Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm chủ nhiệm lớp cấp tỉnh (Giải xuất sắc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.92 MB, 31 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ng Bí, ngày 26 tháng 03 năm 2022
BÁO CÁO
Đề nghị Hội đồng sáng kiến thành phố ng Bí xét, cơng nhận
năm học 2021 - 2022
I. SƠ LƯỢC LÍ LỊCH
- Họ và tên: NGUYỄN THỊ TÌNH
- Ngày tháng năm sinh: 03/07/1982
- Trình độ chun mơn nghiệp vụ: Đại học Sư phạm Địa lí
- Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên chủ nhiệm lớp 8B, trường THCS Lý Tự
Trọng
- Nhiệm vụ được giao: Chủ nhiệm lớp 8B ; Giảng dạy mơn Địa lí khối 6,8,9
II. NỘI DUNG
1. Tên sáng kiến:
Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục kỉ
luật tích cực đối với học sinh lớp 8B trường THCS Lý Tự Trọng – thành phố ng
Bí.
2. Thực trạng nhiệm vụ, cơng tác trước khi áp dụng sáng kiến
2.1. Thực trạng về các biện pháp kỷ luật được giáo viên áp dụng hiện nay.
Các biện pháp kỷ luật đang áp dụng trong trường học hiện nay là nhắc nhở, phê
bình, thơng báo với gia đình, cảnh cáo ghi học bạ, buộc thơi học có thời hạn…được
các trường thực hiện nghiêm túc và công khai, đảm bảo công bằng cho học sinh trong
việc khen thưởng và kỷ luật.
Tuy nhiên, các biện pháp kỷ luật này cịn khá “khơ cứng” đối với một số học
sinh có biểu hiện chậm tiến về đạo đức. Khơng ít giáo viên hiện nay vẫn quan niệm
khi học sinh mắc lỗi thì chỉ có cách giáo dục duy nhất, hiệu quả nhất là trừng phạt.
Điều này do hai nguyên nhân: giáo viên chưa hiểu được tâm lý lứa tuổi học sinh
“trong xã hội mở” hiện nay và coi nhẹ kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ.
Việc trừng phạt thân thể (đánh, véo, kéo tai, giật tóc, q, úp mặt vào tường...)
và trừng phạt về tinh thần (la mắng, nhiếc móc, hạ nhục, bỏ rơi, làm cho xấu hổ...) đó là những biện pháp đã, đang diễn ra khá phổ biến. Điều đó gây ra những hệ quả


nghiêm trọng, làm các em mất đi sự tự tin, giảm ý thức kỷ luật, căm ghét trường học,
để lại những 'vết sẹo' trong tâm hồn, khiến các em ln có thái độ thù địch.
Cách xử phạt hiện nay của giáo viên đa phần chưa thuyết phục được học sinh.
Bởi nó xuất phát từ cách suy nghĩ áp đặt, đôi khi hơi bảo thủ, khơng đặt mình vào
hồn cảnh của người phạm lỗi, đó chưa kể những biện pháp xử lý quá nặng, có tính


2

chất xúc phạm, khiến người bị phạt bị tổn thương, không tâm phục, tạo ra tâm lý
chống đối, càng phạt thì càng vi phạm.
2.2. Thực trạng việc thực hiện các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực trong
các trường THCS hiện nay.
Kỉ luật tích cực là một biện pháp giáo dục hoàn toàn khác với lối giáo dục
truyền thống theo kiểu 'trừng phạt'. Kỷ luật tích cực là động viên, khuyến khích, hỗ
trợ, ni dưỡng lịng ham học dẫn đến ý thức kỷ luật một cách tự giác, nâng cao năng
lực và lòng tin của học sinh vào giáo viên.
Hình thức giáo dục bằng kỷ luật tích cực đã được các nhà trường quan tâm chỉ
đạo thay thế bằng các hình thức kỷ luật trừng phạt, song thói quen sử dụng trừng phạt
đã in sâu trong nếp nghĩ cách làm của giáo viên, mặt khác, giáo viên luôn chịu áp lực
từ nhiều phía như yêu cầu về chất lượng dạy và học, đánh giá thi đua của nhà trường,
những khúc mắc trong quan hệ thầy - trò, đồng nghiệp hay những khó khăn trong
cuộc sống hằng ngày...tức giận, căng thẳng có thể làm giáo viên có những hành vi
nóng giận nhất thời và gây hậu quả tai hại, không phải ai cũng có khả năng kiềm chế
những phút nóng giận, căng thẳng như thế.
Cơng tác quản lí, chỉ đạo đổi mới phương pháp giáo dục bằng các hình thức giáo
dục kỷ luật tích cực đã được các nhà trường triển khai trong thời gian 3 năm học gần
đây song cũng chưa thật sự có hiệu quả. Chính vì vậy, kỷ luật trừng phạt học sinh vẫn
xảy ra đâu đó trong một số trường học và xã hội rất quan tâm mong chờ vào các hình
thức kỷ luật tích cực trong học đường để xây dựng môi trường học đường thực sự trở

thành môi trường thân thiện.
2.3. Thực trạng việc chỉ đạo đổi mới phương pháp giáo dục bằng các hình
thức giáo dục kỷ luật tích cực ở trường THCS Lý Tự Trọng, thành phố ng Bí.
Nhà trường đã quan tâm chú trọng đổi mới, trước tiên từ đội ngũ giáo viên, đã
chú trọng tập huấn nâng cao trình độ nhận thức cho đội ngũ giáo viên làm công tác
chủ nhiệm lớp.
Tổ chức hội thảo về các phương pháp quản lí lớp học bằng các biện pháp giáo
dục kỷ luật tích cực để giáo viên chủ nhiệm lớp được học hỏi và được trang bị các
phương pháp mới từ đó chủ động xây dựng kế hoạch, áp dụng các giải pháp mới
trong cơng tác tác quản lý lớp của mình.
Tuy nhiên nhiều gia đình học sinh do điều kiện kinh tế khó khăn, bố mẹ đi làm
ăn xa, để con cái tự ở một mình hoặc gửi người thân, vì thế các em thiếu sự quan tâm
giáo dục từ gia đình, dẫn đến các em có biểu hiện chậm tiến về học tập và rèn luyện
đạo đức. Học sinh nhà trường đặc tính nhút nhát e dè khi tham gia hoạt động của
trường lớp, ngại chia sẻ với giáo viên, hành động tự phát dẫn đến các em mắc khuyết
điểm.
Đội ngũ giáo viên nhà trường đa phần là nhiệt tình trách nhiệm, tích cực áp dụng
các phương pháp mới trong quản lí lớp học, nhưng cũng có một số giáo viên, nghiệp
vụ sư phạm, kỹ năng sống còn hạn chế, bế tắc, bất lực với học sinh chưa ngoan,


3

thường xử lý theo lối truyền thống chủ yếu là trừng phạt học sinh từ đó làm cho mối
quan hệ ứng xử giữa thầy và trò chưa được thân thiện, chưa thu được hiệu quả giáo
dục.
2.4. Đặc điểm tình hình lớp chủ nhiệm
a. Khảo sát thực trạng của lớp 8B
- Sĩ số: 43 học sinh trong đó nam: 24, nữ: 19
Học Lực

Năm học
2019-2020
2020-2021

Giỏi
SL
5
3

Khá

%
11,6
6,9

SL
25
18

TB

%
58,1
41,8

SL
13
22

Yếu


%
30,3
51,3

SL
0
0

Kém

%
0
0

SL
0
0

TB trở lên

%
0
0

SL
43
43

%

100
100

Bảng 1: Xếp loại học lực các năm học 2019-2020 và 2020-2021
Hạnh Kiểm
Năm học
2019-2020
2020-2021

Tốt
SL
21
18

Khá
%
48,7
41,8

SL
22
25

TB
%
51,3
58,2

SL
0

0

Yếu
%
0
0

SL
0
0

TB trở lên
%
0
0

SL
43
43

%
100
100

Bảng 2: Xếp loại hạnh kiểm năm học 2019-2020 và 2020-2021

+ Để nắm rõ hơn tình hình thực hiện nội quy của nhà trường, tôi đã làm bước
khảo sát về thực trạng việc thực hiện nội quy của trường của lớp. Đối tượng khảo sát
là 20 cán bộ giáo viên (gọi chung là nhóm giáo viên) và 43 bạn học sinh lớp 8B
(nhóm học sinh tự đánh giá)

Đánh giá của giáo viên
NỘI DUNG

Rất tốt

Tốt

Bình
thường

Chưa tốt

Khơng
tốt

HS tự giác, tích cực thực hiện nội quy trường
2 (10%) 5 (25%) 7 (35%) 8 (40%) 0 (%)
học, lớp…
HS tự giác, tích cực thực hiện kế hoạch sinh
5 (25%) 7 (35%) 3 (15%) 5 (25%) 0 (%)
hoạt ngoại khóa, văn thể mỹ, hướng nghiệp…
Giữa các HS có sự đồn kết, hợp tác, chia sẻ
3 (15%) 5 (25%) 8 (40%) 3 (15%) 1 (5%)
giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và sinh hoạt
HS đi học đúng giờ, không bỏ tiết, nghỉ học
7 (35%) 8 (40%) 5 (25%) 0 (%)
0 (%)
đều có lý do chính đáng
HS tự giác chuẩn bị bài, học bài và làm bài
2 (10%) 8 (40%) 4 (20%) 6 (30%) 0 (%)

tập đầy đủ
HS tích cực hợp tác với thầy cô trong nhà
3 (15%) 5 (25%) 7 (35%) 4 (20%) 1 (5%)
trường
HS kính trọng cha mẹ, thầy cô và những
7 (35%) 8 (40%) 5 (25%) 0 (%)
0 (%)
người lớn tuổi.
HS tích cực hợp tác với thầy cô trong nhà
5 (25%) 7 (35%) 6 (30%) 2 (10%) 0 (%)
trường.
HS biết giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà
4 (20%) 5 (25%) 7 (35%) 4 (20%) 0 (%)
trường, nơi công cộng.
Bảng 3: Kết quả khảo sát thực trạng việc thực hiện nội quy nhà trường của HS lớp 8B trường
THCS Lý Tự Trọng (đối tượng đánh giá là 20 cán bộ, giáo viên trong nhà trường)


4

Dựa vào bảng khảo sát thực trạng việc thực hiện nội quy trong nhà trường của
HS, tơi nhận thấy: Có từ 35 - 75 % GV đánh giá các tiêu chí về việc thực hiện nội
quy của HS ở mức độ Tốt và Rất tốt. Điều này cho thấy, việc thực hiện nội quy
trường lớp tại lớp 8B, trường THCS Lý Tự Trọng trong những năm qua đã có sự
chuyển biến tích cực. Vì thế, 8B là một trong số những lớp đứng tốp đầu về nề nếp
của trường. Tuy nhiên, cũng còn 5 - 45% GV đánh giá việc thực hiện nội quy ở mức
độ Chưa tốt và Không tốt. Điều đó cho thấy một bộ phận học sinh vẫn chưa thực
hiện tốt nội quy. Vì vậy, tơi nhận thấy, cần phải tiến hành đồng bộ và có hiệu quả hơn
các giải pháp đề ra trong thời gian tới.
Tự đánh giá của học sinh lớp 8B

NỘI DUNG

Rất tốt

Tốt

Bình
thường

Chưa tốt

Khơng
tốt

12
10
18
HS tự giác, tích cực thực hiện nội quy trường
3 (7%)
0 (%)
học, lớp…
(28%)
(23%)
(42%)
17
11
HS tự giác, tích cực thực hiện kế hoạch sinh
9 (21%) 5 (11%) 1 (2%)
hoạt ngoại khóa, văn thể mỹ, hướng nghiệp… (40%)
(26%)

20
Giữa các HS có sự đồn kết, hợp tác, chia sẻ
3 (7%) 5 (11%) 8 (18%)
7 (16%)
giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và sinh hoạt
(46%)
13
11
17
HS đi học đúng giờ, không bỏ tiết, nghỉ học
2 (4%)
0 (%)
đều có lý do chính đáng
(30%)
(26%)
(40%)
12
13
HS tự giác chuẩn bị bài, học bài và làm bài
5 (11%) 7 (16%)
6 (13%)
tập đầy đủ
(28%)
(30%)
15
14
HS tích cực hợp tác với thầy cơ trong nhà
8 (18%)
5 (11%) 1 (2%)
trường

(35%)
(32%)
18
22
HS kính trọng cha mẹ, thầy cơ và những
3 (7%)
0 (%)
0 (%)
người lớn tuổi.
(42%)
(51%)
12
16
14
HS tích cực hợp tác với thầy cô trong nhà
1 (2%)
0 (%)
trường.
(28%)
(38%)
(32%)
19
14
HS biết giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà
8 (18%) 2 (4%)
0 (%)
trường, nơi công cộng.
(44%)
(32%)
Bảng 4. Kết quả tự đánh giá thực trạng việc thực hiện nội quy nhà trường của HS lớp 8B

trường THCS Lý Tự Trọng (đối tượng khảo sát là chính 43 em học sinh lớp 8B)

Dựa vào bảng Kết quả tự đánh giá thực trạng việc thực hiện nội quy nhà trường
của HS lớp 8B trường THCS Lý Tự Trọng, tơi nhận thấy: các em đã có thái độ rất
cơng tâm khi tự đánh giá tình hình thực hiện nội quy của lớp mình. Ở nhiều tiêu chí,
các em đã tự nhận thấy việc thực hiện nội quy của lớp còn chưa tốt. Điều này cho
thấy khả năng tự nhận thức tự đánh giá, tự nhận thức bản thân của các em học sinh
lớp 8B ở mức cao, trung thực.
b. Đặc điểm tình hình lớp
Qua quá trình chủ nhiệm, kết quả xếp loại học lực hạnh kiểm các năm trước, kết
quả khảo sát, tơi có thể rút ra một số đánh giá về đặc điểm tình hình của lớp 8B như
sau:
* Đối với học sinh


5

- Về thuận lợi: Đa số học sinh lớp 8B là học sinh ngoan, ý thức tốt, học lực của
các em khá đồng đều. Các em chủ yếu là người cùng địa phương nên việc liên lạc có
nhiều thuận lợi, đa số lại học cùng nhau từ tiểu học nên rất hiểu nhau. Lớp có nhiều
học sinh có tố chất làm cán bộ lớp, năng động nhiệt tình có tinh thần trách nhiệm cao
trong cơng việc.
- Về khó khăn: Trong lớp có sự phát triển khơng đồng đều về mọi mặt giữa các
học sinh như: ý thức tự giác, năng lực tư duy, tinh thần trách nhiệm, thái độ trong học
tập….
* Về phía cha mẹ học sinh
- Đa số cha mẹ học sinh của lớp có nhận thức về việc giáo dục hoàn thiện phát
triển nhân cách cho con em mình nên phối hợp rất tốt với giáo viên chủ nhiệm với
nhà trường trong công tác giáo dục học sinh. Tuy nhiên có khơng ít cha mẹ học sinh
gặp hồn cảnh éo le, gặp khó khăn về vấn đề mưu sinh nên việc giáo dục con em

mình chưa được quan tâm đúng mức.
Trước thực trạng của lớp, việc xây dựng cho học sinh những thói quen về nề
nếp, đạo đức tốt là điều thực sự cần thiết. Đây cũng là điều kiện cần và đủ để trong
công tác chủ nhiệm và giảng dạy của bản thân tôi sẽ đưa ra một số biện pháp giáo dục
kỉ luật tích cực nhằm giúp các em có nề nếp, đạo đức tốt, ý thức tự giác trong học tập
qua đó nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác chủ nhiệm của mình.
3. Lý do chọn sáng kiến, giải pháp:
Trường học là nơi đào tạo nhiều thế hệ học trị, là mơi trường tạo dựng cho đất
nước những con người xã hội chủ nghĩa – có đủ tài năng trí tuệ và những phẩm chất
đạo đức cách mạng, để sau này thực sự là người của dân, vì nhân dân mà cống hiến.
Người trực tiếp đào tạo những con người như thế không ai khác là giáo viên, giáo
viên giảng dạy bộ môn, giáo viên chủ nhiệm lớp. Việc đưa lớp tiến lên là trách nhiệm
lớn của những ai làm công tác chủ nhiệm, đồng thời cũng là khẳng định mình về
năng lực và lương tâm nhà giáo.
Trong nhà trường THCS, giáo viên chủ nhiệm có vai trị đặc biệt quan trọng
trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh. Đạo đức là một lĩnh vực của ý thức xã
hội, là một mặt trong hoạt động xã hội của con người, thực hiện chức năng hết sức
quan trọng là điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đạo đức của học sinh vừa mang ý thức hệ xã hội, vừa phải phù hợp với với các
qui định chuẩn mực của xã hội, đồng thời phải phù hợp với những qui định của nhà
trường Trung học trong giai đoạn hiện nay.
Đối với học sinh Trung học cơ học ở độ tuổi mà tâm sinh lý lứa tuổi đang phát
triển mạnh, các em có nhu cầu hiểu biết, tìm tịi, bắt chước, thích giao lưu tìm hiểu,
thích đua địi ăn chơi, thích khẳng định mình. Trong khi đó các hiểu biết về kiến thức
xã hội, về gia đình, pháp luật cịn rất hạn chế do đó các em chưa có trách nhiệm với
hành vi của mình nên dễ dẫn đến vi phạm nội quy nhà trường, vi phạm pháp luật.


6


Trên thực tế cho thấy có nhiều quan niệm sai lầm trong nhận thức về nhiệm vụ
của giáo viên chủ nhiệm lớp nên giáo viên chưa làm hết vai trò của mình đối với học
sinh, làm chưa đúng với các qui chế về quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả
những phương pháp lỗi thời. Có những giáo viên q dễ dãi, bng lỏng quản lí,
thiếu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao để học sinh tự do vi phạm, làm suy giảm
đạo đức của học sinh.
Qua nhiều năm giảng dạy và tham gia công tác chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy
muốn nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh, trước tiên cần có nhiều
biện pháp để thay đổi nếp nghĩ, cách làm, lòng nhiệt tình, sự tâm huyết của đội ngũ,
đặc biệt là đội ngũ giáo viên chủ nhiệm lớp. Trong quá trình làm việc tôi rút ra được
một số kinh nghiệm nhỏ và mong muốn được đóng góp một vài ý kiến của mình với
sáng kiến “ Nâng cao hiệu quả cơng tác chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo
dục kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 8B trường THCS Lý Tự Trọng – thành
phố ng Bí.”.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này tập trung nghiên cứu các biện pháp giáo dục học sinh bằng hình thức
“kỉ luật tích cực” tại lớp 8B trường THCS Lý Tự Trọng, thành phố ng Bí.
5. Mục đích nghiên cứu.
* Hỗ trợ các giáo viên thực hiện các biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực trong
dạy học và giáo dục HS. Đồng thời đưa ra các giải pháp giúp giáo viên chủ nhiệm đổi
mới cách quản lý học sinh một cách chủ động, khoa học và khơng gị bó. Theo đó sẽ
thay đổi cách xử lý sai phạm của học sinh bằng các biện pháp giáo dục tích cực; xử lý
với thái độ động viên, khuyến khích giúp học sinh có hành vi và thái độ ứng xử đúng
đắn.
* Giúp học sinh tự do phát triển khả năng, chủ động trong hành vi và sáng tạo
trong các hoạt động tập thể, cá nhân nhưng vẫn đảm bảo được kỷ luật của nhà trường.
6. Nội dung sáng kiến:
6.1. Những vấn đề cơ bản của các phương pháp kỉ luật tích cực
a. Khái niệm kỉ luật
Theo từ điển Tiếng Việt: “Kỉ luật là tổng thể những quy định có tính chất bắt

buộc đơí với các hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để đảm bảo tính
chặt chẽ của tổ chức, là hình thức phạt đối với những người vi phạm kỉ luật”.
Theo quan điểm của Cambell- nhà tâm lí học người Anh: Kỉ luật có nghĩa là rèn
luyện cho tâm trí và nhân cách của trẻ để giúp trẻ thành những người biết tự chủ và
có ích cho xã hội, sự kỉ luật bao gồm: hướng dẫn trẻ bằng cách nêu gương, khuyên
dạy bằng lời nói, bằng sách vở, dạy dỗ và giúp trẻ học thông qua kinh nghiệm vui
chơi. Và hình phạt chỉ là một trong những biện pháp của việc kỉ luật, thậm chí cịn là
biện pháp kỉ luật tiêu cực nhất.
Như vậy, theo hai cách hiểu trên ta thấy kỉ luật là những quy định và hình phạt,
song trong giáo dục cần đưa ra những kỉ luật có tác dụng tích cực đến người học.


7

Theo từ điển Tiếng Việt: “Kỉ luật là tổng thể những quy định có tính chất bắt
buộc đối với các hoạt động của các thành viên trong một tổ chức để đảm bảo tính
chặt chẽ của tổ chức, là hình thức phạt đối với những người vi phạm kỉ luật”.
Kỉ luật tích cực: là động viên, khuyến khích, hỗ trợ trong quá trình học tập và
rèn luyện của học sinh, ni dưỡng lịng ham học, ý thức kỷ luật tự giác. Học sinh tự
nhận hình thức kỉ luật và hứa khơng tái phạm.
Kỷ luật tích cực khơng phải là ln chú ý kỷ luật học sinh, hoặc hình phạt nặng
hơn trước mà cần có những quan niệm giáo dục như:
Mắc lỗi của học sinh được coi là lẽ tự nhiên của quá trình học tập, rèn luyện và
phát triển trong nhà trường.
Việc quan trọng của ngành giáo dục là làm thế nào học sinh nhận thức được bản
thân, tự kiểm soát hành vi, thái độ trên cơ sở các quy định, nội quy…
Như vậy, người giáo viên là người phân tích đúng sai, đối chiếu các quy định
của những hành vi không đúng để học sinh nhận ra lỗi của mình để điều chỉnh sữa
đổi, tiến bộ khơng mắc lỗi lần sau.
b. Khái niệm giáo dục kỉ luật tích cực

Giáo dục kỷ luật tích cực là cách tiếp cận mang tính giáo dục, giúp xây dựng sự
tự tin, lịng tự trọng và tính trách nhiệm cao ở trẻ.
Giáo dục kỷ luật tích cực là giáo dục học sinh tự kiểm soát và tự tin để biết cách
thực hiện hành vi mong đợi; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của trẻ;
có sự thỏa thuận giữa người lớn – trẻ em và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
Giáo dục kỷ luật tích cực là việc dạy và rèn luyện cho các em tính tự giác tuân
theo các quy định và quy tắc đạo đức ở thời điểm trước mắt cũng như về lâu dài.
Giáo dục kỉ luật tích cực là:
Những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát huy tính kỉ luật tự giác của học
sinh.
Sự thể hiện rõ ràng những mong đợi, quy tắc và giới hạn mà học sinh phải tuân
thủ.
Gây dựng mối quan hệ tôn trọng giữa giáo viên và học sinh.
Dạy cho học sinh những kĩ năng sống mà các em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời.
Làm tăng sự tự tin và khả năng xử lý các tình huống khó khăn trong học tập và
cuộc sống của các em.
Dạy cho học sinh cách cư xử lịch sự, nhã nhặn, khơng bạo lực, có sự tơn trọng
bản thân, biết cảm thông và tôn trọng quyền của người khác.
c. Cơ sở của giáo dục kỉ luật tích cực
Giáo dục kỷ luật tích cực dựa trên cơ sở:
Những hiểu biết về sự phát triển tâm lí của học sinh trong từng giai đoạn lứa
tuổi;
Các lĩnh vực phát triển của học sinh: thể chất, nhận thức, cảm xúc, xã hội;


8

Những nhu cầu cơ bản của học sinh: an toàn, u thương, hiểu – thơng cảm, tơn
trọng, có giá trị; Tại sao học sinh “hư” và những cảm xúc của người lớn.
6.2. Phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực

a. Các đặc điểm của phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực
Khơng bạo lực và tơn trọng trẻ; thực hiện các tác động giáo dục phù hợp với nhu
cầu, trạng thái của trẻ, giúp trẻ khắc phục nhận thức, hành vi chưa đúng của bản thân.
Tạo cho trẻ có cảm giác an tồn, thân thiện và được tơn trọng bằng việc lắng
nghe tích cực và khích lệ trẻ, giúp họ có khả năng vượt qua các rào cản về tâm lí,
giảm bớt sự căng thẳng trong học tập và cuộc sống cá nhân
Gia tăng năng lực hoạt động và cơ hội thành công cho trẻ bằng việc giáo dục kĩ
năng sống cơ bản (theo lứa tuổi) cho các em.
b. Phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực là gì?
Phương pháp kỷ luật tích cực là biện pháp giáo dục học sinh khơng sử dụng đến
các hình thức bạo lực, trừng phạt mà thay vào đó là sử dụng những hình thức kỉ luật
tích cực, phù hợp để giúp học sinh giảm thiểu những hành vi không phù hợp, củng cố
các hành vi tích cực và phát triển nhân cách một cách tốt đẹp, bền vững.
c. Nguyên tắc thực hiện phương pháp giáo dục kỉ luật tích cực
Ngun tắc 1: Vì lợi ích thực tế nhất của học sinh
Nguyên tắc 2: Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần
Nguyên tắc 3: Khích lệ và tơn trọng lẫn nhau
Ngun tắc 4: Phù hợp với đặc điểm và sự phát triển của lứa tuổi học sinh
6.3. Đặc điểm tâm, sinh lí học sinh THCS
a. Vị trí và giai đoạn phát triển tâm lí lứa tuổi học sinh THCS
- Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em được vào
học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm
quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ
sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ
quá độ“, “tuổi khó bảo“, “tuổi khủng hoảng “, “tuổi bất trị “...
- Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách
dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn(người trưởng thành) tạo
nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển : thể chất, trí tuệ, tình
cảm, đạo đức… của thời kỳ này
- Ở lứa tuổi thiếu niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người

lớn” ,điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện
sống, hoạt động…của các em.
- Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển
các khía cạnh khác nhau của tính người lớn - điều này do hoàn cảnh sống, hoạt động
khác nhau của các em tạo nên. Hồn cảnh đó có cả hai mặt:Những yếu điểm của hoàn
cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn: trẻ chỉ bận vào việc học tập, khơng có
những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thế khơng để cho trẻ hoạt động, làm


9

những cơng việc khác nhau của gia đình, của xã hội. Những yếu tố của hoàn cảnh
thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: sự gia tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc
cha mẹ quá bận, gia đình gặp khó khăn trong đời sống, địi hỏi trẻ phải lao động
nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn.
b. Đăc điểm của hoạt động học tập trong trường trung học cơ sở:
Trẻ càng lớn lên, hoạt động học tập càng có vị trí quan trọng trong cuộc sống
của trẻ và vai trị của nó trong sự phát triển của trẻ ngày càng to lớn.Học tập là hoạt
động chủ đạo của học sinh, nhưng vào tuổi thiếu niên, việc học tập của các em có
những thay đổi cơ bản.Việc học tập ở trường trung học cơ sở là một bước ngoặc quan
trọng trong đời sống của trẻ. Ở các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống các sự kiện và
hiện tượng, hiểu những mối quan hệ cụ thể và đơn giản giữa các sự kiện và hiện
tượng đó. Ở trường trung học cơ sở, việc học tập của các em phức tạp hơn một cách
đáng kể. Các em chuyển sang nghiên cứu có hệ thống những có sở của các khoa học,
các em học tập có phân mơn… Mỗi mơn học gồm những khái niệm, những quy luật
được sắp xếp thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó địi hỏi các em phải tự
giác và độc lập cao.
Quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em được học với nhiều
giáo viên. Các giáo viên có cách dạy và yêu cầu khác nhau đối với học sinh, có trình
độ nghề nghiệp và phẩm chất, uy tín khác nhau. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh

“xa cách” hơn so với bậc tiểu học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn nhất định
cho các em nhưng nó cũng tạo điều kiện cho các em phát triển dần phương thức nhận
thức người khác.
Thái độ tự giác đối với học tập ở tuổi thiếu niên cũng tăng lên rõ rệt. Ở học sinh
tiểu học, thái độ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của các em đối với giáo viên
và điểm số nhận được. Nhưng ở tuổi thiếu niên, thái độ đối với môn học do nội dung
mơn học và sự địi hỏi phải mở rộng tầm hiểu biết chi phối. Thái độ đối với mơn học
đã được phân hóa (mơn “hay”, mơn “khơng hay” … )Ở đa số thiếu niên, nội dung
khái niệm “học tập” đã được mở rộng ; ở nhiều em đã có yếu tố tự học, có hứng thú
bền vững đối với mơn học, say mê học tập. Tuy nhiên, tính tị mị, ham hiểu biết
nhiều có thể khiến hứng thú của thiếu niên bị phân tán và không bền vững và có thể
hình thành thái độ dễ dãi, khơng nghiêm túc đối với các lĩnh vực khác trong cuộc
sống.
Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ở mỗi em để
kịp thời động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó khăn trong học tập và
hình thành nhân cách một cách tốt nhất. Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát
triển tâm lý thiếu niên, giúp chúng ta có cách đối xử đúng đắn và giáo dục để các em
có một nhân cách tồn diện. Đây cũng chính là tiền đề, điều kiện để tôi đưa ra những
biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực nhằm nâng cao hiểu quả cơng tác chủ nhiệm lớp.


10

6.4. Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục
kỉ luật tích cực đối với học sinh lớp 8B trường THCS Lý Tự Trọng – thành phố
ng Bí.
a. Biện pháp thứ nhất: Xác định đặc điểm từng đối tượng học sinh để có
phương pháp quản lí phù hợp.
Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “muốn giáo dục con người về mọi
mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”

Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu
khơng hiểu học sinh thì khơng thể tìm được những phương pháp giáo dục phù hợp
với đối tượng và do đó có thể thất bại. Kể cả việc lựa chọn nội dung và các hình thức
giáo dục cũng cần căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là
nguyên tắc quan trọng của giáo dục học. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là
điều kiện vừa là một nội dung quan trọng trong cơng tác chủ nhiệm lớp.Giáo viên chủ
nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý, tính cách, năng
lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích, nguyện vọng, năng khiếu, phẩm
chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống, mối quan hệ với tập thể, bạn bè ....
Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, của tập thể lớp để phát huy và
khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu tố mới, những mầm mống, những
nhân tố tích cực để làm nịng cốt cho phong trào chung của lớp.
Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên chủ nhiệm có thể vận
dụng những cách:
Thứ nhất: Cho học sinh viết lí lịch trích ngang bản thân. Nhưng hầu hết giáo
viên chỉ khai thác thông tin học sinh để lấy các thông tin như ngày tháng năm sinh,
nơi sinh quê quán, họ tên bố mẹ mục đích chính để phục vụ cơng tác hồ sơ lí lịch.
Bản thân tơi cũng thường cho học sinh viết lí lịch để lấy thơng tin nhưng trong đó bao
giờ tơi cũng u cầu các em viết thêm sở thích, mong muốn cũng như những ước mơ
và nguyện vọng của các em. Khi cho các em viết lí lịch, tơi ln cho các em mang về
nhà viết và để em viết tự do không theo một khuôn mẫu nào cả miễn sao các em cung
cấp đầy đủ thông tin và quan trong nhất tôi luôn động viên các em chia sẻ những điều
mà các em suy nghĩ. Qua đó, tơi có thêm thơng tin và cũng như hiểu thêm về các em.
Từ đó, tơi đã có những biện pháp thích hợp và những ứng xử phù hợp trong cách giáo
dục, quản lí các em.
Thứ hai: Tìm hiểu học sinh thông qua quan sát trực tiếp. Quan sát trực tiếp học
sinh hằng ngày trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi thái độ học
sinh. Đây là tài liệu sống, qua đó tơi cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng
em. Tơi quan sát lớp chủ nhiệm cả trong giờ ra chơi xem em nào nghịch thái quá, em
nào từ tốn, hiền lành, có khi trên đường vào dạy lớp khác tơi cũng ngang qua lớp chủ

nhiệm. Nếu thấy những sai phạm của học sinh thì phải nhắc nhở ngay.
Thứ ba: Tơi còn đề nghị các em viết thư tâm sự, trong thư tơi u cầu các em kể
về gia đình, về bản thân, về bạn bè trong lớp (có em khơng muốn kể về gia đình mình


11

nhất là những em có hồn cảnh đặc biệt thì việc lấy thông tin từ bạn bè rất cần thiết
cho GVCN ), nhận xét về ưu nhược điểm của lớp và giải pháp của em... Nhờ những
lá thư này mà tơi biết được những hồn cảnh đặc biệt của các em học sinh... Đồng
thời qua những lá thư đó, tơi biết được điểm mạnh yếu của lớp, của cá nhân, những
mong muốn nguyện vọng của các em, có thêm thơng tin và cũng như hiểu thêm về
các em. Từ đó, tơi đã có những biện pháp thích hợp và những ứng xử phù hợp trong
cách giáo dục, quản lí các em.
Thứ tư: Xây dựng hộp thư điều em muốn nói. Hộp thư “Điều em muốn nói”
nhằm tạo ra cơ hội để học sinh được bày tỏ ý kiến của mình. Những ý kiến của học
sinh có thể là những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị của các em về thầy cô,
cha mẹ, nhân viên phục vụ, điều kiện học tập – sinh hoạt và các hoạt động vui chơi…
mà các em khơng thể hoặc chưa dám nói trực tiếp.
Hàng tuần, giáo viên chủ nhiệm sẽ mở hộp thư và quyết định chia sẻ cá nhân
hoặc chia sẻ trực tiếp về những bức thư trên. Giáo viên chủ nhiệm cần kết hợp với
Ban giám hiệu, Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên trong việc giải quyết và trả lời những
ý kiến của học sinh. Nếu có điều kiện, hộp thư nên được quan tâm, giải quyết hàng
ngày.
Qua hộp thư, giáo viên sẽ có điều kiện hiểu các em nhiều hơn, đồng thời điều
chỉnh các hoạt động dạy học, sinh hoạt sao cho phù hợp. Bên cạnh đó, cịn có mục
đích giúp các em nhận biết mình là một thành viên nhà trường, có quyền được học
tập – vui chơi – tham gia ý kiến. Từ đó, học sinh có ý thức tự giác và chủ động khi
tham gia các hoạt động của chính các em.
Thứ năm: Tơi cịn thường xun trao đổi với giáo viên chủ nhiệm lớp năm học

trước để nắm tình hình của lớp nói chung và tình hình cụ thể của từng học sinh nói
riêng. Đặc biệt cần chú ý đến những em ngoan, học giỏi, có năng khiếu và những em
chưa ngoan, học còn yếu kém, hay nghịch ngợm thường được gọi là học sinh cá
biệt…
b. Biện pháp thứ hai: Tìm hiểu hồn cảnh học sinh, thiết lập mối liên kết và
tình cảm giữa giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp.
Mỗi học sinh được sinh ra và lớn lên trong một hồn cảnh gia đình khác nhau.
Tuổi tác, trình độ văn hố, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của bố mẹ. Phương pháp
giáo dục con cái của bố mẹ, sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong
gia đình. Hồn cảnh kinh tế, tình cảm gia đình, quan hệ bạn bè tốt hay xấu... Tất cả
đều ảnh hưởng đến nhân cách của học sinh. Bởi vậy việc tìm hiểu nắm vững gia
phong, hồn cảnh sống nói chung của từng học sinh là hết sức quan trọng. Nó giúp
giáo viên biết được nguyên nhân, những yếu tố tích cực hay tiêu cực, những thuận lợi
hay khó khăn đang tác động đến học sinh để lựa chọn phương pháp tác động phù hợp.
Giáo viên có thể tìm hiểu hồn cảnh của các em thơng qua bạn bè, các cuộc trò
chuyện với học sinh để tìm hiểu ngun nhân tại sao học sinh hay nói chuyện, phát
biểu linh tinh, đi trễ, hoặc là gây sự với bạn bè… Giáo viên chủ nhiệm phải là người


12

cha, người mẹ thứ hai biết yêu thương, quan tâm và thấu hiểu mọi tâm tư nguyện
vọng của học sinh, là chỗ dựa tin tưởng nhất để các em giãi bày mọi khúc mắc. Giáo
viên chủ nhiệm phải nắm bắt sự việc xảy ra trong lớp để có hướng xử lí kịp thời, triệt
để. Đặc biệt, đối với những học sinh cá biệt hay những em thiếu thốn tình cảm gia
đình thì sự thương u, thơng cảm từ thầy cơ chủ nhiệm có sức cảm hóa rất lớn.
Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh là một
trong những nền tảng quan trọng của phương pháp quản lí lớp học bằng các biện
pháp kỉ luật tích cực. Quan hệ bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau giữa người và người ở
đất nước ta hiện nay là điều kiện thuận lợi để hình thành quan hệ tốt đẹp giữa người

lớn và tuổi mới lớn. Đặc biệt, chúng ta đang thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” . Tuy vậy khó tránh khỏi những xung đột nhỏ giữa thanh thiếu niên
và người lớn hay giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh. Điều đó một phần do học
sinh và giáo viên chủ nhiệm sống và phát triển ở hai giai đoạn khác nhau. Bên cạnh
đó, nó phụ thuộc nhiều vào thái độ của hai phía đối với nhau, quan điểm của hai phía
về nhau. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và học sinh có thể tốt đẹp nếu giáo viên
chủ nhiệm thực sự tin tưởng vào học sinh, tạo điều kiện để các em thoả mãn tính tích
cực, độc lập trong hoạt động, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của học
sinh. Giáo viên chủ nhiệm không được quyết định thay, làm thay cho học sinh như
vậy các em sẽ mất hứng thú và cảm thấy phiền toái. Mặt khác, thái độ “đỡ đầu” quá
cặn kẽ của giáo viên chủ nhiệm sẽ củng cố ở học sinh tính trẻ con, thờ ơ và vô trách
nhiệm. Nếu quen với cảm giác đỡ đầu đó các em sẽ rụt rè, khơng dám quyết định khi
cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm cần tổ chức lớp tích cực, tự quản, tự giác nhưng khơng
phải thờ ơ, để mặc lớp làm gì thì làm, phải lôi kéo tất cả học sinh vào hoạt động
chung, kích thích được tinh thần trách nhiệm, sự tự giáo dục và giáo dục lẫn nhau của
các em.
Về điều này, tơi đã tiến hành khảo sát và tìm ra những điều học sinh cần cũng
như những điều học sinh chưa đồng ý về giáo viên chủ nhiệm, từ đó rút ra kinh
nghiệm để xây dựng được mối quan hệ tốt và nhận được sự ủng hộ của học sinh trong
quá trình quản lí lớp.
c. Biện pháp thứ ba: Quản lí lớp học bằng biện pháp giáo dục ý thức tôn
trọng nội quy, kỉ luật của học sinh.
Sự cần thiết của kỉ luật trong nhà trường và thực trạng “nhờn” kỉ luật, coi
thường nội quy của học sinh. Để điều chỉnh hành vi người cơng dân, Nhà nước phải
có pháp luật, để buộc mọi người tôn trọng pháp luật cần phải có những thiết chế,
cơng cụ như: tồ án, nhà tù… Tương tự như thế, nhà trường cũng cần có nội quy,
điều lệ để điều chỉnh hành vi của học sinh, cần có những biện pháp kỉ luật để buộc
học sinh phải tôn trọng nội quy. Nội quy không chặt chẽ, kỉ luật khơng nghiêm thì
học sinh sẽ “nhờn”. Học sinh “nhờn” kỉ luật thì kỉ cương nề nếp nhà trường sẽ sụp
đổ. Thực tế hiện nay có một số học sinh hư hỏng. Do nhiều nguyên nhân như ảo

tưởng về khả năng giáo dục của nhà trường với đối tượng này; sự vô trách nhiệm của


13

cha mẹ học sinh; các quy định về mức độ kỉ luật quá mềm, sự e ngại đến thành tích
nhà trường... nên số học sinh này vẫn ngang nhiên tồn tại. Điều nguy hiểm là những
tấm gương xấu này lại có khả năng lây lan, lơi kéo một bộ phận học sinh “lưng
chừng”. Đây là những học sinh chưa chăm ngoan nhưng cũng chưa hư hỏng. Nếu
thấy kỉ luật của nhà trường nghiêm thì số học sinh này sẽ khép mình trong khn
khổ. Nhưng khi thấy những học sinh quậy phá mà chẳng bị nghiêm trị thì các học
sinh này sẽ đua đòi, bắt chước để trở thành những học sinh hư. Do vậy, kỉ luật
nghiêm khắc thì chỉ loại ra một số học sinh hư hỏng, kỉ luật không nghiêm thì sẽ làm
hư ln những học sinh chưa hư .
Làm thế nào để học sinh “tự giác” chấp hành nội quy, kỉ luật? Thuyết phục, cảm
hoá, tác động bằng tình cảm… để học sinh tự giác chấp hành nội quy? Nghe thì rất
hay nhưng lại khơng thực tế. Với những học sinh chăm ngoan, có ý thức học tập thì
chẳng cần ai thuyết phục, cảm hố cả, các em rất tự giác chấp hành nội quy. Nhưng
đa số với tất cả học sinh, việc chấp hành nội quy là do sợ bị kỉ luật. Muốn học sinh
chấp hành nội quy trước tiên các em phải hiểu nội quy, phải biết điều gì được làm
điều gì khơng được làm, vi phạm mức độ nào là bị phê bình kiểm điểm trước lớp, bị
hạ hạnh kiểm, vi phạm mức độ nào là bị đưa ra hội đồng kỉ luật… Tất cả đều có trong
điều lệ, quy định của nhà trường nhưng học sinh lại khơng nhớ. Phải có những quy
định rõ ràng, cụ thể và bắt học sinh học thuộc như người tham gia giao thông phải
học thuộc luật giao thông. Để học sinh chấp hành tơt nội quy thì trách nhiệm không
chỉ ở giáo viên chủ nhiệm và để học sinh có ý thức tơn trọng và tự giác chấp hành nội
quy của lớp, của trường... tôi đã thực hiện bằng các cách sau:
Thứ nhất: Đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phổ biến cho học sinh nắm được
qui chế về xếp loại hạnh kiểm và học lực đối với học sinh
Thứ hai: Giáo viên chủ nhiệm cho học sinh học nội qui của nhà trường đối với

học sinh đồng thời phổ biến quy định của nhà trường về việc xếp loại hạnh kiểm hàng
tuần, hàng tháng cho học sinh.
Thứ ba: Giáo viên chủ nhiệm cho học sinh tự bàn bạc, thống nhất xây dựng nội
quy lớp học, quy chế khen thưởng và hình thức phê bình. Bản nội quy được treo trên
tường của lớp học để luôn nhắc nhở học sinh thực hiện tốt nội quy. Với biện pháp
này học sinh được tự thảo luận rồi đề ra qui ước lớp là một phương cách khuyến
khích ý thức tự giác của học sinh, trong mỗi hành động học sinh tự hiểu mình sẽ bị
phạt hay được khen. Việc giáo viên chủ nhiệm tự đặt ra các quy định này nọ rất khơ
khan lại mang tính áp đặt, nên có khi phạt học sinh nhưng các em không “tâm phục,
khẩu phục”. Đặc biệt giáo viên chủ nhiệm phải rất chú ý đến sự tiến bộ của những
học sinh hay vi phạm để kịp thời tuyên dương, khen ngợi sự cố gắng của học sinh
trước lớp, có như vậy mới giúp học sinh càng thêm tự tin, tạo động lực cho học sinh
nhanh chóng tiến bộ.
* Xây dựng nội quy lớp học


14

Trong cuộc họp lớp đầu năm, tôi cho học sinh xây dựng nội quy lớp dựa trên nội
quy học sinh của nhà trường và tình hình riêng của lớp. Các tiêu chí sẽ được lượng
hóa thành điểm. Mỗi học sinh được tặng điểm ban đầu là 100 điểm. Nếu học sinh
thực hiện tốt sẽ được cộng điểm, nếu thực hiện chưa tốt sẽ bị trừ điểm. Mỗi tổ sẽ có
quyển sổ theo dõi riêng để tại lớp, hàng ngày mỗi người sẽ tự giác ghi vào sổ những
ưu điểm, nhược điểm, những vi phạm của mình, điểm trừ, điểm cộng (nếu có). Sau
mỗi tuần, các tổ trưởng sẽ tổng hợp điểm của các thành viên của mình. Bầu chọn ra
các thành viên xuất sắc để biểu dương khen thưởng.
Dựa trên tổng điểm mà mỗi học sinh đạt được, sẽ đưa ra hình thức khen thưởng
và phê bình. Điểm thưởng và điểm trừ do các em tự theo dõi và các bạn giám sát nên
các em rất tự giác và công bằng khách quan. Tôi vận động phụ huynh xây dựng tự
nguyện “quỹ khuyến học và thi đua khen thưởng” của lớp. Hàng tuần, hàng tháng ban

đại diện cha mẹ học sinh cử người đến dự sinh hoạt cùng lớp, trao quà cho những bạn
đạt trên 100 điểm.
Những em có tiến bộ được biểu dương tại lớp và được nhận “tràng pháo tay” từ
cả tập thể lớp. Những học sinh nào còn vi phạm nội quy, bị trừ điểm tự nhận hình
thức đi tưới hoa, nhổ cỏ khu vực bồn hoa mà lớp được phân cơng chăm sóc hoặc các
hình thức khác như làm vệ sinh, trực nhật... khu vực lớp được phân công.
Mỗi tổ đề cử ra 1 học sinh tiêu biểu để được khen thưởng.
Các tổ cũng thi đua với nhau, dựa vào tổng điểm của các tổ và những việc tốt
làm được, số học sinh đạt điểm cao sẽ bầu chọn tổ tiêu biểu để được khen thưởng.
Những học sinh chưa thực hiện tốt thì tự giác làm bản tự kiểm điểm nói rõ lý do
vì sao chưa tốt và cách khắc phục. Đồng thời tự giác đi nhổ cỏ, tưới hoa, làm vệ sinh,
trực nhật... khu vực lớp được phân cơng.
Thứ tư: Là vai trị chỉ đạo hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. Do giáo viên
chủ nhiệm khơng phải lúc nào cũng có mặt ở trường và nếu đến trường thì cịn phải
thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các lớp khác nên việc quản lí lớp phải giao cho ban
cán sự lớp. Giáo viên chủ nhiệm tổ chức, giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách quản lí
lớp cho ban cán sự lớp. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên kiểm tra, uốn nắn để
cho bộ máy lớp chạy đều. Trong giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm nên để cho
ban cán sự lớp điều hành và chỉ tham gia ý kiến chỉ đạo khi có những sự việc ban cán
sự lớp khơng giải quyết được.
Thứ năm: Là phát huy vai trị tích cực, chủ động của ban cán sự lớp. Phải làm
cho ban cán sự lớp thấy rằng mình khơng phải kẻ thừa hành, chỉ làm những công việc
mà giáo viên chủ nhiệm sai bảo. Ban cán sự lớp phải có những quyền hành nhất định,
phải có “tiếng nói” trong việc khen thưởng, xử kỉ luật và xếp loại hạnh kiểm học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm nên động viên ban cán sự lớp đề xuất những biện pháp đưa lớp
tiến bộ. Qua sự theo dõi của mình, ban cán sự lớp có quyền u cầu các học sinh vi
phạm nội quy hoặc lơ là học tập phải tự phê bình, kiểm điểm trước lớp,… Tóm lại vai
trị của ban cán sự lớp là hết sức quan trọng. Nó địi hỏi cao tính gương mẫu, tinh



15

thần trách nhiệm, tính trung thực khơng vị nể… Do đó việc chọn được ban cán sự lớp
tốt là yếu tố đầu tiên quyết định để quản lí lớp thành công. Kinh nghiệm cho thấy,
không phải việc để cho tập thể lớp bầu ban cán sự lớp bao giờ cũng tốt. Tuy phát huy
dân chủ là cần thiết nhưng thực tế học sinh ưa bầu những bạn vui vẻ, dễ dãi và sẵn
lòng bao che cho những khuyết điểm của mình trước giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy,
giáo viên chủ nhiệm nên hướng cho lớp bầu những học sinh có phẩm chất mà mình
đã lựa chọn. Nếu cần, giáo viên chủ nhiệm trực tiếp chỉ định các học sinh làm cán sự
lớp thì vẫn tốt hơn so với bầu cử dân chủ không chọn được học sinh xứng đáng.
Thứ sáu: Là tăng cường sự giám sát nội quy lớp học của của học sinh.
Làm nhật ký lớp bằng cách làm một quyển sổ để tại lớp, ghi những việc làm tốt,
những nhận xét của các thầy cô giáo và phát biểu cảm nghĩ của các em học sinh.
Việc thực hiện nội quy lớp học được giám sát, nhắc nhở bởi chính các thành
viên trong lớp, trong tổ.
Các tổ trưởng theo dõi, nhắc nhở và giám sát nề nếp tổ mình bằng sổ theo dõi
riêng, đồng thời giám sát nề nếp của tổ khác.
Giám sát việc thực hiện nội qui của học sinh thông qua đội cờ đỏ.
Giáo viên chủ nhiệm gần gũi học sinh, nhắc nhở các em thực hiện tốt nội qui
của trường của lớp.
Mỗi học sinh vừa là người “bị giám sát” vừa là người được tham gia giám sát
các bạn khác nên các em rất tích cực và tự giác.
Thứ bảy: Là phát huy yếu tố “cộng đồng trách nhiệm”. Phát huy tính cộng đồng
trách nhiệm tức là làm cho học sinh tốt hiểu rằng chỉ mình tốt là chưa đủ mà phải
giúp cho bạn mình cùng tốt và làm cho những học sinh chưa tốt hiểu rằng việc mình
vi phạm nội quy, lười học… khơng chỉ mình chịu hậu quả mà cịn làm cho các bạn
khác bị “vạ lây”. Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải hướng dẫn, góp ý cho học
sinh xây dựng nội dung và biểu điểm thi đua giữa các tổ để khen thưởng các tổ thi
đua tốt và lấy kết quả thi đua tổ để định mức tỉ lệ phần trăm các xếp loại hạnh kiểm
của những thành viên trong tổ, từng tuần, từng tháng. Ví dụ tổ xếp hạng nhất thì định

mức là 100% học sinh được xếp loại hạnh kiểm tốt, hạng nhì định mức là 80%, hạng
ba định mức là 60%, hạng chót định mức là 50%...
d. Biện pháp thứ tư: Quản lí lớp học để nâng cao chất lượng học tập của học
sinh.
* Chất lượng, hiệu quả của một giờ học nhìn từ phía học sinh.
Một tiết học có chất lượng và hiệu quả thì bên cạnh vai trị của giáo viên cịn có
vai trị của học sinh bởi chính học sinh sẽ tạo tâm thế và cảm hứng cho tiết dạy của
giáo viên. Một lớp học mà học sinh không thuộc bài cũ, không chuẩn bị bài mới,
không tập trung nghe giảng, không đưa tay phát biểu…thì giáo viên có kinh nghiệm,
nhiệt tình bao nhiêu cũng đành bất lực. Với những lớp mà học sinh thông minh, chăm
học thì tự nó đã có “khơng khí” để tạo tâm thế và cảm hứng cho giáo viên. Nhưng với


16

các lớp học sinh vừa yếu vừa lười học thì các biện pháp quản lí của Giáo viên chủ
nhiệm để tạo “khơng khí” lớp học là rất cần thiết.
* Các biện pháp quản lí.
Một là phát huy vai trị của cán bộ lớp và cán sự bộ mơn: Có những tiết học do
giáo viên bộ môn bao quát lớp tốt nên học sinh học tập nghiêm túc nhưng cũng có
những tiết học giáo viên bộ môn “thoải mái”, học sinh thừa cơ hội nói chuyện riêng
gây mất trật tự. Ở những tiết này, vai trị và khả năng quản lí lớp của ban cán bộ lớp
sẽ được phát huy. Bằng các biện pháp như nhắc nhở, ghi tên các học sinh làm mất trật
tự để phê bình, kiểm điểm trước lớp, ban cán bộ lớp có thể giúp lớp học ổn định. Ban
cán bộ lớp theo dõi, ghi nhận việc soạn bài, học bài cũ và phát biểu xây dựng bài của
học sinh để làm căn cứ xếp loại thi đua giữa các tổ và để biểu dương những học sinh
học tốt, phê bình kiểm điểm những học sinh khơng soạn bài, làm bài tập ở nhà ,
không thuộc bài cũ…Ban cán bộ lớp tổ chức, phân công cho các cán sự bộ môn giúp
các bạn giải những bài tập khó và quản lí lớp để việc tự học ở 15 phút đầu giờ có hiệu
quả.

Hai là các hình thức khen thưởng và khiển trách học sinh trong học tập:
Những học sinh không soạn bài, làm bài tập, không thuộc bài cũ…đều phải làm
phê bình, kiểm điểm trước lớp. Cần phải đưa việc học tập vào xếp loại hạnh kiểm học
sinh. Số lần làm phê bình, kiểm điểm về học tập cũng như về thực hiện nội qui càng
nhiều thì xếp loại hạnh kiểm càng thấp. Tuy nhiên cũng nên tạo cơ hội cho học sinh
phấn đấu trong học tập. Chẳng hạn một học sinh kiểm tra bài cũ môn này bị điểm 2
nhưng nếu đạt được điểm 8 kiểm tra miệng mơn khác thì sẽ được xóa một lần kiểm
điểm trong tuần đó. Việc khen thưởng học sinh cũng cần có hình thức riêng. Thơng
thường chỉ có những học sinh Giỏi, Khá được khen thưởng. Một học sinh học lực yếu
mà phấn đấu lên Trung bình thì khơng được khen mặc dù với học sinh đó việc đạt
được loại Trung bình là một cố gắng lớn. Bởi vậy, Giáo viên chủ nhiệm nên phối hợp
với ban đại diện cha mẹ học sinh có hình thức khen thưởng cho các học sinh có tiến
bộ trong học tập như từ Trung bình lên Khá, Yếu lên Trung bình…Để việc học tập
của mỗi học sinh trở thành phong trào, Giáo viên chủ nhiệm cần cụ thể hóa các khâu
học bài cũ, chuẩn bị bài mới, phát biểu xây dựng bài thành các chỉ tiêu cụ thể trong
thi đua giữa các tổ. Những tờ tự phê bình hoặc kiểm điểm của các học sinh khơng
thuộc bài phải được Phụ huynh xem và kí tên xác nhận. Như vậy, Phụ huynh có thể
nắm được tình hình học tập của con em mình để phối hợp với Giáo viên chủ nhiệm
có biện pháp giáo dục thích hợp.
e. Biện pháp thứ năm: Thay đổi cách cư xử trong lớp học là dựa trên cơ sở
động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy học sinh có thái độ
và hành vi đúng.
Giáo viên cần nắm bắt được tình hình, đặc điểm lớp học từ đó có biện pháp giáo
dục phù hợp. Giáo viên khơng nên cầu tồn, đặt q nhiều kì vọng vào học sinh,
khơng nên yêu cầu quá cao ở học trò. Giáo viên cần ghi nhận những cố gắng và kết


17

quả mà các em đạt được về mọi mặt học tập, nề nếp hay tham gia các hoạt động văn

thể mĩ của trường. Đồng thời khuyến khích các em phát huy thế mạnh của mình, kích
thích sự tích cực của mỗi cá nhân trong lớp học. Giáo viên cần tuyên dương học sinh
có tiến bộ trong mỗi tuần. Sự động viên, khích lệ kịp thời của giáo viên sẽ có sức
mạnh cổ vũ sự tự ý thức của học sinh.
Giáo viên nhận xét, góp ý một cách khéo léo về những điều mà các em chưa làm
được hoặc làm chưa tốt, khơng nên chê bai, chỉ trích vì điều đó sẽ làm thui chột đi sự
tích cực chủ động ở các em. Hãy để học sinh cảm nhận được sự tin tưởng của thầy cơ
dành cho chúng.
Mỗi lời nói, mỗi hành động, tác phong cũng như cách cư xử của giáo viên trên
lớp sẽ có tác động khơng nhỏ đến nhận thức và tình cảm của học trị. Giáo viên sẽ
không thuyết phục được học sinh nghe theo sự chỉ dạy của mình nếu như bản thân
khơng chuẩn mực và thiếu đi sự chân thành. Cho nên, mỗi giáo viên phải là một tấm
gương sáng về nhân cách để học sinh noi theo.
f. Biện pháp thứ sáu: Khen thưởng đúng lúc và xử lý kịp thời.
Thông qua các hoạt động học tập, các phong trào thi đua, các hoạt động bề nổi
có những cá nhân tiêu biểu. GVCN có biện pháp nêu gương, khen thưởng để động
viên khuyến khích kịp thời khích lệ tinh thần học tập rèn luyện các em. Đối với HS vi
phạm kỉ luật phải có biện pháp giáo dục, nhắc nhở để các em sửa chữa. Với đối tượng
HS cá biệt GV làm sổ theo dõi quá trình tu dưỡng rèn luyện, thường xuyên quan tâm,
giáo dục kịp thời. Để "thuần hóa" học sinh cá biệt cần đảm bảo nguyên tắc "nghiêm
khắc" và "nhẹ nhàng". Nếu các em vi phạm ta phải xử lí kịp thời với thái độ nghiêm
khắc, công bằng (Không nên nghiêm khắc quá mức sẽ phản tác dụng). Đồng thời
cũng phải quan tâm, thương yêu gần gũi với các em để các em khơng thấy mình bị
ghét bỏ, bị bỏ rơi.
g. Biện pháp thứ bảy: Xây dựng tập thể lớp thân thiện, đồn kết, gắn bó
Xây dựng một tập thể lớp thân thiện, cảm thơng, gắn bó giữa học sinh trong q
trình giáo dục. Một tập thể lớp tốt là môi trường lí tưởng để học sinh học tập và phát
triển nhân cách, là một tập thể hướng tới và hoạt động dựa trên các giá trị như: tôn
trọng, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, đồn kết, có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải
quyết các xung đột không bằng bạo lực… Học sinh có thể học từ một tập thể lớp tốt

những bài học đạo đức qua những tấm gương tốt của giáo viên và của các bạn trong
lớp. Trong tập thể đó, học sinh có cơ hội để suy nghĩ, bàn bạc, được thể hiện những
suy nghĩ, cảm xúc của mình về các nguyên tắc đạo đức với sự khuyến khích, cảm
thơng và tơn trọng của thầy cơ và các bạn. Để xây dựng một tập thể lớp thân thiện,
cảm thơng, gắn bó giữa học sinh trong q trình giáo dục. Tôi đã áp dụng một số biện
pháp sau:
Thứ nhất: Phân cơng các nhóm học tập. Dựa vào lực học, tơi chia ra các nhóm
học tập, phân cơng cho các em học giỏi kèm các em học yếu hơn để giúp bạn trong
học tập. Cán bộ lớp, đội thường xuyên nhắc nhở những bạn còn vi phạm nề nếp.


18

Thứ hai: Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, ngoại khóa. Thơng qua các buổi
sinh hoạt lớp tơi tư vấn cho các em xây dựng các chương trình ngoại khóa để các em
bày tỏ ý kiến của mình.
Trong năm học tơi đã tổ chức thành cơng buổi ngoại khóa với chủ đề: “Điều em
muốn nói”, buổi ngoại khóa tơi có mời các thầy cô giáo bộ môn, đại diện phụ huynh
đến dự. Buổi ngoại khóa được các em xây dựng nội dung rất chu đáo, phân công
nhau chuẩn bị. Giữa các hoạt động có xen kẽ các trị chơi, các tình huống cần thảo
luận. Trong buổi ngoại khóa, các em đã mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình về những
mong muốn thầy cơ, cha mẹ dành cho mình. Mạnh dạn đưa ra những quan điểm của
mình về tình cảm, tình u tuổi học trị, những khó khăn mà các em đang gặp phải,…
Các em cũng được nghe những tâm sự của các thầy cô, cha mẹ, những lời khuyên bổ
ích, những định hướng của những người đi trước.
Tổ chức ngoại khóa sẽ rất vất vả cho giáo viên chủ nhiệm, nhưng vô cùng hiệu
quả. Vấn đề đặt ra là giáo viên chủ nhiệm phải khéo léo gắn ngoại khóa vào mục tiêu
giáo dục học sinh. Tôi nhận thấy học sinh bây giờ bị áp lực học tập đè nặng, các em
cần có một sân chơi để giải tỏa áp lực, giải phóng năng lượng bản thân và tự tin thể
hiện cá tính. Do vậy khi tơi đặt vấn đề ngoại khóa, các em rất hào hứng nhưng tơi

kèm theo điều kiện là sau ngoại khóa phải đặt chỉ tiêu phấn đấu về học tập và nề nếp
như thế nào – giống như một bản hợp đồng cơ trị kí kết với nhau. Và đúng là sau
ngoại khóa, học sinh thấy cơng sức của giáo viên đã bỏ ra vì các em như thế nào nên
các em đều tự giác thực hiện phần hợp đồng của mình một cách vui vẻ và tự nguyện.
Quan trọng nhất là các em đã được đánh thức về tính đồn kết, ý thức khẳng định giá
trị bản thân và tập thể lớp.
Thứ ba: Tổ chức các hoạt động vui chơi, thể dục thể thao. Các hoạt động vui
chơi lành mạnh, mang niềm vui cho học sinh, tạo sự đoàn kết giữa các em trong lớp.
Trong năm học, tôi đã phối hợp với nhà trường tổ chức các em đi thăm quan tại các
mơ hình du lịch ở thành phố ng Bí, tham quan các danh lam thắng cảnh trong
vùng. Chuyến đi dã ngoại thực tế đã giúp các em hiểu hơn về các kiến thức lí thuyết
đã học ở nhà trường, thêm yêu quê hương đất nước, có ý thức bảo về rừng và tài
nguyên của đất nước, giúp các em gắn kết nhau hơn.


19

Ảnh các bạn học sinh lớp 8B tham gia hoạt động trải nghiệm tại Chùa Lân – Yên Tử

Sau các buổi học căng thẳng, tơi khuyến khích tổ chức cho các em các buổi
giao lưu, luyện tập thể dục thể thao như: ném còn, kéo co, đẩy gậy, đá cầu… Không
những giúp các em rèn luyện sức khỏe, tạo không khí sơi động trong lớp mà cịn giúp
các em đồn kết hơn, gắn bó hơn với các bạn trong lớp.

Ảnh các bạn học sinh lớp 8B tham gia hoạt động trải nghiệm
tại ngày hội di sản Việt Nam năm 2021


20


Ảnh các bạn học sinh lớp 8B tham gia hoạt động văn nghệ

Ảnh các bạn học sinh lớp 8B tham gia hoạt động trải nghiệm tại Chùa Lân – Yên Tử



×