Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Quan niệm của chủ nghĩa mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sứ mệnh của giai cấp công nhân việt nam trong thời đại ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.56 KB, 32 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM MÁC – LÊNIN VỀ CHÍNH TRỊ

Đề tài:
QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ SỨ MỆNH LỊCH
SỬ
CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ SỨ MỆNH CỦA GIAI
CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương I VÀI NÉT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ NHỮNG
NGƯỜI SÁNG LẬP........................................................................................3
1.1 Chủ nghĩa Mác Lênin.........................................................................3
1.2 Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin..............................5
1.2.1 Mác...................................................................................................5
1.2.2 Ăngghen..........................................................................................11
1.2.3 Lênin phát triển và hoàn thiện chủ nghĩa Mác - Lênin.............14
Chương II SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN...........16
2.1 Khái niệm giai cấp công nhân..........................................................16
2.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..........................18
Chương III SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT
NAM .............................................................................................................25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................31


MỞ ĐẦU
Với thế giới quan duy vật biện chứng về lịch sử, nhận thức bản chất của


xã hội tư sản từ cơ sở kinh tế, C. Mác phát hiện ra lực lượng xã hội có khả
năng cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là giai cấp công nhân, và khẳng
định, trong sự nghiệp tự giải phóng của nhân loại cần lao, giai cấp cơng nhân
là nịng cốt, đóng vai trị lãnh đạo. Đấy là điểm mấu chốt trong học thuyết
XHCN của C. Mác. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đạt đến mục tiêu "Thay cho xã
hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”. Như vậy, Giai cấp công nhân có sứ
mệnh lịch sử vơ cùng trọng đại, xóa bỏ xã hội cũ, lạc hậu, xây dựng xã hội
mới tiến bộ, giải phóng giai cấp mình đồng thời giải phóng tồn nhân loại trên
phạm vi tồn thế giới. Ngày nay đứng trước tình hình phát triển mới của đất
nước và thế giới, nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới, trong bối cảnh tồn
cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân ngày nay ở các nước,
nhất là các nước đang phát triển, là một trong những lực lượng xã hội quan
trọng nhất, đang tham gia tích cực vào các chương trình, dự án phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia. Từ tình hình trên, tơi nhận thấy việc nghiên cứu về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngày nay là hết sức bức giúp cho việc
tìm hiểu thêm về giai cấp cơng nhân ngày nay từ đó đưa ra các mục tiên và
giải pháp cho sự phát triển của giai cấp công nhân và cũng là sự phát triển của
đất nước. Chính vì những lý do đó, đề tài: “Quan niệm của chủ nghĩa Mác về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và sứ mệnh của giai cấp công nhân
Việt Nam trong thời đại ngày nay” đã được chọn làm đề tài nghiên cứu.

1


Chương I
VÀI NÉT VỀ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ NHỮNG NGƯỜI
SÁNG LẬP

1.1 Chủ nghĩa Mác Lênin
Chủ nghĩa Marx-Lênin là thuật ngữ chính trị để chỉ học thuyết do Karl
Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát triển,
được coi là ý thức hệ chính thức của Liên Xơ từ giữa thập niên 1920. Thuật
ngữ chính trị này được Iosif Vissarionovich Stalin định nghĩa là học thuyết do
Karl Marx và Friedrich Engels sáng lập và được Vladimir Ilyich Lenin phát
triển trong mối quan hệ đấu tranh giai cấp giữa thời đại Chủ nghĩa đế quốc và
các cuộc cách mạng của giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa Marx-Lenin được xây dựng bởi các nhà sáng lập chủ nghĩa
cộng sản Marx, Engels, đưa đến sự thành lập Đệ Nhất Quốc tế. Từ những cơ
sở về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, Marx và Engels sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, từ đó chỉ ra sứ mệnh lịch
sử của giai cấp cơng nhân.
Chủ nghĩa Marx-Lenin gồm có 3 phần chủ yếu:
Một là, Triết học gồm 2 phần là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.


Chủ nghĩa duy vật lịch sử nổi bật các vấn đề:
Mối quan hệ giữa Tồn tại xã hội và Ý thức xã hội



Lý luận về Hình thái Kinh tế - Xã hội. Lý luận Hình thái Kinh tế -

Xã hội (theo quan điểm Marx) được một số người cho là nên thay bằng "nền
văn minh" theo hướng tiếp cận "tiêu chí kỹ thuật".
Hai là, Kinh tế chính trị chủ yếu nói về



Mâu thuẫn giữa nền sản xuất tập trung xã hội hố cao độ với trình

độ cao và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến cuộc đấu tranh chính trị
giữa giai cấp vơ sản và tư sản để xác định hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
phù hợp với trình độ sản xuất. Thực tế hiện nay các nước có nền kinh tế tư
2


bản chủ nghĩa đã có sự điều chỉnh, phát triển kinh tế gắn với an sinh xã hội.
Sự điều chỉnh này đã làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi, tồn tại, và phát
triển nhưng các nhà kinh tế và các chính trị gia cánh tả cho rằng điều đó
khơng làm thay đổi bản chất bóc lột của giai cấp tư sản. Sự điều chỉnh đó
khiến phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển
khơng cịn mạnh mẽ như trước.


Phương thức sản xuất Xã hội chủ nghĩa thay thế phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa. Các thay đổi ở các nước dựa trên nền tảng chủ nghĩa
Marx-Lenin, nhất là ở mặt chấp nhận nhiều thành phần kinh tế và đảng viên
Đảng cộng sản làm kinh tế tư nhân, đã thể hiện sự chấp nhận nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ. Điều này cho thấy mong muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngắn là quá hấp tấp vội vã, mà cần tôn trọng
quy luật khách quan mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra.
Ba là, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội thay thế chủ
nghĩa tư bản thông qua cách mạng vô sản là một tất yếu chủ quan.


Cách mạng vô sản nổ ra với nguyên nhân là do mâu thuẫn trong


lịng chế độ xã hội tư bản.


Giai cấp cơng nhân mang sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ phương thức

sản xuất tư bản chủ nghĩa thay vào đó phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Marx xác định đây là học thuyết "mở", sẽ có các chi tiết nhỏ khơng cịn
phù hợp trong tương lai cần điều chỉnh, bổ sung và phát triển.
Đến thời Lênin, Lênin nhận định điều kiện đã thay đổi: Chủ nghĩa tư
bản từ tự do cạnh tranh tiến đến giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế
quốc. Lenin đã phát triển và hoàn thiện chủ nghĩa Mác-Lênin trong đó ơng đã
xác định thời cơ ra đời của Đảng cộng sản. Khẳng định cách mạng nổ ra
khơng chỉ trong lịng xã hội tư bản phát triển cao mà cịn tại các nước có nền
kinh tế lạc hậu nhưng các điều kiện của cuộc cách mạng vơ sản đã chín muồi.
Đồng thời cụ thể hóa các mối quan hệ giữa chính trị - kinh tế sau thời điểm

3


cách mạng tháng 10 (năm 1917) thắng lợi và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện thực tại Liên bang Xô Viết.
1.2 Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2.1 Mác
Các Mác (Karl Marx) sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 ở thành phố Trier
trên bờ sông Mozel, một nhánh của sông Rhein.
Năm mười hai tuổi (1830), C. Mác vào học trường trung học ở Trier,
học giỏi, đặc biệt nổi bật ở những lĩnh vực đòi hỏi tính độc lập sáng tạo. C.
Mác cũng tỏ ra có năng lực về tốn học.
Thời học phổ thơng C. Mác may mắn có những thầy tốt như thầy hiệu
trưởng trung học ở Trier dạy lịch sử và triết học, thầy dạy toán và vật lý những người theo chủ nghĩa duy vật và có xu hướng tự do.

Mùa thu 1835, C. Mác tốt nghiệp trung học, sau đó, tháng Mười năm
1835, Mác vào trường Đại học Tổng hợp Bonn để học luật. Hai tháng sau,
theo lời khuyên của bố, Mác theo học ở trường Đại học Tổng hợp Berlin.
Năm 1836, trong dịp nghỉ hè, chàng thanh niên Mác đính hơn với người bạn
gái từ thuở ấu thơ hơn Mác bốn tuổi, Gianny Vôn Vecphalen (Janny vôn
Vestphalen), con gái viên Tam đẳng đại thần Luguy Vơn Vecphalen (Ludwig
vơn Vestphalen) thuộc dịng dõi quý tộc. Ở trường Đại học Tổng hợp Berlin,
năm 1836, ngoài luật học, sử học và ngoại ngữ Mác bắt đầu đi sâu nghiên cứu
triết học. Mùa xuân 1837, Mác bắt đầu nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêgen
(Hégel), sang năm 1839 thì vùi đầu vào nghiên cứu triết học, suốt cả năm
1939 và một phần của năm 1840 Mác tập trung nghiên cứu những vấn đề của
lịch sử triết học Cổ đại. Ngày 15 tháng Tư năm 1841, khi mới 23 tuổi, C. Mác
nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án Về sự khác nhau giữa triết học tự
nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ (Épicure)
tại trường Đại học Tổng hợp Jena.
Tháng Năm năm 1843, Mác đến Kroinak, một thành phố nhỏ vùng
Rhein, nơi Gianny Vôn Vecphalen, vị hôn thê của Mác đang sống cùng với
4


mẹ. Ngày 19 Tháng Sáu năm 1843, Mác chính thức làm lễ thành hôn với
Gianny bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình Gianny.
Cuối tháng Mười năm 1843, vợ chồng C. Mác đi Paris, thủ đô nước
Pháp. Sau này, Mác có dịp đến Paris một vài lần nữa, nhưng chuyến đi Paris
đầu tiên mà Mác lưu lại một năm rưỡi là quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với
sứ mệnh chính trị của C. Mác.
Lần đầu tiên, Các Mác gặp Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) vào
cuối tháng Mười một năm 1842, khi Ăngghen trên đường sang Anh và ghé
thăm Bộ Biên tập tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm
1844, Ăngghen đến thăm Mác ở Paris. Trong 10 ngày ở thăm Paris, Mác và

Ăngghen đã có nhiều cuộc nói chuyện cởi mở và từ cuộc gặp gỡ này hai ông
đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả
vấn đề lý luận và thực tiễn.
Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ Pháp đã trục
xuất Mác. Ngày 3 tháng Hai năm 1845, Mác rời Paris đến Brucsen (Brussel)
của Bỉ, ít lâu sau Ăngghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt
chẽ với nhau. Sau khi cách mạng năm 1845 ở Pháp nổ ra, Chính phủ Bỉ đã
trục xuất Mác. Ông lại đến Paris, tháng Tư năm 1848, Mác cùng với Ăngghen
đến Koln, một thành phố nhỏ trên bờ sông Rhein nước Đức, và tại đây Mác
trở thành Tổng Biên tập tờ Báo Mới tỉnh Ranh, cơ quan của phái dân chủ.
Năm 1849 Chính phủ Phổ đóng cửa tờ báo và trục xuất Mác. Ơng lại đến
Paris, nhưng lần này ông chỉ lưu lại 3 tháng. Tháng Tám năm 1849, từ Paris
Mác đi Lơnđơn (London) thủ đô của Anh và sống đến cuối đời (1883).
Ngày 14 tháng Ba năm 1883, Các Mác qua đời ở Lơnđơn và được an
táng tại nghĩa trang Haighết (Highgate), Bắc Lơnđơn.
Hoạt động cách mạng sơi nổi và con đường tìm ra quy luật lịch sử của
Các Mác
Mới 19 tuổi (1837), Các Mác đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêghen
(1770 -1831), triết gia Đức nổi tiếng và là người sáng lập ra học thuyết về
5


phép biện chứng duy tâm. Đặc biệt, Mác chú ý đến triết học của Êpicuơ
(Épicure) một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại. Quan tâm đến
vấn đề thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, Mác đã giải quyết
được những vấn đề quan trọng như triết học có chứng minh tất cả những cái
hiện tồn tại là hợp lý hay khơng, hay là nó chứa đựng trong bản thân nó cái
cần phải có ngược với cái đang tồn tại. Mác đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của
Êpicuơ muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi
những xiềng xích ràng buộc của tơn giáo và mê tín. Trong luận án tiến sĩ Về

sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của
Êpicuơ (1841), Mác kịch liệt chống mê tín, dị đoan và mọi triết học phản
động muốn việc nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích của tơn giáo.
Tiếp theo, Mác đã viết một bài báo sắc sảo (2-1842) chống lại sự kiểm duyệt
báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế nhà
nước Phổ. Mác phê phán mạnh mẽ hơn chế độ chuyên chế Phổ và những nhà
tư tưởng bênh vực cho chế độ này khi trở thành người lãnh đạo tờ báo
Rheinische Zeitung vào tháng Mười năm 1842. Tháng Giêng năm 1843,
Chính phủ Phổ ký lệnh đình bản tờ báo. Marx càng nhận thức rõ hơn ở
Vương quốc Phổ không thể công khai tuyên truyền cách mạng được. Từ thời
điểm này trở đi vấn đề cơ bản mà Mác quan tâm là vấn đề cách mạng, bản
chất, nguyên nhân và động lực của nó. Cơng tác thực tiễn ở báo Rheinisehe
Zeitung đã làm thay đổi về cơ bản thế giới quan của Mác, chuyển từ chủ
nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng
sang chủ nghĩa cộng sản. Nghiên cứu tác phẩm của Hêgen, Mác thấy rõ Nhà
nước không phải là hiện thân của lý trí thế giới, hiện thân của cái chung đứng
riêng các lợi ích riêng như Hêgen khẳng định. Mác thấy phải xét lại một cách
có phê phán cái quan niệm duy tâm của Hêgen về xã hội và nhà nước, phát
hiện những động lực thật sự của tiến bộ xã hội, những biện pháp và hình thức
làm biến đổi thế giới bằng cách mạng. Thời kỳ này, Mác viết một cơng trình
quan trọng phê phán học thuyết của Hêgen về Nhà nước và pháp luật, có nhan
6


đề: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen (sau khi Mác qua đời,
cơng trình này mới được xuất bản ở Liên Xơ năm 1927). Đóng góp to lớn về
mặt lý luận của Mác trong quá trình phê phán Hêgen đưa ra một quan niệm
đúng đắn về một chế độ xã hội dân chủ, ở đó nền dân chủ là sự tự quyết của
nhân dân, lợi ích của nhân dân. Tháng Hai năm 1844, trên tờ tạp chí Deutsch
– Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp - Đức) Mác đăng bài Góp phần

phê phán triết học pháp quyền của Hêgen. Lời mở đầu, khẳng định rằng giai
cấp có thể thực hiện việc giải phóng tồn thể nhân loại phải là giai cấp vơ sản.
Cũng trên tờ tạp chí này có hai tên tác giả đứng cạnh nhau: Các Mác và
Pheđơrich Ăngghen, người sau này gắn liền với tên tuổi và học thuyết cách
mạng của Các Mác. Tuy nhiên, những quan điểm mới của C. Mác trình bày
trên tờ tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher chỉ là một giả thuyết thiên
tài đối với sự phát triển lịch sử của xã hội. Nó cần được chứng minh về mặt
lịch sử. Và Mác đã hướng toàn bộ hoạt động lý luận để phục vụ việc chứng
minh này.
Hiện thực khách quan sinh động ở nước Pháp thời gian Mác sống ở
Paris đã giúp Mác hiểu sâu hơn cơ cấu nội tại của sự phát triển chủ nghĩa tư
bản và những mâu thuẫn của nó.
Từ tháng Tư – tháng Tám năm 1844. Mác viết Bản thảo kinh tế - triết
học năm 1844, thực chất là những phôi thai của những tư tưởng hết sức quan
trọng mà sau này Mác phát triển một cách khoa học trong bộ Tư bản.
Tháng Hai năm 1845, cuốn sách Gia đình thần thánh của Mác và
Ăngghen viết chung ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan
của phái Hêghen trẻ, thực chất là phê phán toàn bộ chủ nghĩa duy tâm, đồng
thời nêu ra vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Thời kỳ
hoạt động của Mác ở Paris kết thúc (tháng Hai năm 1845), một thời kỳ mới
sau đó mở ra với mục đích rõ ràng mà Mác tự đặt ra cho mình: đề xuất một
học thuyết cách mạng mới.

7


Mác cùng với Ăngghen hợp sức viết Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846)
tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ đồng
thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach
(Ludwig Feuerbach). Trong cuốn Sự bần cùng của triết học (1847) Mác đã

chống lại triết học tiểu tư sản của Pruđông (Proudhon) và trình bày những cơ
sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vơ sản. Năm 1848
được sự uỷ nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản, Mác và
Ăngghen viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - một văn kiện mang tính chất
cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vơ sản, nó soi sáng cho giai cấp cơng
nhân tồn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ
nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi. Mác và Ăngghen đã phân tích
một cách sâu sắc vai trò của đấu tranh giai cấp trong lịch sử xã hội loài người.
Cuộc đấu tranh giữa những người bị áp bức và những kẻ áp bức là động lực
chủ yếu của sự phát triển lịch sử. Vạch rõ những quy luật chủ yếu của cuộc
cách mạng vô sản, Mác và Ăngghen viết rằng, bước đầu tiên của cuộc cách
mạng đó là “biến giai cấp vơ sản thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân
chủ”. Tư tưởng đó là tư tưởng xác lập “chun chính của giai cấp vơ sản”
(mặc dù trong Tun ngơn chưa có thuật ngữ này), và khái niệm chun
chính vơ sản và nhà nước vô sản được thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn. Đồng
thời Mác cũng khẳng định rõ đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội
phát triển và quy luật bạo lực cách mạng trong việc giành lấy chính quyền về
tay giai cấp vơ sản.
Tháng Sáu năm 1859, cơng trình thiên tài của Các Mác Góp phần phê
phán mơn chính trị kinh tế học ra đời viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ;
nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học
thuyết Mác xít về giá trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Các Mác.
Các Mác là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I thành lập
ngày 28 Tháng 9 năm 1864 ở London. Mác dốc tồn bộ tâm sức của mình để
thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại. Năm 1867, Bộ Tư bản
8


(tập I) – tác phẩm chủ yếu của Mác ra đời. Tập II và III Mác khơng kịp hồn
tất, Ăngghen đảm nhiệm việc xuất bản hai tập này. Trong Bộ Tư bản của mình

Các Mác đã trình bày những vấn đề hết sức quan trọng của sản xuất tư bản nói
chung: sự chuyển hố của tiền thành tư bản, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị
thặng dư tương đối, sự chuyển hoá giá trị thặng dư trở thành tư bản (tích luỹ tư
bản), tích luỹ ban đầu của tư bản (tập I); những vấn đề về giá trị thặng dư và lợi
nhuận, sự chuyển hoá của lợi nhuận thành lợi nhuận trung bình, tư bản cho vay
và tư bản thương nghiệp, v.v…(tập II và III). Tóm lại, Mác đã vạch rõ quy luật
giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư
tương đối; và quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất
hàng hoá được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của
lưu thông tiền tệ, v.v…Trong kết luận của bộ Tư bản, Mác nêu lên sự tất yếu
phải thủ tiêu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thay thế nó bằng một hình thái tổ
chức cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm những năm cuối đời Mác nêu lên hình thức hợp lý nhất
của chun chính vơ sản là kiểu tổ chức chính trị như công xã Pari (Cuộc nội
chiến ở Pháp – 1881).
Trong cuốn Phê phán cương lĩnh Gôta (1875), Mác đã kịch liệt phê
phán những sai lầm cơ hội chủ nghĩa của những người lãnh đạo đảng xã hội
dân chủ Đức, đề ra một vấn đề hết sức quan trọng về thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản,
nghĩa là bản thân xã hội cộng sản phải phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn
thấp - chủ nghĩa xã hội và giai đoạn cao - chủ nghĩa cộng sản. Năm 1876, sau
khi Quốc tế I giải tán, Mác nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các
nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.
Tên tuổi của Các Mác cùng với Phriđơrich Ăngghen mãi mãi đi vào
lịch sử nhân loại như những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học
có tác động to lớn và sâu rộng đối với nhân loại tiến bộ.
1.2.2 Ăngghen
9



Ngày 28/11/1820, tại Barmen, tỉnh Ranh của Vương quốc Phổ (thuộc
nước Đức ngày nay), trong một gia đình chủ xưởng dệt, Ph.Ăngghen đã được
sinh ra.
Ngay từ nhỏ, Ph.Ăngghen đã bộc lộ tính cách độc lập. Năm 14 tuổi,
Ph.Ăngghen học ở trường tại thành phố Barmen. Ph.Ăng- ghen sớm bộc lộ
năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng 10/1834, Ph. Ăngghen chuyển sang học ở
trường trung học Elberfelder, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm
1837, theo yêu cầu của bố, Ph.Ăngghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi
chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc buôn bán ở văn phịng của bố ơng. Trong
thời gian này ơng tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ
ca. Tháng 6/1838, Ph.Ăngghen đến làm việc tại văn phòng thương mại ở thành
phố cảng Barmen. Cuối năm 1839 Ph.Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác
phẩm của Hê - ghen. Tháng 9/1841, Ph.Ăngghen đến Berlin và gia nhập binh
đồn pháo binh. ở đây ơng được huấn luyện qn sự mà trong những năm sau,
ơng rất cần đến nó, nhưng ông vẫn lui tới trường Đại học Tổng hợp Berlin nghe
các bài giảng triết học, tham gia hội thảo về lịch sử tôn giáo.
Mùa xuân 1842, Ph.Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische
Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, trên tờ báo
Ph.Ăngghen đã lên tiếng phản kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ
Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức. Ngày 8/10/1842, Ph.Ăngghen
mãn hạn phục vụ trong quân đội. Từ Berlin ông trở về Barmen. Một tháng
sau, Ph. Ăngghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh,
Ph.Ăng- ghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Kioln và ông đã
gặp K. Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ông đã ở lại Anh trong 02 năm. Ph.Ăngghen tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám Pháp - Đức (tháng 2/1844).
Tháng 2/1845, cuốn sách “Gia đình và Thần thánh” của C. Mác và
Ph.Ăngghen ra đời đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp
của nó, nêu luận điểm về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong
lịch sử. Hai ông cùng hợp sức viết cơng trình nổi tiếng “Hệ tư tưởng Đức”
10



(1845 - 1846), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái
Hêghen trẻ; đồng thời, phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của
Ludvich Phoiơbach nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tiếp đó, năm 1848, Đại hội II Liên
đồn những người cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph.Ăngghen cùng viết
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.”
Trong thời gian sống ở Pari, Ph.Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt
động của Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở
thành Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ
công nhân Đức (tháng 3/1848) do Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn
những người cộng sản lập ra.
Tháng 3/1848, cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen thảo ra “Những yêu sách
của Đảng Cộng sản Đức” được Ban Chấp hành Trung ương Liên đồn những
người cộng sản thơng qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành
động của giai cấp vô sản Đức.
Tháng 4/1848 ông cùng với C.Mác trở về Đức tham gia cuộc cách
mạng Đức. Ngày 20/5/1848 Ph. Ăng-ghen đến cùng với C. Mác chuẩn bị xuất
bản tờ Neue Rheinische Zeitung. Ph.Ăng-ghen tham gia viết các bài xã luận,
bài điểm tình hình chính trị.
Tháng 10/1848 ông đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ
nhưng ơng khơng được phép cư trú chính trị. Ph.Ăng- ghen lại đến Pari; sau
đó, sang Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đồn cơng nhân Đức, ơng được
bầu vào Uỷ ban Trung ương của tổ chức này.
Tháng Giêng năm 1849, ông trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng.
Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849), Ph.
Ăng-ghen đã vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội
cách mạng tiến hành cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph.Ăng- ghen đến
Elberfeld và được sung vào Ban quân sự; Ăngghen đưa ra một kế hoạch để
triển khai cuộc đấu tranh cách mạng dấy lên thành phong trào toàn nước Đức.


11


Trong thời kỳ này, ông tham gia trực tiếp 04 trận đánh lớn, trong đó có trận
Rastatt. Sau này, Ph. Ăngghen đã viết trước tác “Luận văn quân sự” nổi tiếng.
Tháng 11/1849, Ph.Ăngghen đến Luân Đôn và được bổ sung vào Ban
Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ
sau khi đến đây. Ph.Ăng-ghen sống ở Ln- đơn một năm. Trong thời gian
đó, ông đã viết các tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” và
“Cuộc chiến tranh nông dân ở Đức”.
Tháng 11/1850, Ph.Ăng-ghen buộc phải chuyển dến Manchester và lại
bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho
Ăngghen có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng.
Ph.Ăng-ghen đặc biệt chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, mơn qn
sự, chính sách quốc tế. Cùng với C. Mác, Ph.Ăng-ghen tham gia lãnh đạo
Quốc tế Cộng sản I.
Tháng 9/1870, Ph. Ăng-ghen đến Luân Đôn và được đưa vào Tổng hội
đồng của Quốc tế Cộng sản I. Ph. Ăngghen kiên trì đấu tranh chống lại quan
điểm cơ hội của phái Pruđông, Latxan, Bacunin.
Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ
Công xã Pari. Trong thời gian này, Ph. Ăngghen đã viết một số tác phẩm có
giá trị lý luận, đặc biệt là cuốn “Chống Đuy rinh” (1818), góp phần to lớn cho
việc hồn thiện lý luận cho chủ nghĩa C. Mác.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph.Ăng-ghen là người lãnh đạo tổ chức
những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của
bộ Tư bản mà C. Mác chưa kịp hoàn thành.
Ph. Ăng-ghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những năm cuối đời:
Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước (1884), Lút-víchPhơ-bách và
sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1866), Biện chứng tự nhiên, Vấn đề

nông dân ở Pháp và Đức (1894).
Ơng mất ngày 5/8/1895.
1.2.3 Lênin phát triển và hồn thiện chủ nghĩa Mác Lênin

12


Vladimir Ilich Ulyanov ra đời ở Simbirsk bên dịng sơng Volga ngày
22/04 năm 1870 trong một gia đình có học.
Ơng học giỏi hồi nhỏ và vào trường luật để tiếp tục học lên. Nhưng tại
đại học, ông tiếp thu tư tưởng cấp tiến, bị tác động và ảnh hưởng mạnh bởi vụ
người anh trai (Alexander) bị xử tử do tham gia một nhóm cách mạng Nga
(nhóm Ý Dân).
Bị đuổi học vì tư duy cực đoan, ơng tốt nghiệp khoa luật với tư cách
sinh viên ngoại khóa năm 1891.
Đến St Petersburg và trở thành nhà cách mạng chuyên nghiệp, ông bị
bắt và đầy đi Siberia, nơi ông cưới Nadezhda Krupskaya.
Sau khi hết hạn đi đầy và lấy bí danh là Lenin (từ 1901), ông chủ yếu
sống tại Tây Âu trong hơn một thập niên sau đó và trở thành một trong số nhân
vật hàng đầu của phong trào cách mạng quốc tế, thủ lĩnh phái 'Bolshevik' trong
Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga.
Năm 1917, nước Nga kiệt quệ vì Thế Chiến 1 là mơi trường chín muồi
cho thay đổi. Người Đức hỗ trợ Lenin với hy vọng ông sẽ làm suy yếu nỗ lực
chiến tranh của Nga và giúp ông về nước.
Sau khi trở về Lenin đã hoạt động chống lại chính phủ lâm thời vừa
mới lật đổ chế độ Nga hồng.
Sau đó, ơng dẫn dắt cuộc đảo chính mà sau được gọi là Cách mạng
Tháng 10.
Ngay sau đó, Nga rơi vào nội chiến 3 năm liền và phái Bolshevik đã
chiến thắng, kiểm sốt tồn bộ đất nước.

Trong thời gian có cuộc cách mạng, chiến tranh và nạn đói, Lenin đã tỏ
ra sự khinh thường tới lạnh người trước đau khổ của vô số đồng bào ông và
đàn áp đối lập không nương tay.
Dù là người tàn nhẫn, Lenin cũng có đầu óc thực tiễn. Khi mơ hình xã
hội chủ nghĩa khiến kinh tế Nga ngưng trệ, ông đã áp dụng chính sách Kinh tế
Mới và cho phép một phần hoạt động kinh doanh tư nhân.

13


Chính sách này được tiếp tục vài năm sau khi ông qua đời.
Năm 1918, Lenin thoát chết trong đường tơ kẽ tóc khi bị ám sát nhưng
cũng bị thương nặng.
Sức khỏe ông suy yếu dần và năm 1922 ông bị một cú đột quỵ và
khơng bao giờ phục hồi tồn bộ.
Trong những năm sắp qua đời, Lenin tỏ ra lo ngại về bộ máy ngày càng
quan liêu hóa của chế độ và quyền lực ngày càng tăng của người sau đó sẽ kế
nhiệm ơng là Joseph Stalin.
Lenin chết ngày 24 tháng 1 năm 1924 và thi hài được ướp để cho vào
lăng tại Hồng trường, Moscow.

14


Chương II
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
2.1 Khái niệm giai cấp công nhân
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ
khái niệm giai cấp cơng nhân. Chính C.Mác và Ph.ăngghen đã chỉ rõ: “Vấn đề
là ở chỗ giai cấp vơ sản thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản

thân nó, giai cấp vơ sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử”1
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau: giai cấp vơ
sản, giai cấp xã hội hồn tồn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình,
lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân
hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... như những cụm từ đồng nghĩa
để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến,
cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào
đi nữa thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người
lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vô sản lại là sản
phẩm của bản thân nền đại công nghiệp"2
“Công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy
móc vậy... Cơng nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền cơng nghiệp hiện đại"3
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người
lao động khơng có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị
1

C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.56.
C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.610.
3
C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.11.
2

15



nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư. Thuộc tính thứ hai này nói lên một trong
những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
nên C.Mác và Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp
cơng nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai
cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh cơng nhân của nền cơng
nghiệp cơ khí đã xuất hiện cơng nhân của nền cơng nghiệp tự động hố, với
việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Song, dù cho trình
độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã
hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù.
Căn cứ hai thuộc tính cơ bản của giai cấp cơng nhân nhưđã trình bày ở
trên, chúng ta có thể coi những người lao động trong các ngành sản xuất công
nghiệp, dịch vụ cơng nghiệp là cơng nhân. Cịn những người làm cơng ăn
lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hố, dịch vụ
(khơng liên quan trực tiếp đến sản xuất cơng nghiệp)... là những người lao
động nói chung, đang được thu hút vào tổ chức cơng đồn nghề nghiệp,
nhưng không phải là công nhân.
Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai
cấp cầm quyền, khơng cịn ở địa vị giai cấp bị bóc lột nữa, mà nó đã trở thành
giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động, làm chủ những tư liệu
sản xuất cơ bản đã được cơng hữu hố. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, giai cấp cơng nhân có đặc trưng chủ yếu nhất bằng thuộc tính thứ nhất;
cịn về thuộc tính thứ hai nếu xét tồn bộ giai cấp, thì giai cấp cơng nhân đã là
người làm chủ, nhưng trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế, thì cịn
có một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân. Những
người này về danh nghĩa tham gia làm chủ cùng tồn bộ giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động, nhưng xét về mặt cá nhân, họ vẫn là những người làm
công, ăn lương và với những mức độ nhất định, họ vẫn bị những chủ sở hữu

tư nhân bóc lột về giá trị thặng dư.
16


Những quan điểm của C. Mác và Ph. ăngghen về hai thuộc tính cơ bản
của giai cấp cơng nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở
phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc
biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại
ngày nay. Căn cứ hai thuộc tính cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa:
Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát
triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực
lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy trình cơng nghệ, dịch vụ cơng
nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất
và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Ở các nước tư bản, giai cấp cơng nhân là những người khơng có hoặc
về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất, làm th cho giai cấp tư sản và bị bóc lột
giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân là người đã
cùng nhân dân lao động làmchủ những tư liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp
lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
2.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Nói một cách khái quát, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân là xố bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xố bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa văn minh.
Ph. Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, - đó là
sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”1


1

C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr.393.
17


V.I. Lênin cũng chỉ rõ: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở
chỗ nó làm sáng rõ vai trị lịch sử thế giới của giai cấp vơ sản là người xây
dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”2
Ở nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải lãnh
đạo cuộc cách mạng đó thơng qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản
Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ
nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân
từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội,
khơng có người bóc lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột, bất cơng.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Về nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản khẳng định giai cấp cơng nhân là giai
cấp có sứ mệnh lịch sử cao cả, là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh
đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng
tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hồn tồn sự phân
chia giai cấp. Vì thế, sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân không phải là duy trì
giai cấp cơng nhân mà là giải phóng triệt để con người. Trong “Tun ngơn
của Đảng cộng sản” C.Mác-Ph.Ăng-ghen đã khẳng định: “Toàn bộ lý luận
của chủ nghĩa cộng sản là thủ tiêu chế độ tư hữu”. Một khi chế độ tư hữu
khơng cịn thì ngun nhân phân chia xã hội thành giai cấp, nhà nước cũng bị

xóa bỏ. Do đó với tư cách là một giai cấp, giai cấp cơng nhân cũng sẽ khơng
cịn lý do tồn tại. Con đường đi tới xã hội không giai cấp là con đường quanh
co và nhiều phức tạp. Để hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công
nhân phải tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động, tiếp thu lý luận

2

V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t. 23, tr. 1.
18



×