Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đảm bảo sự hài hòa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.69 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ……………

---------------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI : ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC LỢI ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM

Họ và tên

:

Mã sinh viên :
Lớp

:

Tháng 6/2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...................................................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM HÀI HỊA CÁC LỢI ÍCH
KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.....................................................................2
1.2.Khái qt về lợi ích kinh tế.................................................................2
1.2.1.Khái niệm.....................................................................................2
1.2.2. Vai trị của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường..............2
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế....................4


1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam............................................................................................5
1.2.1. Khái quát về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam...............................................................................................................5
1.2.2.Quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.........................................................................................6
1.3. Đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.....................................................7
1.3.1. Quan niệm về đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN Việt Nam hiện nay.........................................7
1.3.2. Các nội dung đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế trong phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam..................................7
Tiểu kết chương 1........................................................................................8
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO ĐẢM HÀI HỊA CÁC LỢI
ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...............................................................9
2.1. Những kết quả đạt được.....................................................................9


2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.......................................................12
2.2.1. Những hạn chế..........................................................................12
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế.........................................................13
Tiểu kết chương 2......................................................................................14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC LỢI ÍCH
KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...................................................................15
Tiểu kết chương 3......................................................................................16
KẾT LUẬN................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................18



MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay lợi ích kinh tế đang là vấn đề được quan tâm. Vấn đề lợi ích kinh
tế và các quan hệ lợi ích kinh tế đóng vai trị quan trọng để thúc đẩy sản xuất,
nâng cao năng suất lao động.Việc giải quyết các lợi ích kinh tế một cách hợp lý,
hài hịa sẽ góp phần tạo động lực cho nền kinh tế -xã hội phát triển.
Để phát triển nền kinh tế bền vững Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra quan
điểm : “ Bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hịa các lợi ích và phương thức thực
hiện lợi ích cơng bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích
kinh tế”[3]. Tuy nhiên, các quan hệ lợi ích có sự thống nhất và mâu thuẫn với
nhau, nếu chúng thống nhất thì thúc đẩy kinh tế phát triển cịn nếu có sự mẫu
thuẫn thì làm kìm hãm và ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế -xã hội. Vì vậy, Nhà
nước có vai trị quan trọng trong điều hịa các lợi ích kinh tế đó. Để hiểu rõ hơn
về lợi ích kinh tế, thực trạng đảm bảo lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay em tiến hành nghiên cứu đề tài : “ Đảm
bảo hài hòa các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam” để làm bài tiểu luận của mình. Bên cạnh đó, đưa ra những
giải pháp phù hợp với thực tiễn đã đưa ra.

1


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM HÀI HÒA CÁC LỢI ÍCH
KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.2.Khái quát về lợi ích kinh tế
1.2.1.Khái niệm
Theo CN Mác Lê nin “Lợi ích là sự thõa mãn nhu cầu của con người mà sự

thỏa mãn nhu cầu này phải được đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất tương ứng.” [1;tr189]
Lợi ích kinh tế là lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động kinh tế của
con người. Lợi ích kinh tế gắn liền với nhu cầu về vật chất đó chính là nhu cầu
về kinh tế của con người trong xã hội.Như vậy:
“Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách
quan của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ
thống quan hệ sản xuất quyết định”. [1;tr189] Chỉ có những nhu cầu kinh tế
mới phát sinh ra lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế chính là phản ánh mức độ của cải
vật chất của con người khi tham gia vào các hoạt động kinh tế -xã hội, thể hiện
mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất
hay hoạt động sản xuất vật chất của xã hội. Đó là một trong các nhân tố cấu
thành nên quan hệ sản xuất của xã hội, chính vì vậy lợi ích kinh tế do quan hệ
sản xuất quyết định.
Lợi ích kinh tế phản ánh mục đích và động cơ của các quan hệ giữa các chủ
thể trong nền sản xuất xã hội và nó đóng vai trị quyết định trong phân phối các
lợi ích khác.
1.2.2. Vai trị của lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, lợi ích kinh tế có vai trị quyết định nhất trong hệ thống các lợi
ích của con người. Là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất và kinh tế -xã hội
phát triển.
2


Từ xa xưa con người đã tiến hành các hoạt động sản xuất vật chất để phục
vụ nhu cầu sống và phát triển của mình. Thơng qua hoạt động kinh tế để tạo ra
nhiều của cải vật chất hơn nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người. Chính vì vậy, trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi
ích kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, thì lợi ích kinh tế giữ vai trò
quyết định nhất, chi phối các lợi ích khác. Khi lợi ích kinh tế được đảm bảo và

thực hiện thì nó cũng là cơ sở cho các lợi ích khác phát triển.
Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động kinh tế để đạt được nhiều lợi ích
kinh tế nhất. Lợi ích kinh tế tạo nên động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế tham
gia vào các hoạt động kinh tế -xã hội, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển mạnh
mẽ. Để đạt được nhiều lợi ích kinh tế nhất thì các chủ thể kinh tế không ngừng
đổi mới, sáng tạo và ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất để đạt được
ưu thế trên thị trường. Điều này cũng thúc đẩy lực người lao động phải không
ngừng học hỏi, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao tay nghề để đáp ứng
được với cơng việc,…vì vậy đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người sử
dụng, nâng cao thu nhập và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ hai, lợi ích kinh tế thúc đẩy các lợi ích khác phát triển.
Tất cả các phong trào trong lịch sử đều xoay quanh các vấn đề lợi ích, với
lợi ích kinh tế là ưu tiên hàng đầu. Sự thoả mãn nhu cầu vật chất còn phụ thuộc
vào địa vị của con người trong quan hệ sản xuất xã hội, vì vậy để thực hiện lợi
ích của mình, các chủ thể kinh tế phải đấu tranh với nhau, thống trị tư liệu sản
xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của lịch sử đấu tranh giai cấp - động lực sống còn
của một xã hội tiến bộ. Lợi ích kinh tế thúc đẩy lợi ích về chính trị, văn hóa, xã
hội…phát triển theo, khi lợi ích kinh tế được đảm bảo thì các lợi ích khác cũng
ổn định. Tuy nhiên, các lợi ích khác về chính trị, văn hóa, xã hội…cũng có vai
trị riêng của mình, chúng có mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn
nhau tạo nên sự hài hòa trong phát triển kinh tế và các vấn đề khác của cuộc
sống. Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế - xã hội. C.Mác đã chỉ rõ: “Cội nguồn phát triển của xã hội không
3


phải là quá trình nhận thức, mà là các quan hệ của đời sống vật chất, tức là các
lợi ích kinh tế của con người”. [2] Như vậy, mọi vận động của lịch sử đều xoay
quanh vấn đề lợi ích, mà trước hết là vì lợi ích kinh tế của con người.
1.2.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế

Các quan hệ lợi ích kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố cụ thể như sau:
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Lợi ích kinh tế thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trong
quá trình sản xuất, do quan hệ sản xuất quyết định vì vậy nên lợi ích kinh tế chịu
tác động của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Trong một phương thức
sản xuất thì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, khi trình độ của lực
lượng sản xuất ngày càng cao thì tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng, nâng cao
năng suất lao động tạo nên nhiều lợi ích kinh tế hơn cho các chủ thể tham gia
vào hoạt động kinh tế -xã hội. Các quan hệ lợi ích kinh tế vì vậy càng có điều
kiện thống nhất với nhau. Vì vậy, lợi ích kinh tế chịu sự ảnh hưởng của lực
lượng sản xuất”.[1; tr129]
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội
Quan hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết
định vị trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các
hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những
quan hệ sản xuất và trao đổi, mà nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất và
trao đổi, là hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất và trao đổi
trong nền kinh tế thị trường.[1,tr129]
Thứ ba, chính sách thu nhập của Nhà nước
Chính sách phân phối thu nhập của Nhà nước có tác động tới thu nhập của
các chủ thể kinh tế. Bởi vì, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức
thu nhập như: tiền lương, tiền cơng, lợi nhuận, lợi tức, địa tơ, thuế, phí, lệ phí…
“Phân phối thu nhập là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, nó phụ thuộc
vào sản xuất xã hội, có sản xuất mới có phân phối và ngược lại. Phân phối thu
nhập là tiền đề để quyết định quy mô, cơ cấu phát triển của sản xuất và nó cũng
4


đảm bảo phân phối thu nhập quốc dân hợp lý giữa các chủ thể kinh tế tham gia
vào quá trình sản xuất, đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế. Ví dụ : Đảm bảo thu

nhập cho người lao động và lợi ích của doanh nghiệp.” [1;tr129]
Giảm khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Nếu khơng đảm bảo lợi ích kinh tế hài hịa trong xã hội thì sản xuất sẽ
khơng phát triển, đồng thời lợi ích kinh tế cũng giảm đi.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế
Trong điều kiện mở rộng hợp tác, giao lưu kinh tế với các nước khác,
phải quan tâm chú trọng khơng chỉ đến lợi ích kinh tế, mà cả lợi ích chính trị,
tư tưởng, văn hóa - xã hội. Bên cạnh đó, hàng hóa của các chủ thể kinh tế trong
nước cũng phải chịu sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoại được nhập khẩu.
Nhưng cũng có nhiều cơ hội để đưa hàng hóa của quốc gia tham gia vào thương
mại thế giới. Vì vậy, ảnh hưởng tới lợi ích của các chủ thể kinh tế có thể gia
tăng hoặc giảm sút. Vì vậy, địi hỏi các chủ thể kinh tế phải không ngừng đổi
mới, sáng tạo và phát triển để có được ưu thế trên thị trường và gia tăng các
quan hệ lợi ích kinh tế để có lợi cho sản xuất của mình.[1;tr130]
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch
sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên
con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên CNXH tồn tại nền kinh tế thị trường
là điều tất yếu khách quan. Đại hội lần thứ IX (2001) của Đảng đã khẳng định:
“mơ hình nền kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa)” [5]. Chỉ có phát triển nền kinh tế thị trường mới làm
5



cho đất nước phát triển năng động và nó phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất của nước ta.Với cơ chế nhiều thành phần, có sự tham gia của các
quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, cung -cầu…đã làm cho các chủ thể tham gia
trong nền kinh tế phát huy được hết khả năng, tính sáng tạo của mình để có thể
mang về nhiều lợi ích kinh tế nhất cho bản thân, gia đình, xã hội.
1.2.2.Quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam
“Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với
con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế , giữa các bộ
phận hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia
với phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong
mối liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.” [1; tr127]
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH nước ta còn tồn tại nhiều quan hệ sản
xuất, mà trước hết đó là quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế tham gia trong nền kinh tế nên hệ thống lợi ích kinh tế cũng
đa dạng. Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam tồn tại những quan hệ lợi ích
kinh tế như sau :
Lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động;
Lợi ích giữa những người sử dụng lao động;
Lợi ích giữa những người lao động;
Lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội.
Các quan hệ lợi ích kinh tế có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống
nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ chúng cùng tồn tại
trong một hệ thống, trong một nền kinh tế mà trong đó lợi ích kinh tế này là cơ
sở để cho lợi ích kinh tế khác. Chúng mẫu thuẫn với nhau thể hiện ở sự tách biệt
nhất định giữa các lợi ích kinh tế của chủ thể kinh tế này với chủ thể kinh tế
khác. Chính vì, lợi ích kinh tế khác nhau tạo nên những xung đột và mâu thuẫn
với nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động phát triển kinh tế -xã hội. Chính vì


6


vậy, Nhà nước có vai trị trong đảm bảo hài hịa các quan hệ lợi ích kinh tế.[1;
tr130]
1.3. Đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
1.3.1. Quan niệm về đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN Việt Nam hiện nay
“Hài hịa lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế
của các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế,
mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển theo cả chiều rộng
và chiều sâu từ đó tạo động lực để thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần
thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội”. [1;tr202] Để có
sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế thì chỉ dựa vào cơ chế thị trường thì chưa đủ
mà phải có sự can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ giáo dục, Hiến pháp,
pháp luật, chính sách,…nhằm gia tăng thu nhập cho người dân, thu hẹp khoảng
cách giàu nghèo trong xã hội, kịp thời xử lý khi có xung đột về lợi ích kinh tế.
1.3.2. Các nội dung đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Thứ nhất, tạo lập điều kiện gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế
Lợi ích kinh tế chính là lợi ích vật chất mà các chủ thể kinh tế nhận được
như : số lượng, chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà các chủ thể kinh tế nhận được.
Xét ở tầm vĩ mơ thì đó chính là sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Những điều kiện cần được tạo lập để gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế ở
Việt Nam hiện nay là :
+Phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường : Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam có nhiều tính ưu việt, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng từ
đó nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế.
+Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế

+Phát triển khoa học công nghệ
7


+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
thực sự vì lợi ích của nhân dân và đất nước.
+Hồn thiện thể chế chính trị, pháp luật phù hợp với thể chế kinh tế
+ Phát triển kinh tế hài hòa với phát triển an sinh xã hội và bảo vệ môi
trường.
Thứ hai, hạn chế mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể
Dưới sự tác động của cơ chế thị trường tạo nên sự chênh lệch trong mức
thu nhập, mức sống của người dân ngày càng lớn. Sự mất cân đối trong phát
triển kinh tế ở thành thị và nông thôn, điều này dễ dẫn tới nhiều mâu thuẫn,
xung đột lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Để hạn chế mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế thì Nhà nước cần có những giải
pháp đồng bộ, phù hợp để gia tăng thu nhập của người nghèo và phân phối thu
nhập hợp lý trong xã hội.
Thứ ba, xử lý hợp lý các xung đột do mâu thuẫn lợi ích kinh tế
Mẫu thuẫn lợi ích kinh tế là điều khơng thể tránh khỏi, tuy nhiên khi xuất
hiện xung đột do mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể thì cần được xử lý
nhanh chóng, kịp thời và hài hịa. Ngun tắc xử lý xung đột là :
+Nhanh chóng chấm dứt xung đột
+Đặt lợi ích đất nước lên trên hết
+Có sự nhân nhượng giữa các bên tham gia
Tiểu kết chương 1
Lợi ích kinh tế có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, đó chính là động lực để lực lượng sản xuất liên tục phát triển, sáng tạo và
nâng cao trình độ của mình. Ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế có nhiều nhân tố,
quan trọng nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách nhà nước,
mức độ hội nhập quốc tế...Các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế có mối

liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn bởi sự tách biệt nhất
định trong lợi ích kinh tế. Trong các lợi ích kinh tế thì lợi ích xã hội hay lợi ích
của quốc gia là cơ sở để các lợi ích kinh tế khác phát triển. Vì vậy, Nhà nước
8


đóng vai trị điều hịa mâu thuẫn giữa các lợi kinh tế tạo nên sự ổn định cho nền
kinh tế tất cả vì mục tiêu phát triển xã hội của đất nước.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO ĐẢM HÀI HÒA CÁC LỢI
ÍCH KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
2.1. Những kết quả đạt được
Từ khi đổi mới (1986) đến nay, vấn đề giải quyết quan hệ lợi ích giữa các
chủ thể, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội đã được Đảng, Nhà nước ta
quan tâm giải quyết, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, tạo động lực
cho sự phát triển của cá nhân và xã hội. Đã đạt được nhiều kết quả như sau:
Thứ nhất, môi trường phát triển kinh tế cho các chủ thể kinh tế ở Việt Nam
ngày càng có nhiều thuận lợi
Để đảm bảo hài hịa các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam thời gian qua, Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách,
pháp luật trong hồn thiện nền kinh tế thị trường, hạn chế mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế, xử lý hài hòa các xung đột do mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể.
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Nghị quyết Nhà nước đã đưa ra chiến lược xây dựng chính phủ số, chính
phủ điện tử để phục vụ tốt các nhu cầu hành chính của người dân và của các
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng quan tâm tới người lao động, đời sống của
nhân dân bằng các chính sách hỗ trợ. Trong đại dịch Covid 19 Nhà nước đã ban
hành Nghị định 68-NQ/CP hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch

Covid.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà
nước đã có những chính sách, thể chế, pháp luật để giữ vững ổn định chính trị,
xây dựng hệ thống pháp luật thơng thống để bảo vệ lợi ích chính đáng của các
chủ thể kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế -xã hội. Kết quả Việt Nam là
9


nước được đánh giá có mơi trường chính trị ổn định, có mơi trường thuận lợi thu
hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào đầu tư cho sự phát triển kinh tế. “Năm
2022, tổng vốn FDI đăng kí vào Việt Nam đạt gần 27,72 tỉ USD, mức vốn FDI
thực hiện đạt kỉ lục 22,4 tỉ USD, tăng 13,5% so với cùng kì năm 2021. Đây là số
vốn FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm (2017 - 2022). Tính lũy kế trong giai
đoạn 1986 - 2022, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỉ USD vốn FDI; trong
đó, 274 tỉ USD đã được giải ngân, chiếm 62,5% tổng vốn đầu tư đăng kí cịn
hiệu lực.” [6]
Thứ hai, lợi ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã hội ngày càng được hài
hòa và nâng cao
Nhà nước đã thực hiện các chính sách phân phối thu nhập nhằm đảm bảo
hài hịa các lợi ích kinh tế. “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (19960
của Đảng đã khẳng định: Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh doanh và
phân phối thông qua phúc lợi xã hội”. Điều đó tiếp tục được khẳng định tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lầnthứ X của Đảng.”[7]
Nhà nước cũng đã ban hành Luật thuế đối với các cá nhân, doanh nghiệp,
tập thể… có mức thu nhập cao để nộp vào ngân sách Nhà nước và phân phối lại
cho các đối tượng gặp khó khăn thơng qua các chính sách hỗ trợ, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm xã hội…và xây dựng phúc lợi xã hội góp phần phát triển đất
nước. Phát triển kinh tế vùng để xóa đói giảm nghèo, giảm sự chênh lệch giữa

thành thị và nơng thơn. Chính sách thứ hai kể đến đó chính là chính sách Tiền
lương tối thiểu để nhằm mục đích phân phối thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội.[4]
Vì vậy, nền kinh tế nước ta trải qua 35 năm đổi mới từ năm 1986-2021 đã
đạt được nhiều thành tựu vượt bậc. Quy mô nền kinh tế phát triển nhanh chóng,
đưa Việt Nam từ một nước nơng nghiệp nghèo nàn, lạc hậu đã trở thành quốc
gia đang phát triển với mức thu nhập trung bình thấp trong thời gian ngắn.
“Trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân
10


hàng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991-1995 GDP bình qn đã tăng gấp
đơi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai
đoạn 2016-2019 đạt mức bình quân 6,8%. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một
trong 16 nền kinh tế mới nổi thành cơng nhất” [8].
Vì vậy, đời sống người dân được cải thiện đáng kể, quyền và lợi ích chính
đáng của nhân dân được đảm bảo. Lợi ích của các giai tầng cụ thể, những đối
tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa,
biên giới hải đảo được quan tâm đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm, an sinh xã hội
và pháp luật xã hội được thực hiện tốt...
Thứ ba, quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội
được ngăn ngừa và kiểm soát tốt
Trong thời gian qua, Nhà nước tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trên
thị trường nhằm xử lý những vi phạm của cá nhân, tập thể, doanh nghiệp đảm
bảo lợi ích kinh tế của người sản xuất và người tiêu dùng cũng như các chủ thể
kinh tế khác. “Ban hành Luật chống hàng giả, hàng nhái… Luật dân sự, Luật
hình sự…” [4]
Đại hội XIII (2021) của Đảng đã nêu quan điểm : “ cùng với ngăn chặn,
đẩy lùi thì phải chủ động phịng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu

cực; bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thối về tư tưởng
chính trị và đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", "tiêu cực"sát hợp tình
hình mới.” [8]Vì vậy, mà sức mạnh lãnh đạo của Đảng không ngừng được gia
tăng, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong nhân dân.
Thứ ba, Nhà nước giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh
tế.
Nhà nước đã ban hành và hồn thiện Bộ Luật Lao động để đảm bảo lợi ích
chung của người sử dụng lao động và người lao động. Nếu xảy ra mâu thuẫn
khơng thể hịa giải thì Tịa án kinh tế là trọng tài để điều hịa lợi ích kinh tế của
11


các chủ thể kinh tế, đảm bảo sự công bằng. Đảng ta xác định: “Bảo đảm lợi ích,
sự kết hợp hài hịa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích cơng bằng, hợp
lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”[3]
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Những hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì vẫn cịn tồn tại những
hạn chế trong đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường
XHCN ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, về bảo vệ lợi ích hợp pháp,tạo môi trường thuận lợi cho hoạt
động của các chủ thể kinh tế : Trong nền kinh tế thị trường hoạt động theo cơ
chế thị trường và tuân thủ các quy luật thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế trong khâu quản lý, thể chế về pháp luật chưa được
đồng bộ. “ Trong hội nghị Trung ương 5 khóa XII của Đảng đã chỉ ra : “ trong
quản lý còn những hạn chế của cả Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp, thể
chế phát triển kinh tế thị trường còn nhiều bất cập…” Doanh nghiệp vi phạm
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn tồn tại.
Thứ hai, hạn chế về điều hịa lợi ích ích giữa cá nhân - doanh nghiệp - xã
hội. Trong nền kinh tế thị trường, vẫn còn tồn tại những hiện tượng lừa đảo, gian

lận,…diễn ra rất phổ biến làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp
sản xuất, của người tiêu dùng và điều này cũng làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế
của xã hội. Vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế biểu hiện phức tạp như : tình trạng
tham ơ, lãng phí, “ lợi ích nhóm”, …Vì vậy, lợi ích giữa các cá nhân, doanh
nghiệp, xã hội chưa được điều hịa hiệu quả. “Theo Báo cáo của Ban Nội chính
Trung ương, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến hết năm 2018 đã thi hành kỷ luật
hơn 500 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó 1.300 đảng viên
bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái(6); nhiều vụ án về tham ô, tham nhũng,
lãng phí thời gian qua đã được đưa ra xử lý như: các cá nhân tham nhũng trong
vụ việc MobiFone mua lại 95% cổ phần của AVG, vụ án liên quan đến Phan
Văn Anh Vũ, (tức Vũ “nhôm”), Dự án Xơ sợi Đình Vũ, Dự án Gang thép Thái
12


Nguyên... Cho đến những hiện tượng tham nhũng “vặt” cũng đang gây nhiều
bức xúc cho xã hội.”[9]
Gần đây nhất trong Đại dịch Covid 19 còn tồn tại những vụ án tham nhũng,
tiêu cực lớn gây bão trong dư luận như : Vụ đại án của Công ty Việt Á, “ chuyến
bay giải cứu”,…gây thất thoát ngân sách Nhà nước và chiếm đoạt tiền của nhân
dân với số tiền lên tới cả chục nghìn tỷ đồng.
Thứ ba, hạn chế trong Nhà nước giải quyết những mâu thuẫn trong quan
hệ lợi ích kinh tế. Việc giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
được Nhà nước ta chú trọng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế như chưa
giải quyết kịp thời những vụ việc, xung đột gây nên nhiều hậu quả đáng tiếc.
Các chính sách An sinh xã hội, phúc lợi xã hội, …ở nhiều nơi còn chưa được
thực hiện tốt, tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng.
Thứ tư, thách thức lớn của các doanh nghiệp là chất lượng nguồn nhân lực
còn thấp. Đội ngũ cán bộ còn thiếu kĩ năng và kiến thức quản trị. Một số doanh
nghiệp không ứng dụng khoa học – công nghệ vào trong nâng cao năng lực cạnh
tranh, đảm bảo lợi ích kinh tế của doanh nghiệp mình. Năng lực trong quản trị

doanh nghiệp cịn hạn chế dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thực sự
mang lại năng suất và hiệu quả cao.
Thứ năm, vẫn cịn tình trạng chủ thể cá nhân trong xã hội còn chưa thực sự
nhận thức được ý thức, trách nhiệm của mình đối với lợi ích kinh tế của bản
thân, gia đình và xã hội. Dẫn tới sự chênh lệch trong trình độ, kinh tế của mỗi
người trong xã hội.
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế còn tồn tại như trên là do những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, do Nhà nước chưa phát huy hết vai trị trong quản lý và điều hịa
lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế. Bên cạnh đó, thể chế của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN còn chưa thực sự hồn thiện trước sự phát triển
nhanh chóng của nền kinh tế thị trường. Dẫn tới môi trường cạnh tranh không
lành mạnh.
13


Thứ hai, một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên chưa hồn thành trách
nhiệm của mình trong phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Các vấn đề tiêu
cực, tham nhũng đang là vấn đề nhức nhối trong xã hội, đặc biệt trong hệ thống
chính trị của Đảng, Nhà nước. Làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của người dân,
của doanh nghiệp và của Nhà nước.
Thứ ba, do trình độ, năng lực của cán bộ Nhà nước cịn nhiều hạn chế trong
cơng tác giải quyết các tranh chấp về lợi ích kinh tế. Cũng như hạn chế trong rút
gọn thủ tục hành chính, bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, chưa thực sự hiệu
quả.
Thứ tư, các doanh nghiệp cịn thiếu sót trong cơng tác đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực. Đa số thiếu kiến thức kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và kỹ
năng quản trị kinh doanh. Chưa tìm hiểu và chấp hành tốt các chính sách pháp
luật của Nhà nước.
Thứ năm, các chủ thể cá nhân trong xã hội chưa thực sự nhận thức đầy đủ

về vai trị của mình trong sự phát triển của nền kinh tế. Dẫn tới khơng có nghị
lực, ý chí vươn lên trong cuộc sống, xây dựng vững chắc nền tài chính để đảm
bảo lợi ích của bản thân, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Tiểu kết chương 2
Để đảm bảo sự hài hịa lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam Nhà nước đã có nhiều chính sách, thể chế, pháp luật
để tạo môi trường thuận lợi cho các chủ thể kinh tế phát triển. Thực hiện hạn chế
tối đa các mâu thuẫn lợi ích kinh tế và xử lý kịp thời các mâu thuẫn lợi ích kinh
tế đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế -xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống cho nhân dân. Đồng thời vị thế của đất nước ngày càng được
nâng cao trên trường quốc tế. Bên cạnh những thành tựu thì cũng còn nhiều hạn
chế như sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng, một số thành phần lợi
dụng kẽ hở của pháp luật để gia tăng thu nhập bất hợp pháp như : hàng giả, hàng
nhái, buôn lậu… Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp còn hạn chế,

14


chưa thực sự tuân thủ pháp luật và hiểu biết về pháp luật. Vì vậy, cần có những
giải pháp phù hợp để đảm bảo lợi ích kinh tế trong thời gian tới ở nước ta.

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC LỢI ÍCH
KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thứ nhất, Nhà nước cần nâng cao vai trò quản lý của mình, tiếp tục hồn
thiện thể chế, pháp luật để đảm bảo mơi trường ổn định, hồn thiện chính sách
về phân phối thu nhập, chính sách tiền lương, an sinh xã hội… để đảm bảo hài
hịa lợi ích kinh tế. Cần nâng cao nhận thức của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Đặc biệt là trong việc giải quyết các quan hệ lợi ích. Để nâng cao nhận thức của
các chủ thể cần chú trọng công tác giáo dục và đào tạo, công tác tuyên truyền,…

Đặt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích nhóm và lợi
ích của xã hội. Mặt khác, lợi ích xã hội cũng cần đảm bảo, thực hiện tốt các chủ
trương, đường lối, chính sách để phát triển kinh tế -xã hội, thực hiện công bằng,
dân chủ để mang lại lợi ích thiết thực cho cá nhân.
Thứ hai, ngăn ngừa những quan hệ lợi ích tiêu cực đối với sự phát triển của
xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
vấn đề “ lợi ích nhóm” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc thì cần được
phát huy. Cịn nếu đó là lợi ích của một bộ phận các chủ thể kinh tế để đem lại
lợi ích cho cá nhân, nhóm đối tượng nào đó dẫn tới tạo nên sự mâu thuẫn, xung
đột giữa lợi ích nhóm với lợi ích xã hội. Điều này cần được ngăn ngừa và có
biện pháp xử lý bằng chính sách pháp luật. Tăng cường hoàn thiện hệ thống thể
chế và pháp luật trong nền kinh tế thị trường. Đẩy mạnh phòng chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước trong sạch,
vững mạnh thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
15


Thứ ba, chú trọng công tác bồi dưỡng cán bộ, bồi dưỡng nhân tài tham gia
vào bộ máy chính trị của Nhà nước. “Cán bộ” là gốc của cách mạng, bởi vậy
làm tốt cơng tác cán bộ thì mới có thể giải quyết được các vấn đề trong đảm bảo
được sự hài hịa lợi ích kinh tế. Trước những biến đổi nhanh chóng của nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đòi hỏi năng lực, phẩm chất của
người cán bộ phải ngày càng được nâng cao hơn nữa.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, quản trị tốt các tài nguyên của doanh nghiệp mình. Ứng dụng khoa học
cơng nghệ vào trong sản xuất kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình trên thị trường. Doanh nghiệp cần tuân thủ các quy định, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Tn thủ chính sách tiền lương, tiền cơng đối với người lao
động trong doanh nghiệp mình.
Thứ năm, Nhà nước cần khuyến khích cá nhân thực hiện lợi ích chính đáng

của mình, gia tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Mỗi cá nhân trong xã hội cần
nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Tích cực học tập, rèn luyện để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho bản thân
và thốt nghèo để đảm bảo lợi ích cho chính bản thân và góp phần phát triển đất
nước.

Tiểu kết chương 3
Trong cơ chế thị trường các chủ thể kinh tế có quan hệ vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn với nhau xuất phát từ quan hệ lợi ích. Sâu xa hơn là quan hệ giữa lợi
ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội. Vì vậy, Nhà nước đóng vai trị quan
trọng trong điều hịa lợi ích kinh tế của các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất.
Để làm được điều này cần có cơng cụ Pháp luật, chính sách, đường lối hoạt
động có hiệu quả. Nội dung chương 3 đã đưa ra một số giải pháp để đảm bảo hài
hịa các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam phù hợp với thực trạng đã đưa ra.

16


KẾT LUẬN
Lợi ích kinh tế có vai trị quan trọng đối với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, đó chính là động lực để lực lượng sản xuất liên tục phát triển, sáng tạo và
nâng cao trình độ của mình. Ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế có nhiều nhân tố,
quan trọng nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách nhà nước,
mức độ hội nhập quốc tế...Các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn bởi sự tách biệt nhất
định trong lợi ích kinh tế. Trong các lợi ích kinh tế thì lợi ích xã hội hay lợi ích
của quốc gia là cơ sở để các lợi ích kinh tế khác phát triển. Vì vậy, chăm lo, bảo
vệ đất nước là nghĩa vụ của mỗi công dân, của mọi chủ thể kinh tế và cả của
Nhà nước.

Nhà nước đóng vai trò điều hòa mâu thuẫn giữa các lợi kinh tế tạo nên sự
ổn định cho nền kinh tế bằng các biện pháp cụ thể như : hoàn thiện thể chế, pháp
luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, sử dụng chính sách phân phối thu nhập phù hợp, đảm
bảo cuộc sống của người dân được nâng cao, tăng cường công tác giáo dục, đào
tạo và tuyên truyền đối với nhận thức của nhân dân về mối quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội tất cả vì mục tiêu xây dựng đất nước ngày càng phát
triển phồn vinh, hạnh phúc.

17



×