Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận chính sách đối ngoại quan hệ giữa việt nam – lào trên một số lĩnh vực chính từ năm 2000 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.41 KB, 34 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM – LÀO TRÊN MỘT
SỐ LĨNH VỰC CHÍNH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1 GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ VIỆT NAM, LÀO VÀ MỐI
QUAN HỆ “ĐẶC BIỆT” CỦA HAI NƯỚC ................................................3
1.1. Việt Nam....................................................................................................3
1.2. Lào (Tên đầy đủ: Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào)................................6
1.3. Mối quan hệ “đặc biệt” của hai nước.......................................................11
Chương 2 HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM VÀ LÀO TRÊN MỘT SỐ
LĨNH VỰC CHÍNH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.........................................13
2.1. Trên lĩnh vực chính trị - đối ngoại...........................................................13
2.2. Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại – đầu tư............................................17
2.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội khác.........................................................19
2.4. Các hiệp định song phương giữa Việt Nam – Lào...................................23
Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG QUAN HỆ VỚI LÀO CỦA VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ MỚI..............................................................................24
3.1. Dấu ấn trong quan hệ chính trị.................................................................24
3.2. Quan hệ kinh tế khởi sắc..........................................................................26
KẾT LUẬN....................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm


có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai
dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ
truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người
cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh
đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đầy hy sinh, gian khổ vì độc
lập, tự do, hạnh phúc của hai dân tộc và nhân dân hai nước, đã trở thành quy
luật sống còn và sức mạnh kỳ diệu đưa tới nhiều thắng lợi vĩ đại của Việt
Nam và Lào trong đấu tranh giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ đất
nước, cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nhân dân hai
nước Việt Nam, Lào, quan hệ đặc biệt được coi là lẽ sống, là tình nghĩa ruột
thịt thân thiết, trước sau như một, dù gian nan nguy hiểm đến chừng nào cũng
không thể chia tách được.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội
nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành đã tạo ra những xung lực
mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan về gia tăng mối quan hệ đặc
biệt giữa Việt Nam - Lào; Lào - Việt Nam với những phương thức mới và
những nội dung mới.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các vấn đề các nổi bật trong mối quan hệ giữa Việt Nam và
1


Lào. Cung cấp sự bao quát về 2 đối tượng nghiên cứu này. Đồng thời đi sâu
vào sự hợp tác trên các lĩnh vực chính như chính trị - kinh tế - văn hóa – xã
hội, ngồi ra cịn đề cập đến các hợp tác về biên giới, quốc phòng, an ninh và
các chuyến thăm cấp Nhà nước giữa hai bên để hiểu rõ hơn về mối quan hệ

khăng khít này từ đầu thế kỉ XXI đến bây giờ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày các đặc thù của hai đối tượng nghiên cứu là Việt Nam và
Lào
- Tìm hiểu các hợp tác trên các lĩnh vực chính từ đầu năm 2000 đến nay
- Đánh giá, nhận xét về kết quả lâu dài của mối quan hệ này.
3. Kết cấu tiểu luận
- Ngoài các phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài
tiểu luận được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu khái quát về Việt Nam, Lào và mối quan hệ
“đặc biệt” của hai nước
Chương 2: Hợp tác giữa Việt Nam và Lào trên một số lĩnh vực
chính từ năm 2000 đến nay
Chương 3: Định hướng quan hệ với Lào của Việt Nam trong thời
kỳ mới

2


Chương 1
GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ VIỆT NAM, LÀO VÀ MỐI
QUAN HỆ “ĐẶC BIỆT” CỦA HAI NƯỚC
1.1. Việt Nam
Việt Nam tên chính thức là Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
quốc gia ở rìa phía đơng bán đảo Đơng Dương, gần trung tâm khu vực Đơng
Nam Á. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía
Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Đơng và Nam giáp Biển Đông. Thủ đô là
Hà Nội từ năm 1976, với Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất về
kinh tế và đông dân nhất. Ngày 5-9-1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết
lập quan hệ ngoại giao, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ hai

nước.
Cộng đồng người Việt Nam tại Lào tương đối đơng đảo với khoảng 3040.000 người và cịn đang tăng lên. Do vị trí địa lý gần gũi cũng như từng là
thuộc địa của Pháp nên Việt Nam và Lào đã có lịch sử di dân lâu đời qua lại
hai quốc gia. Vì lịch sử lâu dài nên cộng đồng này cũng cịn gọi là người Lào
gốc Việt.
Về chính trị, Việt Nam là một nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa, với
cơ chế có duy nhất một đảng chính trị lãnh đạo. Đảng Cộng sản đứng đầu bởi
Tổng Bí thư, là đảng duy nhất lãnh đạo trên chính trường Việt Nam, vẫn cam
kết với các nguyên tắc của Lênin "tập trung dân chủ" mà không cho phép đa
đảng. Quốc hội nhiệm kỳ 5 năm, đứng đầu là Chủ tịch Quốc hội, theo hiến
pháp là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Chủ tịch nước có các quyền
trong đó: Cơng bố hiến pháp, luật, pháp lệnh; Tổng Tư lệnh vũ trang; đề nghị
Quốc hội bầu, miễn nhiệm Thủ tướng, Chánh án tối cao, Kiểm sát tưởng tối
cao,...; thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chính phủ là cơ quan chấp
hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, gồm Thủ tướng, các Phó
Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Việc tổ chức
3


nhân sự chính phủ đều thơng qua Bộ Chính trị quản lý. Tòa án nhân dân tối
cao là cơ quan xét xử còn Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan giữ
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cao nhất Việt Nam. Ngồi ra,
Tịa án quân sự có thẩm quyền đặc biệt trong các vấn đề an ninh quốc gia.
Về kinh tế, Chính sách Đổi mới năm 1986 thiết lập mơ hình "Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Thành phần kinh tế được mở rộng
nhưng các ngành kinh tế then chốt vẫn dưới sự điều hành của Nhà nước. Tăng
trưởng GDP tăng lên từ 6% đến 7% giữa những năm 2000–2002 khi kinh tế
thế giới đang trì trệ. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, Việt Nam được phép gia
nhập WTO sau khi kết thúc đàm phán song phương với các nước có yêu cầu
và chính thức là thành viên thứ 150 ngày 11 tháng 1 năm 2007. Sau cải cách

kinh tế – xã hội, theo một số nghiên cứu, bất bình đẳng thu nhập đã gia tăng.
Năm 2013, tại một hội thảo ở Hà Nội, các chuyên gia nhận định nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm lại sau 5 năm gia nhập WTO. Cụ thể, trong giai
đoạn 2007–2011, chỉ năm 2008 là Việt Nam tăng trưởng GDP trên 8% dù
xuất khẩu tăng 2,4 lần lên 96,9 tỷ USD. Đa phần tỷ trọng xuất khẩu là do khối
doanh nghiệp FDI, chiếm khoảng 60% mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là nông
lâm sản, và khống sản thơ. Sau hội nhập, tỷ trọng nhập siêu cũng tăng, 18 tỷ
USD vào năm 2008. Ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế 2007–2008 và đến
năm 2013, nền kinh tế đối mặt với áp lực từ nợ xấu đến lạm phát, tín dụng
tăng trưởng thấp. Tình trạng tham nhũng ln xếp ở mức cao trên trung bình
của thế giới và vấn đề vốn, đào tạo lao động, đất đai, cải cách hành chính, cơ
sở hạ tầng, hàng chục ngàn thủ tục kinh doanh từ 20 năm trước đang tồn tại
được cho là không hợp với kinh tế thị trường. Theo thống kê năm 2015 của
Ngân hàng Thế giới thì PPP đầu người của Việt Nam năm 2014 là 5.294,4
USD, bằng 55,4% so với Indonesia, 37% so với Thái Lan và bằng 6,7% so
với Singapore. Năm 2018, Quy mô kinh tế Việt Nam đạt 301,7 tỷ USD. Thu
nhập bình quân đầu người đạt 3.120 USD/người
Về đối ngoại, theo các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X:
4


Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chủ trương đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa dạng, đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập
quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của
tất cả các nước phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển".. Hiện đã thiết lập
quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia (gồm 43 nước châu Á, 47 nước châu Âu,
14 nước châu Đại Dương, 30 nước châu Mỹ và 55 nước châu Phi). Việt Nam
cũng là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và quan hệ với hơn 650 tổ chức phi
chính phủ. Trong tổ chức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trị là ủy viên
ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU. Việt Nam

từng tổ chức các hội nghị cấp cao ASEAN (1998, 2010), ASEM (2004),
Thượng đỉnh APEC (2006, 2017), Cộng đồng Pháp ngữ (1997), Hội nghị
Thượng đỉnh Triều Tiên-Hoa Kỳ lần 2 (2019). Việt Nam cũng từng làm thành
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 20082009 và 2020-2021, thành viên của ECOSOC nhiệm kỳ 2016-2018, Chủ tịch
luân phiên ASEAN (2010, 2020).
Về giao thông, các tuyến giao thông nội địa chủ yếu từ đường bộ,
đường sắt, đường hàng không đều theo hướng bắc – nam. Hệ thống đường bộ
gồm các quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ... Có tổng chiều dài khoảng 222.000 km,
phần lớn các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ đều được trải nhựa và bê tơng
hóa, số ít các tuyến đường huyện lộ đang còn là các con đường đất. Hệ thống
đường sắt Việt Nam dài tổng 2652 km, trong đó tuyến Hà Nội – Thành phố
Hồ Chí Minh dài 1726 km được gọi là Đường sắt Bắc Nam.
Về khoa học, năm 2010, tổng chi tiêu của Nhà nước vào khoa học và
công nghệ chiếm khoảng 0,45% GDP. Theo UNESCO, Việt Nam đã dành
0,19% GDP để nghiên cứu và phát triển khoa học vào năm 2011. Chiến lược
tìm cách thúc đẩy hợp tác khoa học quốc tế lớn hơn, với kế hoạch thiết lập
mạng lưới các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài và khởi xướng một mạng
lưới kết nối các tổ chức khoa học quốc gia với các đối tác nước ngoài.
Về giáo dục, tỷ lệ ngân sách nhà nước dành cho giáo dục tăng từ
5


10,89% năm 2005 tăng lên đến 12,05% năm 2010 và 16,85% năm 2012.
Ở Việt Nam có 5 cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, đại học và sau đại học. Các trường đại học chủ yếu tập trung ở hai
thành phố lớn là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Theo kết quả đánh giá học sinh
quốc tế (PISA) của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) được công
bố năm 2013, điểm trung bình mơn Khoa học của học sinh Việt Nam ở độ
tuổi 15 năm 2012 đứng thứ 8 thế giới. Có ý kiến cho rằng kết quả này không
phản ánh đúng chất lượng giáo dục Việt Nam vì các trường phổ thông theo

chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho kỳ thi PISA
từ trước.
Về văn hóa, những vùng có những nét văn hóa đặc trưng tại Việt Nam.
Từ vùng đồng bằng sông Hồng với văn hóa làng xã và văn minh lúa nước,
đến những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại tây bắc và đông bắc. Từ
vùng biên viễn các triều đại miền Bắc đến nền văn hóa Chăm Pa của người
Chăm Nam Trung Bộ cùng vùng đất mới ở Nam Bộ kết hợp văn hóa các tộc
người Hoa, người Khmer và các bộ tộc Tây Nguyên.
Về tôn giáo, Việt Nam là một quốc gia đa tơn giáo và tín ngưỡng. Cộng
đồng các dân tộc có tín ngưỡng dân gian riêng. Phật giáo du nhập vào Việt
Nam từ những năm đầu Tây lịch cùng với Nho giáo và Đạo giáo. Được gọi
chung là tam giáo, ba tôn giáo ảnh hưởng nhiều nhất tới văn hóa Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam đa số thuộc Đại thừa và từng là quốc giáo thời Nhà Lý và
Nhà Trần. Các tư tưởng Nho giáo tới nay vẫn có vai trị trong trật tự xã hội
Việt Nam. Công giáo được truyền vào Việt Nam từ thế kỷ 16 và Tin Lành từ
đầu thế kỷ 20. Hồi giáo được truyền vào Chăm Pa, Nam Trung Bộ từ các
vương triều Hồi giáo ở Ấn Độ và Quần đảo Mã Lai. Bên cạnh các tôn giáo thế
giới, Việt Nam cịn có một số tơn giáo nội sinh như đạo Cao Đài và đạo Hịa
Hảo. Ngồi ra, có một lượng người tự nhận không tôn giáo.
1.2. Lào (Tên đầy đủ: Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào)
Thủ đơ: Viêng-chăn
6


Vị trí địa lý: Phía Bắc giáp Trung Quốc 416 km đường biên; Tây Bắc
giáp Mi-an-ma 230 km; Tây Nam giáp Thái Lan 1.730 km; Nam giáp
Campuchia 492 km và phía Đơng giáp Việt Nam 2.067 km đường biên.
Diện tích: 236.800 km 2
Dân số: 6.320.000 người (số liệu năm 2009).
Lào có 49 dân tộc, có những dân tộc gồm nhiều nhánh tộc và được chia

thành 04 nhóm ngơn ngữ: nhóm ngơn ngữ Lào-Thái, nhóm ngơn ngữ MonKhơ Me, nhóm ngơn ngữ Mơng-Dao, nhóm ngơn ngữ Hán-Tây Tạng
Tơn giáo: Đạo Phật chiếm 85%
Về thể chế chính trị, Lào đang trong giai đoạn xây dựng và phát triển
chế độ Dân chủ Nhân dân, tạo tiền đề để từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Từ Đại hội IV (1986) Đảng NDCM Lào đã đề ra đường lối đổi mới, cụ
thể hóa và bắt tay thực hiện. Đại hội V (1991) tiếp tục hoàn thiện đường lối
đổi mới với chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ Dân chủ nhân
dân, từng bước tiến tới mục tiêu XHCN. Đại hội VI (1996) tổng kết 5 bài học
kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn 10 năm lãnh đạo thực hiện đổi mới và đánh giá
đó là thành quả lịch sử quan trọng. Đại hội VII (2001) đã triển khai đường lối
đổi mới thành chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020; đề ra chỉ tiêu
phấn đấu khắc phục tình trạng đói nghèo, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng
chậm phát triển. Đại hội VIII (3/2006) tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến
lược là bảo vệ và xây dựng Tổ quốc và đường lối đổi mới để phát triển đất
nước vững chắc hơn, đưa Lào ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo tiền đề
vững chắc cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, hướng tới CNXH".
Về kinh tế - xã hội, Lào là nước nằm sâu trong lục địa, khơng có đường
thơng ra biển và chủ yếu là đồi núi trong đó 47% diện tích là rừng. Có một số
đồng bằng nhỏ ở vùng thung lũng sông Mê-công hoặc các phụ lưu như đồng
bằng Viêng-chăn, Chăm-pa-xắc...45 % dân số sống ở vùng núi. Lào có
800.000 ha đất canh tác nông nghiệp với 85% dân số sống bằng nghề nông.
Lào có nguồn tài ngun phong phú về lâm, nơng nghiệp, khoáng sản
7


và thuỷ điện. Nhìn chung kinh tế Lào tuy phát triển song chưa có cơ sở bảo
đảm ổn định.
Nền kinh tế trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ. Các mục tiêu
kinh tế-xã hội do các kỳ đại hội và các chương trình kế hoạch 5 năm được
triển khai thực hiện có hiệu quả. Lào đang nắm bắt thời cơ, đang tạo nên

những bước đột phá và đang có những tiền đề cho một thời kỳ tăng tốc. Tăng
trưởng GDP năm 2007 đạt 8%, năm 2008 đạt 7,9%. Thu nhập bình quân đầu
người tăng dần, năm 2000 đạt 298USD/người/năm; năm 2006 đạt
546USD/người/năm, năm 2007 đạt 678USD/người/năm, năm 2008 đạt
841USD/người/năm. Đến năm 2020, Lào phấn đấu đạt GDP bình quân đầu
người tăng gấp 2-3 lần hiện nay, khoảng 1.200-1.500 USD/năm.
Kinh tế đối ngoại: đến năm 2007, Lào có quan hệ thương mại với 60
nước, ký Hiệp định thương mại với 19 nước, 39 nước cho Lào hưởng quy chế
GSP. Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản và gỗ.
Về chính sách đối ngoại, CHDCND Lào chủ trương tiếp tục thực hiện
đường lối đối ngoại hịa bình, độc lập, hữu nghị và hợp tác; đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ; sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước
nhằm bảo đảm lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên; nhấn mạnh tiếp tục
củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác tồn diện với các nước
XHCN, trong đó tiếp tục tăng cường tình đồn kết đặc biệt và hợp tác toàn
diện với Việt Nam, hợp tác toàn diện với Trung Quốc và các nước anh em
khác, thắt chặt quan hệ hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới,
tích cực tham gia hoạt động trong ASEAN trên tinh thần giữ vững các nguyên
tắc cơ bản của ASEAN.
Thành tựu về Kinh tế - Xã hội, với chủ trương, khôi phục và phát triển
kinh tế, tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm và
hàng tiêu dùng; đồng thời tranh thủ viện trợ quốc tế, nhằm đáp ứng các yêu
cầu cần thiết của nhà nước và của nhân dân của Đảng NDCM Lào đề ra, nhân
dân các bộ tộc Lào đã phát huy hết tinh thần, trách nhiệm của mình, khai thác
8


mọi thế mạnh, tiềm năng sẵn có vào phát triển sản xuất, từng bước đưa đất
nước thốt khỏi tình trạng khó khăn sau chiến tranh và làm cho tình hình kinh
tế tài chính và đời sống nhân dân ổn định.

Trong năm tài khóa 2011-2012, Lào đã khắc phục những khó khăn như
lũ lụt, lạm phát trong nước cũng như những ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng
hoảng tài chính quốc tế… để thúc đẩy phát triển kinh tế, hoàn thành mọi chỉ
tiêu kinh tế. Trong năm tài khóa này, GDP của Lào tăng 8,3% so với cùng kỳ,
đạt 620.000 tỷ kíp (khoảng 7,74 tỷ USD) và GDP bình qn đầu người vào
khoảng 9,64 triệu kíp (1.203 USD).
Lào đã thực thi nhiều sách lược phát triển kinh tế: thu hút vốn đầu tư
nước ngoài; coi trọng xây dựng đặc khu kinh tế; thúc đẩy toàn diện 6 chiến
lược thương mại lớn gồm: ngoại thương, sản xuất sản phẩm và quản lý xuấtnhập khẩu, dịch vụ thương mại quá cảnh, phát triển thị trường và quản lý
hàng hóa, phát triển nguồn nhân lực và quản lý hành chính; tăng cường hợp
tác kinh tế khu vực; và tích cực phát triển cơng nghiệp gắn với bảo vệ môi
trường.
Nhằm tạo đột phá cho nền kinh tế, Lào không ngừng mở rộng việc hợp
tác giao lưu, thúc đẩy phát triển kinh tế với nhiều nước, đặc biệt là với Việt
Nam. Thương mại hai chiều giữa hai nước Việt - Lào cũng không ngừng tăng
cao với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 734 triệu USD trong năm 2011, tăng
50% so với năm 2010. Tính đến nay, Việt Nam là nước đầu tư lớn thứ 2 tại
Lào. Các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư vào Lào hơn 400 dự án quan
trọng với tổng vốn đầu tư khoảng 3,6 tỷ USD. Dự báo, đầu tư của doanh
nghiệp Việt Nam sẽ tăng 7 tỷ USD vào năm 2015, kim ngạch hai chiều đạt 23 tỷ USD vào năm 2015 và 5 tỷ USD vào năm 2020.
Đi đôi với phát triển kinh tế, Lào đã đẩy mạnh phát triển các hoạt động
xã hội, tạo ra sự hài hòa trong phát triển. Với chủ trương coi giáo dục là điểm
mấu chốt trong việc xây dựng xã hội Lào văn minh hiện đại, ngành giáo dục
Lào đã có bước tiến dài. Hệ thống giáo dục hằng năm đã đào tạo ra một số
9


lượng lớn cán bộ có chun mơn phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đặc biệt, để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngồi số tự đào tạo được, hằng năm

Lào còn gửi hàng ngàn học sinh, sinh viên ra nước ngoài học tập. Riêng với
Việt Nam, hợp tác giáo dục - đào tạo phát triển nguồn nhân lực được ưu tiên
và mở rộng với nhiều hình thức, được thực hiện từ trung ương tới các bộ,
ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp. Mỗi năm, Việt Nam tiếp nhận
khoảng 650 học sinh Lào và hiện có tới gần 5.000 du học sinh Lào đang học
tập tại Việt Nam. Nhờ đó, trình độ của cán bộ Lào không ngừng tăng lên. Nếu
năm 1995, số cán bộ có trình độ trên đại học của Lào chỉ có 0,45%, cao cấp
và đại học là 15,16%, khơng có tiến sĩ và phó tiến sĩ, thì chỉ trong vịng 11
năm (1995 - 2006), Lào đã có 275 tiến sĩ, 2.017 phó tiến sĩ; 13.833 thạc sĩ, đại
học; 14.905 cán bộ có trình độ lý luận chính trị cao cấp...
Thành tựu về quan hệ đối ngoại, một trong những yếu tố góp phần tạo
nên sự lớn mạnh Lào là do đã làm tốt cơng tác đối ngoại. Trong tình hình
mới, mặc dù hồn cảnh bên trong và bên ngồi có nhiều thay đổi, Đảng, Nhà
nước Lào vẫn xác định chính sách đối ngoại là: “... Tiếp tục duy trì quan hệ
ngoại giao và phát triển quan hệ thương mại bình thường với tất cả các nước,
khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội, trên cơ sở năm nguyên tắc cùng tồn
tại hịa bình; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của chính phủ và nhân dân các
nước có thiện ý muốn giúp đỡ Chính phủ và nhân dân Lào trong việc hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, khơng ngừng
cải thiện đời sống nhân dân Lào”.
Thực hiện chính sách đối ngoại này, Lào đã tranh thủ được sự đồng
tình, ủng hộ của nhiều nước trên thế giới, tranh thủ được vốn, kỹ thuật vào
phát triển đất nước, từ đó tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội. Lào
cũng đã góp phần tích cực vào các cơng việc của quốc tế và khu vực, đã tổ
chức thành công nhiều hội nghị quốc tế, tiêu biểu như: Hội nghị Bộ trưởng
khu vực sông Mê Công - sông Hằng về hợp tác du lịch (tháng 11-2000), Hội
10


nghị bàn tròn về tài trợ cho nước Lào lần thứ bảy (tháng 11-2000), Hội nghị

Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN - Liên minh châu Âu (tháng 12-2000)... Ngồi
ra, Lào cịn tham gia tích cực vào các tổ chức hợp tác khu vực như: ASEAN,
Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Tam giác phát triển Campuchia - Lào Việt Nam (CLVDT),... Tháng 11-2004, Nhà nước Lào đã có đóng góp quan
trọng vào thành công của Hội nghị cấp cao ASEAN-10 tổ chức tại thủ đô
Viêng Chăn với việc thông qua Chương trình hành động Viêng Chăn (VAP)
và Hiệp định khung ASEAN về 11 lĩnh vực ưu tiên cho hội nhập nhằm kiến
tạo Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) như một khu vực tự do thương mại vào
năm 2020.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, nhân dân và các Lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam tự hào có người bạn, người đồng chí, anh em Lào
ln kề vai sát cánh cùng Cách mạng Việt Nam trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh.
1.3. Mối quan hệ “đặc biệt” của hai nước
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bounnhang Vorachith nhấn mạnh
quan hệ Việt Nam-Lào là quan hệ đặc biệt của đặc biệt, có một khơng hai trên
thế giới, khơng sử sách nào có thể viết đủ về mối quan hệ đặc biệt Lào-Việt
Nam.
Quan hệ đặc biệt, gắn bó và tin cậy Việt Nam – Lào tiếp tục được củng
cố và có những bước phát triển tốt đẹp, ngày càng mở rộng và đi vào chiều
sâu và có hiệu quả, đặc biệt là quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu
tư...
Đánh giá cao những đóng góp to lớn của các cựu qn tình nguyện và
cựu chuyên gia Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và xây
dựng đất nước Lào, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Bounnhang Vorachith khẳng
định, mối quan hệ đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi giữa Việt Nam và Lào
và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Việt Nam đối với Lào là đặc biệt hiếm
có trên thế giới.
11



Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào nhấn mạnh tình hữu nghị Lào-Việt
Nam là khơng có gì lay chuyển được, bày tỏ tin tưởng rằng thế hệ trẻ hai nước
sẽ tiếp nối truyền thống của những thế hệ đi trước, tiếp tục gìn giữ và phát
huy mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai
nước Lào và Việt Nam.

12


Chương 2
HỢP TÁC GIỮA VIỆT NAM VÀ LÀO TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC
CHÍNH TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.1. Trên lĩnh vực chính trị - đối ngoại
Quan hệ chính trị, hiện nay, hai nước đang triển khai thực hiện Hiệp
định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật giữa hai nước năm 2009.
Hai bên tăng cường cơ chế tiếp xúc trao đổi thường xuyên giữa Lãnh đạo cấp
cao hai Đảng, hai Nhà nước để thống nhất và định hướng cho việc thúc đẩy
phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn
diện hai nước.
Hai bên đã trao đổi nhiều chuyến thăm cấp cao và các cấp ngành, địa
phương; đặc biệt là các chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của Tổng
Bí thư, Chủ tịch nước CHDCND Lào Chum-ma-ly Xay-nha-xỏn 1922/6/2006; chuyến thăm hữu nghị chính thức Lào của Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh 10-13/10/2006 đã mở ra thời kỳ mới cho quan hệ hai nước sau khi cả
hai nước kết thúc thắng lợi Đại hội Đảng ở mỗi nước. Tần suất các chuyến
thăm lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước từ sau Đại hội Đảng ở mỗi nước
năm 2006 đến nay ngày càng cao: tất cả các đồng chí lãnh đạo hai nước đã
sang thăm chính thức lẫn nhau. Gần đây nhất, chuyến thăm chính thức của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chum-ma-ly Xay-nha-xỏn 23-25/4/2009
càng khẳng định sự coi trọng của Lãnh đạo cấp cao Lào trong quan hệ đối
ngoại với Việt Nam.

Về biên giới, hai bên đang xúc tiến triển khai Dự án tăng dày và tôn tạo
mốc quốc giới trên toàn tuyến. Trên thực địa, hai bên đã phối hợp xây dựng
và khánh thành mốc đôi 605 tại cửa khẩu quốc tế Lao Bảo – Đen-xa-vẳn
(ngày 05/9/2008) và cột mốc đại số 528 tại cửa khẩu quốc tế Cha Lo – Naphàu (18/7/2009). Hai bên cũng đã phối hợp với Campuchia hoàn thành cắm
mốc tại ngã ba biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia (18/01/2008) và đã ký
13


Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới ba nước Việt Nam-LàoCampuchia (26/8/2008).
Hợp tác về an ninh, quốc phòng là lĩnh vực hợp tác chặt chẽ. Dự án về
hợp tác phát triển và ổn định vùng biên giới cũng như quản lý xuất nhập cảnh
hai nước tiếp tục được thực hiện. Trong những năm 2001 - 2010, hai bên đã
phối hợp thực hiện tốt Hiệp định về quy chế biên giới, kịp thời phát hiện và
giải quyết các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là phối hợp phòng chống vận chuyển
và mua bán ma túy qua biên giới, góp phần xây dựng biên giới hai nước là
đường biên giới hịa bình, hữu nghị và hợp tác phát triển.
Hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao Việt Nam và Lào được duy trì chặt
chẽ. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh đề nghị Bộ Ngoại giao hai
nước cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc đưa quan hệ Việt-Lào đi vào
chiều sâu thực chất trong bối cảnh tình tình hình thế giới và khu vực đang có
những chuyển biến sâu sắc và phức tạp, tác động không nhỏ đến mỗi nước;
tiếp tục phối hợp phục vụ tốt các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao. Bộ trưởng
Ngoại giao Saleumxay Kommasith nhất trí hai Bộ Ngoại giao cần phối hợp
chặt chẽ đẩy mạnh triển khai thực hiện hiệu quả các thỏa thuận cấp cao cũng
như các cơ chế hợp tác song phương quan trọng, trước mắt là Kỳ họp lần thứ
42 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam-Lào tháng 1/2020; tăng cường tham vấn
tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là trong khuôn khổ ASEAN và Liên
hợp quốc. Hai Bộ trưởng nhất trí đánh giá năm 2020 sẽ là năm bản lề quan
trọng đối với cả hai nước vì cả Việt Nam và Lào đều sẽ phải đảm nhiệm nhiều
vai trò quan trọng (Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường

trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong khi Lào là chủ nhà của nhiều cơ
chế tiểu vùng như CLV, CLMV, ACMECS…) đồng thời phải tích cực chuẩn
bị cho Đại hội Đảng tồn quốc tại mỗi nước vào năm 2021. Phó Thủ tướng,
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đề nghị trong thời gian tới cần nâng
cao hơn nữa chất lượng các cuộc Tham vấn; đa dạng hóa, đổi mới các hình
thức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị của hai Bộ Ngoại giao
14


phù hợp với tình hình mới. Bộ trưởng Saleumxay Kommasith đề nghị hai Bộ
Ngoại giao tăng cường trao đổi sâu, tham vấn tin cậy lẫn nhau và phối hợp
chặt chẽ cả về quan hệ song phương lẫn các vấn đề chiến lược khu vực nhằm
phục vụ công cuộc phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của hai nước; ký
mới Thỏa thuận hợp tác hai Bộ giai đoạn 2021-2026 tại Tham vấn Chính trị
năm sau. Hai Bộ trưởng cũng thơng báo cho nhau về chính sách đối ngoại của
mỗi nước, đồng thời chia sẻ quan điểm, đánh giá sâu rộng về các vấn đề khu
vực và quốc tế cùng quan tâm, trong đó có mơi trường chiến lược tại châu Á –
Thái Bình Dương, hợp tác trong ASEAN, phát triển tiểu vùng, vấn đề Biển
Đông. Hai bên đề cao việc tuân thủ luật pháp quốc tế, vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc khu vực; nhất trí tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại các
diễn đàn khu vực và quốc tế; chủ động và tích cực chia sẻ thông tin, trao đổi
quan điểm và phối hợp lập trường ở tất cả các kênh và các cấp, góp phần nâng
cao vị thế quốc tế của mỗi nước. Bộ trưởng Ngoại giao Saleumxay
Kommasith khẳng định Lào sẽ hỗ trợ hết sức mình khi Việt Nam đảm nhiệm
vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020-2021 cũng như vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020; khẳng định tiếp tục
hợp tác chặt chẽ tại các cơ chế hợp tác tiểu vùng Mekong như CLV, CLMV,
ACMECS...; ủng hộ lập trường chung của ASEAN về các vấn đề an ninh
chung của khu vực.
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam

Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân, Thủ tướng Chính phủ nước CHDCND Lào
Thongloun Sisoulith và phu nhân cùng Đồn đại biểu cấp cao Chính phủ nước
CHDCND Lào thăm chính thức nước CHXHCN Việt Nam từ ngày 13/10/2019.
Trong thời gian thăm, Thủ tướng Thongloun Sisoulith dự lễ đón chính
thức, hội đàm và chiêu đãi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc; chào xã giao
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; hội kiến Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Thị Kim Ngân; đặt vòng hoa tại Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đài
15


Tưởng niệm các Anh hùng Liệt sĩ; thăm làm việc một số cơ sở kinh tế, văn
hóa tại thành phố Đà Nẵng. Nhân dịp này, hai Thủ tướng Chính phủ đã chứng
kiến lễ ký và trao đổi 8 văn kiện hợp tác.
Trong đó, trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều biến
động, thách thức, hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng mang ý nghĩa sống còn
của quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt NamLào, cho đây là quy luật bất biến, là động lực tồn tại và phát triển của sự
nghiệp cách mạng mỗi nước, trong đó các thế hệ nối tiếp phải có trách nhiệm
cùng nhau gìn giữ, vun đắp để mối quan hệ đặc biệt thủy chung hiếm có này
vươn lên tầm cao mới và mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai dân tộc.
Trên cơ sở đó, hai bên nhất trí tiếp tục duy trì việc trao đổi đồn và tiếp
xúc cấp cao, các cấp, các kênh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, thực chất, chú
trọng việc chia sẻ tin cậy các kinh nghiệm và tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc; rà soát thường xuyên và tập trung triển khai hiệu quả các thỏa
thuận cấp cao đạt được, đặc biệt là kết quả chuyến thăm hữu nghị chính thức
Lào của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng (2/2019) và kết quả
kỳ họp Ủy ban liên Chính phủ lần thứ 41 (2/2019); kiện toàn, nâng cao hiệu
quả của tất cả các cơ chế hợp tác. Hai bên nhất trí tiếp tục khuyến khích các
bộ, ban, ngành, địa phương mở rộng quan hệ hợp tác trực tiếp, kịp thời hỗ trợ
nhau trong phát triển kinh tế-xã hội, giữ gìn an ninh, ổn định và trật tự, kịp
thời giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sở hữu nghị, đoàn kết.

Hai bên một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc
phịng, an ninh chặt chẽ, phấn đấu ln là chỗ dựa vững chắc cho nhau nhằm
đối phó với các thách thức an ninh, quốc phòng ngày càng đa dạng, phức tạp;
nhất trí phối hợp triển khai tốt các điều ước và thỏa thuận song phương về
biên giới, lãnh thổ. Hai bên nhất trí sớm tổ chức hội nghị tổng kết, đánh giá
hiệu quả việc thực hiện mơ hình kiểm tra “một cửa, một lần dừng” tại cặp cửa
khẩu quốc tế Lao Bảo (Việt Nam)-Densavan (Lào); đồng thời phối hợp tổ
chức hội nghị tổng kết đánh giá việc thực hiện Thỏa thuận giữa Chính phủ
16


CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Lào về việc giải quyết
vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước (ký
ngày 8/7/2013) vào cuối quý IV/2019. Hai bên nhất trí tiếp tục tạo thuận lợi
cho cộng đồng người Việt tại Lào và cộng đồng người Lào tại Việt Nam sinh
sống, làm việc, học tập phù hợp với quy định, pháp luật tại mỗi nước và thông
lệ quốc tế. Hai bên nhất trí phối hợp tổ chức thành cơng các hoạt động kỷ
niệm 70 năm Ngày truyền thống quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam
giúp Lào (30/10/1949-30/10/2019) để tri ân những hy sinh xương máu của thế
hệ trước và góp phần giáo dục các thế hệ sau về tình đồn kết đặc biệt keo sơn
giữa hai dân tộc.
2.2. Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại – đầu tư
Từ đầu những năm 2000, hợp tác về thương mại và đầu tư là một lĩnh
vực hợp tác được hai Đảng, hai Nhà nước đặc biệt quan tâm và cùng tạo điều
kiện 54 cho các doanh nghiệp của Lào đầu tư sang Việt Nam cũng như doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư sang Lào. Quan hệ đầu tư trực tiếp tuy chưa trở thành
lĩnh vực hợp tác lớn, nhưng đã có những ngành và doanh nghiệp có quan hệ
hợp tác và thu được những kết quả đầy triển vọng. Từ năm đầu những năm
2000, hoạt động hợp tác thương mại tiếp tục tăng, kim ngạch hai chiều từ 45
triệu USD/năm vào đầu những năm 1990 tăng lên 240 triệu USD vào năm

2006, đạt 422 triệu USD vào năm 2008 và 490 triệu USD vào năm 2010.
Quan hệ kinh tế, ngày càng khởi sắc và có hiệu quả hơn. Tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hai nước năm 2008 đạt 423 triệu USD, tăng 35% so với
năm 2007. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Lào 9 tháng đầu năm 2009
đạt 310 triệu USD. Hai bên phấn đấu đến năm 2010 đạt 1 tỷ USD, năm 2015
đạt 2 tỷ, năm 2020 đạt 5 tỷ. Tháng 01/2009, hai bên đã ký Bản thoả thuận về
ưu đãi thuế suất thuế nhập khẩu Việt-Lào năm 2009; tiếp tục thực hiện miễn
giảm thuế từ 0-50% đối với mặt hàng có xuất xứ của hai nước. Hoạt động
đầu tư diễn ra sôi nổi, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm tới thị
trường Lào. Doanh nghịêp Việt Nam tiếp tục được duy trì ở một trong 3 vị trí
17


dẫn đầu về đầu tư tại Lào. Tính đến cuối tháng 9 năm 2009, Chính phủ Lào đã
cấp phép 190 dự án với số vốn cấp phép là 2.167 triệu USD. Đầu tư của Việt
Nam tại Lào thông qua nhiều loại hình hoạt động, ở nhiều lĩnh vực khác nhau,
trong đó đầu tư vào mỏ, năng lượng và nơng nghiệp chiếm khoảng 75%.
Tóm lại, từ năm 2001 đến 2005 có 18 dự án, chiếm 52,9% số dự án đầu
tư vào Lào từ trước đến lúc này. Năm 2006, hai bên đã cấp phép cho 52 dự án
đầu tư vào Lào với số vốn đăng ký đạt 368,6 triệu USD. Năm 2007, phía Việt
Nam có 87 dự án được cấp phép đầu tư vào Lào với tổng số vốn đăng ký là
1.020 triệu USD, xếp thứ ba trong tổng số 30 nước và vùng lãnh thổ đầu tư
vào Lào. Hội doanh nghiệp Việt Nam hợp tác và đầu tư tại Lào ra đời vào
năm 2010.
Về phía Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ
trợ, khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Lào.
Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế,
văn hóa, khoa học-cơng nghệ trên cơ sở phát huy thế mạnh và tiềm lực của
mỗi nước; thúc đẩy triển khai các biên bản thỏa thuận và thỏa thuận giữa lãnh
đạo cấp cao, văn kiện, kế hoạch hợp tác giữa hai Chính phủ; quan tâm tổ chức

thực hiện và có biện pháp đảm bảo tiến độ và chất lượng các dự án đầu tư của
Việt Nam tại Lào cũng như của Lào tại Việt Nam và các dự án hợp tác song
phương khác, đặc biệt là thực hiện Biên bản Thỏa thuận giữa Chính phủ Lào
và Chính phủ Việt Nam về hợp tác phát triển các dự án thủy điện tại Lào, việc
kết nối đường truyền tải điện, mua bán điện ký ngày 5/10/2016.
Hai bên đánh giá cao các tiến triển tích cực trong hợp tác thương mại
song phương thời gian qua; nhất trí cùng nỗ lực thúc đẩy, mở rộng và nâng
cao hiệu quả hợp tác, phấn đấu đưa kim ngạch thương mại tăng trưởng ổn
định theo kế hoạch đề ra từ 10-15%/năm; mở rộng và đa dạng hóa các hoạt
động xúc tiến thương mại; thúc đẩy xây dựng và ký Bản ghi nhớ/Thỏa thuận
về phát triển và kết nối hạ tầng thương mại biên giới. Thủ tướng Thongloun
Sisoulith nhất trí sớm tổ chức hội nghị đối thoại doanh nghiệp lần hai với
18



×