tước đi những quyền mà những người bình thường khác
nghiễm nhiên được hưởng. Người nghèo luôn cảm thấy bị sống phụ thuộc, luôn
nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ti, khơng kiểm sốt được cuộc sống của mình.
Đó chính là kết quả mà ngun nhân khơng có tiếng nói và quyền lực đem lại. Một
người nghèo ở Trà Vinh nói họ chẳng được gọi đi họp vì nhà ở xa, khi nào phải đi
lao động thì mới được gọi tới. Kể cả khi họ tham gia được các cuộc họp của cộng
đồng thì họ cũng khơng thể quyết định được vấn đề gì dù rằng vấn đề đó liên quan
đến lợi ích của chính họ.
Khơng có tiếng nói và quyền lực cịn thể hiện ở chỗ những người phụ nữ bị
đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình của họ. Người phụ nữ khơng có quyền
quyết định việc gì và phải phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng của họ.
(Nguồn:
/>Nghèo Ở Việt Nam
Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 2002, theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là
12,9%, còn theo chuẩn của Liên Hiệp Quốc là 29% trong đó tỷ lệ hộ đói là
10,87%. Dựa theo chỉ số nghèo tổng hợp, Việt Nam xếp hạng 41 trên 95 nước năm
2004. Theo báo cáo của Oversea Development Institute, Việt Nam là nước đạt
được nhiều thành tựu trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo.
(Nguồn:Wikipedia)
1.1.2. Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá nghèo
1.1.2.1.
Chuẩn nghèo và tiêu chí của thế giới
Theo ngân hàng thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn mực để
xác định gianh giới giữa người giàu với người nghèo ở các nước đang phát triển và
các nước ở khu vực ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực, thực
13
phẩm cần thiết để duy trì cuộc sống với mức tiêu dùng nhiệt lượng từ 2100 - 2300
calo/ngày/người hoặc mức thu nhập bình qn tính ra tiền là 370USD/người/năm.
2.
* Ở Ấn Độ: Lấy tiêu chuẩn là 2250 calo/người/ngày.
3.
* BănglaĐesh lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.
4.
* Ở INĐÔNÊXIA: Vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt
lượng là2100calo/người/ngày làm mức chuẩn để xác định ranh giới giữa giàu với
nghèo.
5.
*
Ở
Trung
Quốc:
năm
1990
lấy
mức
tiêu
dùng
là
2150calo/người/ngày.
6.
* Các nước công nghiệp phát triển châu âu: 2570 calo/người/ngày.
1.1.2.2.
Chuẩn nghèo và tiêu chí của Việt Nam:
Thủ tướng chính phủ đã có dự thảo Quyết định về việc ban hành tiêu chí và
mức chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016
– 2020.
Cụ thể, dựa vào các tiêu chí sau để xác định mức chuẩn nghèo:
1 . Tiêu chí về thu nhập:
- Chuẩn mức sống tối thiểu: từ 1.3 triệu đồng/người/tháng trở xuống ở thành
thị và 1 triệu đồng/người/ tháng tại nông thôn.
- Chuẩn nghèo chính sách: từ 1 triệu đồng/người/tháng trở xuống tại thành
thị và 800.000 đồng/người/ tháng tại nông thôn.
- Chuẩn mức sống trung bình: từ 1.95 triệu đồng/người/tháng trở xuống và
1.5 triệu đồng/người/tháng ở nơng thơn.
2. Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản:
- Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và
vệ sinh, tiếp cận thông tin.
14
- Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt bao gồm: trình độ giáo dục của
người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế;
chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình qn đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố
xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông
tin.
Ngưỡng thiếu hụt đa chiều đối với một hộ gia đình là từ 1/3 tổng điểm thiếu
hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
Dựa vào 2 tiêu chí trên để xác định mức chuẩn nghèo:
- Hộ nghèo: là hộ đáp ứng 1 trong 2 tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình qn đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách trở
xuống.
+ Có thu nhập bình qn đầu người/tháng cao hơn chuẩn nghèo chính sách
đến chuẩn mức sống tối thiểu và từ 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản trở lên.
- Hộ cận nghèo: là hộ có thu nhập bình qn đầu người/tháng cao hơn
chuẩn nghèo chính sách đến chuẩn mức sống tối thiểu, và dưới 1/3 tổng số điểm
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Hộ chưa tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản: là hộ có thu nhập
bình qn đầu người/tháng cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu và từ 1/3 tổng điểm
thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Hộ có mức sống dưới trung bình: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/
tháng từ dưới chuẩn mức sống trung bình và cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu.
Xác định mức chuẩn nghèo trên để thực hiện các chính sách giảm nghèo và
an sinh xã hội, làm cơ sở hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội trong giai đoạn
2016 – 2020.
1.2
. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
15
1.2.1. Khái niệm về giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là giảm nghèo đi đôi với chống tái nghèo. Để giảm
nghèo bền vững “ Nhà nước , cơ quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo
một phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh
đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực
khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập
trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thốt nghèo nhanh và
có thể lan tỏa sang các vùng lân cận”
1.2.2. Vai trò của giảm nghèo bền vững
1.1.2.1. Giảm nghèo bền vững góp phần ổn định chính trị và phát triển xã
hội.
Giảm nghèo bền vững là tiền đề của ổn định và phát triển xã hội.
Giảm nghèo bền vững là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng kinh tế, đồng thời cũng là tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững.
1.2.2.2. Mối quan hệ giữa Giảm nghèo bền vững với phát triển kinh tế.
Giảm nghèo bền vững có mối quan hệ nhân quả với phát triển bền vững và
tăng trưởng kinh tế ở mọi quốc gia. Giảm nghèo bền vững không chỉ xuất phát từ
yêu cầu bảo đảm ổn định chính trị- xã hội mà cịn là tiền đề cho phát triển kinh tế.
Do vậy có thể nói, giảm nghèo bền vững và tăng trưởng kinh tế bền vững có mối
quan hệ biện chứng với nhau trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc.
1.2.3. Nội dung Giảm nghèo bền vững
Nội dung chủ yếu của Giảm nghèo bền vững phải thể hiện thông qua xây
dựng và thực thi các nhóm chính sách, bao gồm:
Thứ nhất, nhóm Chính sách về tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người
nghèo. Nhóm chính sách này gồm:
Một là, chính sách cho vay tín dụng với cơ chế ưu đãi.
16
Hai là, chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Ba là, chính sách khuyến nơng, khuyến lâm- ngư.
Thứ hai, nhóm chính sách hỗ trợ thông qua cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản
cho người nghèo:
Một là, chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế.
Hai là, chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục và dạy nghề.
Ba là, chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.
1.2.4. các nhân tố ảnh hương đến giảm nghèo bền vững.
1.2.4.1. Do điều kiện tự nhiên
1.2.4.2. Do bản thân người nghèo
1.2.4.3. Do cơ chế chính sách
1.
Quan điểm của Đảng về cơng tác xóa đói giảm nghèo
ĐCSVN) - Trước đây, cơng tác xóa đói giảm nghèo (XĐGN) thường
được nhìn nhận là sự hỗ trợ phần lớn hoặc cho không của Nhà nước đối với
người nghèo. Để phù hợp với tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang
thay đổi quan điểm, phương thức XĐGN theo hướng giảm dần sự hỗ trợ cho
không, phát huy tinh thần tự lực của người dân nghèo, giúp họ tự vươn lên
thoát nghèo đa chiều và bền vững.
17
Khuyến khích người dân tự nâng cao năng lực sản xuất, chủ động thoát
nghèo.
Ảnh minh họa: Trần Quỳnh
Từ thay đổi về quan điểm trong công tác XĐGN...
Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), một trong sáu nhiệm vụ hàng đầu được Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định, đó là phải “diệt giặc
đói”… Nhiệm vụ đó được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và tồn thể
nhân dân liên tục thực hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ;
sau này tiếp tục được duy trì và phát huy trong công cuộc kiến thiết, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
18
Nhưng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996),
công tác XĐGN bắt đầu được nhìn nhận và tiếp cận một cách khá tồn diện và
khoa học. Báo cáo chính trị Đại hội VIII nhấn mạnh: “Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đơi với xố đói, giảm nghèo, khơng để diễn ra chênh lệch q đáng về
mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư”[1].
Sau Đại hội VIII, chủ trương này được cụ thể hố thành các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, và tiếp tục
được duy trì, phát triển trong những kỳ Đại hội sau. Trên thực tế, từ chủ trương của
Đảng, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương đều đã thực hiện đồng
bộ và hiệu quả công tác XĐGN, thu được nhiều kết quả to lớn, làm cho bộ mặt
kinh tế - xã hội, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, biên giới khơng ngừng phát
triển; tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đều qua từng năm.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này và nhiều năm về sau, công tác XĐGN chủ
yếu được thực hiện theo phương thức Nhà nước hỗ trợ phần lớn hoặc cho khơng. Ở
cấp quốc gia, khi đó, Việt Nam là một nước nghèo, chậm phát triển nên nhận được
khá nhiều sự quan tâm, hỗ trợ, ưu đãi của cộng đồng quốc tế, vì vậy chưa có nhiều
kinh nghiệm trong công tác quản trị các nguồn lực XĐGN; công tác XĐGN ở một
số địa phương đạt hiệu quả khơng cao; nguồn vốn thiếu tập trung, cá biệt có trường
hợp chạy theo thành tích, phong trào, gây thất thốt, lãng phí… Về phía người dân
nghèo xuất hiện thói quen và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước;
nhiều người nhận được tiền hỗ trợ nhưng không biết sử dụng hiệu quả. Mối liên
kết, tương hỗ giữa các cộng đồng nghèo, cận nghèo, khá giả không cao, thiếu bền
vững, nên khi hết nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước thì nguy cơ tái nghèo lại hiện
hữu.
Nhận thấy những điểm bất cập này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng (năm 2001) đã có sự thay đổi và phát triển mới trong nhận thức đối với
cơng tác XĐGN. Trong Báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “Khuyến khích
19
làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xố đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ
tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến
tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội”[2]. Có
nghĩa là trước đây, cơng tác XĐGN được đề cập một cách khá chung chung, thì
đến Đại hội IX đã xuất hiện các từ khóa: “tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng”, “năng
lực sản xuất”, “tự phát triển”. Điều này thể hiện sự song hành trong XĐGN giữa
việc Nhà nước tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật với việc khuyến khích
người dân tự nâng cao năng lực sản xuất, chủ động thoát nghèo.
Lúc này, cơng tác XĐGN của nước ta có nhiều khởi sắc, góp phần đưa Việt
Nam từ vị trí là nước nghèo, chậm phát triển vươn lên trở thành nước có mức thu
nhập trung bình. Nhưng cũng vì thế mà khó khăn mới lại xuất hiện. Là nước có
mức thu nhập trung bình, nghĩa là Việt Nam sẽ khơng cịn được hưởng hoặc giảm
dần sự hỗ trợ từ quốc tế cho quốc gia nghèo. Điều đó cũng có nghĩa là Việt Nam sẽ
phải dần tự lực cánh sinh, dựa vào nội lực là chính trong cơng tác XĐGN, quan
trọng nhất là phải bảo đảm duy trì được kết quả của công tác XĐGN, tránh nguy cơ
tái nghèo. Để bảo đảm cho điều đó, tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của
Đảng (năm 2011) đã xác định: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo
phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm
giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó
khăn”[3]. Như vậy, đã xuất hiện thêm các từ khóa hoặc các nội hàm mới:“đa dạng
hóa các nguồn lực và phương thức”, “giảm nghèo bền vững”, “các huyện nghèo
nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”. Nội hàm này đã trở thành tiền đề; là chủ
trương, đường lối để Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành trung ương và các địa
phương xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật, các chương trình, dự án về XĐGN một cách sát thực, đồng bộ, hiệu quả.
Chưa dừng lại ở đó, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
(năm 2016), đã tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng
20