Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

(Tiểu luận) tiểu luận môn học tôn giáo các nước đông nam á đề tài phật giáo thái lan và những ảnh hưởng của nó đến đời sống, văn hoá thái lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.55 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA XÃ HỘI HỌC – CƠNG TÁC XÃ HỘI – ĐÔNG NAM Á HỌC

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: TÔN GIÁO CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
ĐỀ TÀI: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN

ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ THÁI LAN
SINH VIÊN

MSSV

NGUYỄN ĐẶNG QUỲNH ANH

2155013002

LÊ KHẮC ĐỊNH

2155013019

NGUYỄN NGUYÊN HẠ

2155013022

NGUYỄN THỊ KIM OANH

2155013062

LỚP: DH21SA01
GVHD: TS. ĐÀNG NĂNG HÒA



HỒ CHÍ MINH, NGÀY 07 THÁNG 08 NĂM 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 4
2. Lịch sử nghiên cứu................................................................................................... 4
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
4.1 Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 4
4.2 Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 5
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu............................................................ 5
5.1 Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 5
5.2 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
6. Bố cục của bài tiểu luận .......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO ................................................................ 7
1.1 Nguồn gốc của Phật Giáo..................................................................................... 7
1.2 Những giáo lý cơ bản của Phật giáo ................................................................... 7
1.3 Các hệ phái của Phật giáo.................................................................................... 8
1.3.1 Nguồn gốc hình thành Hai tông phái Phật Giáo ......................................... 8
1.3.2 Hai tông phái Phật giáo có trong cả Nam tơng và Bắc tơng ...................... 9
1.3.3 Hai tông phái Phật giáo Nam tông ............................................................... 9
1.3.4 Sáu tơng phái Phật giáo Bắc tơng .............................................................. 10
1.4

Q trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở một số nước Đông Nam Á
12

1.4.1 Campuchia ................................................................................................... 12

1.4.2 Lào ................................................................................................................ 13
1.4.3 Việt Nam ....................................................................................................... 13
1.4.3.1 Lịch sử ....................................................................................................... 13
1.4.3.2 Đặc điểm .................................................................................................... 14
CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN
ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN ............................................................................................... 16
1.1

Tổng quan về đất nước Thái Lan ..................................................................... 16

1.2

Phật giáo tại Thái Lan ....................................................................................... 16


1.3

Phật giáo qua 4 thời kỳ..................................................................................... 17

1.3.1

Thời Kỳ Sukhothai..................................................................................... 17

1.3.2

Thời kỳ Ayutthaya..................................................................................... 18

1.3.3

Thời kỳ Thonburi....................................................................................... 18


1.3.4

Thời Kỳ Rattanakosin................................................................................ 18

1.4 Những ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa - xã hội và tinh thần
của người dân Thái Lan............................................................................................. 19
1.4.1

Kinh tế......................................................................................................... 19

1.4.2

Giáo dục...................................................................................................... 20

1.4.3

Chính trị...................................................................................................... 20

1.4.4

Văn hóa – Xã hội........................................................................................ 21

1.4.5

Kiến trúc chùa, chiền................................................................................. 23

TỔNG KẾT.................................................................................................................... 25
NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 26



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Thái Lan là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á lục địa, từ lâu Thái Lan đã

được biết đến với những tên gọi khác như “Vùng đất tự do", "Quê hương của nụ cười",
"Đất nước của những chiếc áo cà sa". Tên gọi cuối cùng này đã mô tả một cách sâu sắc
về một tôn giáo lớn của quốc gia. Tại Thái Lan, Phật giáo được coi như tôn giáo quốc
gia, gắn chặt đến mọi mặt trong đời sống hàng ngày và ở tất cả các tầng lớp xã hội. Ngoài
ra, ở “xứ sở chùa Vàng”, Phật giáo đóng vai trị đóng vai trị quan trọng trong đời sống
văn hóa xã hội và hướng con người đến những điều tốt lành, tích cơng đức về sau và
tránh xa những điều ác để con người có thể được tìm được sự thanh thản trong tâm hồn.
Chính vì thế, giáo lý và giáo luật như là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của nhà nước,
các tổ chức Phật giáo trải qua nhiều thế kỷ, vẫn đóng một vai trị rất quan trọng trong đời
sống người dân. Tìm hiểu về nguồn gốc cũng như sự hình thành và phát triển của Phật
giáo của Thái Lan là lý do chính để nhóm chúng em chọn đề tài này. Đồng thời là những
ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa - xã hội của người dân Thái Lan.
2.

Lịch sử nghiên cứu
Lịch sử Thái Lan được chia thành 4 thời kỳ qua các triều đại: Sukhothai,

Ayutthaya, Thonburi và Rattanakosin (Bangkok). Đặc biệt, Phật giáo hình thành và phát
triển ở Thái Lan từ thời kỳ đầu của triều đại Sukhothai (1237-1456). Phật giáo tại đất
nước Thái Lan cũng như những ảnh hưởng của Phật giáo đến những giá trị văn hóa, đời
sống tinh thần và đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực của quốc gia, đã được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, tiêu biểu như:
-


Cuốn sách “Phật giáo ở Thái Lan” của TS. Nguyễn Thị Quế

3.

Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo tại đất nước Thái Lan và

những tác động của nó đối với đời sống xã hội của người dân hiện nay.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Phật giáo tại Thái Lan mà trong đó, trọng tâm
của bài nghiên cứu là sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở đất nước Thái Lan;
đồng thời là những ảnh hưởng của Phật giáo đối với từng khía cạnh quan trọng trong sự
phát triển của quốc gia.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu đề tài của tiểu luận là Phật giáo ở Thái Lan.
Phạm vi thời gian của đề tài là từ khi Phật giáo được truyền vào Thái Lan từ thế kỉ
XIII cho đến ngày nay.
Phạm vi chủ thể của đề tài chỉ nghiên cứu về Phật giáo tại đất nước Thái Lan.
5.

Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Theo Nguyễn Thành Trung (2019), những tiếp nhận về Phật giáo chỉ ở mức độ hữu


hình, chỉ là hiện tượng và chưa có nhu cầu đặt ra vấn đề lý luận về tiếp nhận Phật giáo khiến
các nghiên cứu chưa có mối liên kết chỉnh thể và hướng phát triển chung xứng tầm.

5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đối với đề tài này là phương pháp phân tích và tổng hợp:
Sử dụng và tham khảo các thơng tin có trong tài liệu để từ đó tổng hợp những thơng tin
cần thiết để phục vụ cho bài nghiên cứu.
Phương pháp tiếp cận liên ngành: Sử dụng tri thức của của ngành liên quan như Sử học;
Chính trị học; Xã hội học.
6.

Bố cục của bài tiểu luận
Bài tiểu luận gồm có 2 chương chính, khơng bao gồm phần mở đầu, mục lục và

nguồn tài liệu tham khảo:
Chương 1: Khái quát về Phật Giáo
Chương 2: Phật Giáo Thái Lan và những ảnh hưởng của nó đến đời sống người dân.



CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1 Nguồn gốc của Phật Giáo
Phật giáo được thành lập vào cuối thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên bởi vị Thái tử Tất đạt - đa Cồ - Đàm (Siddhartha Gautama), sau là đức Phật. Là một tôn giáo quan trọng

ở hầu hết các quốc gia châu Á, thời gian mà Phật giáo ra đời là vào khoảng 2.600 năm tại
Ấn Độ. Câu chuyện xuất phát từ một vị thái tử có tên Tất - đạt - đa Cồ - Đàm (Siddhartha
Gautama), cha của Ngài là đức vua Tịnh Phạn (Sodhaddana) của tiểu quốc Thích-ca, ở
vương thành Ca-tỳ-la-vệ và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma-da (Siri Mahamaya). Vào một
đêm trăng khi đang ngủ thì hồng hậu đã mơ thấy một con voi trắng sáu ngà từ cung trời
Đâu-suất* đến dâng hoa sen trắng, sau giấc mơ đó bà đã thọ thai sau nhiều năm chờ đợi.

Theo phong tục thì hồng hậu sẽ quay về quê nhà để thọ sinh thái tử, trên đường đi bà đã
dừng chân tại vườn Lâm-tỳ-ni, hoàng hậu đến dưới gốc cây Vơ-ưu ngắm nhìn những bơng
hoa Sa-la đang nở, đưa tay nắm lấy thì bỗng nhiên bà chuyển dạ và hạ sinh Thái tử, bảy ngày
sau khi hạ sinh Thái tử thì bà qua đời với niềm hạnh phúc vì tâm nguyện đã hồn thành. Sau
khi hồng hậu qua đời thì người em gái của bà là hồng hậu Ma-ha-ba-xà-ba-đề thay chị
mình ni dưỡng Thái tử, sống trong cuộc sống được yêu chiều và đầy đủ sung túc, vàng bạc
châu báu, đến tuổi trưởng thành thì Người kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (con gái của
Đức vua Thiện Giác), sau đó hạ sinh hồng tử La-hầu-la. Trong một chuyến du ngoạn qua
bốn cửa thành, Thái tử đã bắt gặp những hồn cảnh sống khổ sở, nghèo đói của nhiều người
dân, đến khi Người gặp một vị tu sĩ với tướng mạo khoan thai đang bước trên đường và nghe
ơng ấy nói: “Xuất gia tu hành là việc cao cả nhất để thốt khỏi vịng ln hồi sinh-lão-bệnhtử”. Khi đó Thái tử như đã ngộ ra chân lý của cuộc đời mình và ấp

ủ chí nguyện xuất gia để tìm đường giải thốt. Cho đến năm 29 tuổi, Ngài đã từ bỏ cuộc
sống giàu sang, phú quý, tự mình xuất gia đi tìm con đường cứu khổ cho chúng sinh,
khám phá triết lý sống của cuộc đời. Từ lúc đó, Ngài đã dành tất cả cơng sức, thời gian
của mình đi trải nghiệm, chu du cảm nhận cuộc sống đau khổ của nhân gian, từ đó trở
thành tiền đề cho sự hình thành và phát triển của Phật giáo đến ngày nay.
1.2 Những giáo lý cơ bản của Phật giáo


Giáo lý cơ bản của Phật giáo mà Ngài đã chứng ngộ lúc đắc đạo là Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu Đế có nghĩa là bốn sự thật chắc chắn, quý báu, nội dung của giáo lý này gồm:
Khổ đế: Khổ đế tiếng phạn là Dukkha, Dukkha có nghĩa là khó chịu đựng, khó kham
nhẫn, là đau khổ. Trung hoa dịch là khổ, nghĩa rộng là những cái gì làm cho mình khó
chịu, đau đớn… .Chân lý này cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính khổ não, khơng
trọn vẹn, đức Phật cũng chỉ ra 8 điều khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ (xa cách
người thân yêu), cầu bất đắc khổ (mong cầu nhưng khơng được), ốn tắng hội khổ (gặp
phải những người mà bản thân không thích), ngũ ấm thạnh khổ (khổ về thân-tâm, ln bị
thân và tâm ràng buộc)
Tập đế: là sự thật đúng đắn, vững chắc về nguyên nhân của những nỗi khổ đã chứa

nhóm, tích trữ lâu đời, ngun nhân của sự khổ thường xuất phát từ lòng tham lam
(tham), sự giận dữ (sân), si mê (si),... . Các loại ham muốn này gốc của luân hồi.
Diệt đế: là sự thật đúng đắn, đức Phật đã thuyết minh về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi
người đều có thể đạt được, sau khi đã diệt trừ hết thảy phiền não, mê mờ. Bởi phiền não,
mê mờ là nguyên nhân của khổ đau.
Đạo đế: là những phương pháp tu hành đúng đắn để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý
chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới niết bàn. Nói một cách khác, đó là những
phương pháp tu hành để diệt trừ khổ đau, đạt được sự giải thoát và an lạc. Do tính chất đó
mà trong Tứ diệu đế, đạo đế là quan trọng nhất.
1.3 Các hệ phái của Phật giáo
Trong Phật giáo có hai tơng phái lớn là: Phật giáo Nam tông (phái Tiểu Thừa) và :
Phật giáo Bắc tông (phái Đại Thừa). Cả hai bên tuy phân biệt ra như thế nhưng vẫn theo
tôn chỉ của Đức Phật. Phật giáo Bắc tơng thì theo tinh thần Phật dạy mà tiến hóa hợp với
thời đại. Phật giáo Nam tơng thì một mực bảo vệ và duy trì lời Phật trong các kinh chứ
khơng thay đổi.
1.3.1 Nguồn gốc hình thành Hai tông phái Phật Giáo
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một trăm ngày, có 500 vị Thượng toạ trưởng lão
(Sthavira) tổ chức cuộc kết tập lần đầu trong hang Sattapanni rừng nigrodha cử Tôn giả
Ma Ha Ca Diếp làm Thủ tọa, ngài A Nan trùng tuyên những lời Phật dạy làm thành tạnh


kinh, cử Ngài Ưu Ba Li đọc lại các điều răn của Phật để kết tập Luật tạng, tôn giả đại Ca
Diếp đứng đầu coi việc giải thích đạo lý trong Kinh, làm thành bộ Luận tạng. Gọi chung
là Tam Tạng (Tripitaka).
-Một trăm năm sau, trong giáo đồn có sự tranh luận về cách giữ giới luật và cách
hành đạo. Các vị trưởng lão Thượng tọa triệu tập cuộc kết tập lần thứ hai ở thành Xá Vệ,
đề cử Thượng tọa Yaca làm Thủ tọa. Kết quả phái Thượng toạ trưởng lão vẫn giữ phương
thức bảo thủ, phái đại chúng giữ phương thức Tiến Thủ. Nhưng cả hai không rời tơn chỉ
của Đức Phật.
1.3.2 Hai tơng phái Phật giáo có trong cả Nam tơng và Bắc tơng

Luật tơng:


Tơng phái Phật giáo này lấy giới luật làm căn bản. Đến đời Đường, Ngài Trí Thủ luận
sư chú giải những bộ luật (Thập tụng luật, Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Tăng kỷ luật)
và đệ tử của Ngài, Đạo Tuyên luận sư nhận thấy có 68 bộ Luật tứ phần hợp với căn
cơ của người Trung Hoa nên đã căn cứ vào bộ luật này mà lập “Luật tơng”. Luật tơng



chủ trương lấy tu rồi sẽ hiểu, hãy giữ giới cho nghiêm tịnh thì tâm sẽ định tĩnh thanh
tịnh và trí tuệ sẽ phát sinh, chân tâm sẽ hiển bày, Phật tánh sẽ hiển lộ.



Chủ trương của Luật tơng là giữ giới luật một cách nghiêm ngặt. Những quy luật
này bao gồm 250 quy định cho tăng và 348 cho ni giới. Thiền Tơng:



Tơng phái Phật giáo này ngun thuỷ thuộc về Không Bộ bên Tiểu Thừa. Thiền

Tông không bàn luận về vũ trụ, căn bản là ngộ đạo mà thôi (giải thốt), là một tơng phái
lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành.


Thiền Tơng chủ trương “bất lập văn tự”, chỉ cốt “tâm truyền tâm”, thực tướng của

vũ trụ thuộc về trực giác. Nếu lấy văn tự mà giải thích thì tất cả sa vào hiện tượng
giới, khơng thể đạt tới thực tướng được. Phi tọa thiền và trực giác thì khơng sao

biết được thực tướng.
1.3.3 Hai tơng phái Phật giáo Nam tông
- Câu Xá Tông:


Do ngài Thế Thân Bồ Tát lấy ý nghĩa trong kinh Đại Tỳ Bà Sa (Mahavibhasa



Castra) viết thành bộ Câu Xá Luận, được Ngài Trần Châu dịch rồi truyền sang Trung Hoa
rất sớm nhưng sau đó thất truyền. Đến khi Ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du thỉnh
kinh mới đem về dịch lại bộ luật này, rồi đệ tử Ngài là Phổ Quang dựa vào mà làm nên
“Câu Xá thuật ký” và Ngài Pháp Bảo làm bộ “Câu Xá luận sớ” thì Câu xá mới thành một
tơng phái là Tơng Câu Xá nhưng chỉ thịnh hành đến cuối thế kỷ thứ IX thì suy vong và
nhường chỗ cho các tơng phái Đại thừa.
Câu Xá Tông chia vạn vật ra thành Vô Vi Pháp và Hữu Vi Pháp. Vô Vi Pháp chỉ



về cảnh giới trừu tượng vơ thường khơng sinh khơng diệt, tức là lý thể. Hữu Vi Pháp chỉ
về vạn vật trong thế giới hiện tượng có sinh có diệt.
- Thành Thực Tông:
Tông này đồng thời với Câu Xá Tông, do ngài Ha Lê Bạt Ma (Harivarman) y vào



ý nghĩa Bộ Thành Thật Luận mà lập ra vào khoảng 900 năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Thành Thực Tông chia thế giới quan ra làm hai môn : Thế giới mơn và đệ nhất




nghĩa mơn.
1.3.4 Sáu tơng phái Phật giáo Bắc tơng
- Pháp Tướng tơng:


Tơng này lấy Thành Duy Thức Luận làm gốc, tại Ấn độ do Ngài Thế Thân phát
triển và tại Trung Hoa do Ngài Huyền Trang truyền bá sau chuyến Tây du thỉnh
kinh trở về.



Chủ trương vạn Pháp đều do thức biến ra. (Tam giới duy tâm, vạn Pháp duy thức)
Thức có 8: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Mạt
Na Thức. Trong 8 thức thì A Lại Gia Thức là căn bản, vì chứa hết thảy Chủng Tử
để sinh khởi nhất thiết chư Pháp.
- Tam Luận Tơng:



Về phương diện đạo lý, Tam Luận tông giống như cửa ải muốn tiến bước trên con

đường giải thốt phải bng bỏ “Chấp trước”, nếu khơng muốn bị phát hiện món hàng
quốc cấm đó khi qua ải.




Tông phái Phật giáo này khởi phát ở Trung Hoa, do ngài Huệ Văn Thiền Sư đời


Trần và đời Tuỳ (vào khoảng thế kỷ thứ 6) theo ý nghĩa bộ Trí Độ Luận tức là Bát Nhã
Ba La Mật Đa luận và lấy Pháp Hoa Kinh làm gốc, nên còn gọi là Pháp Hoa
Tông.
-

Thiên thai: Chủ trương của tông phái Thiên Thai này là xem mọi vật đều bình đẳng,

mọi vật đều liên hệ lẫn nhau. Tất cả mọi pháp đều trống rỗng, hai mặt của Khơng đó là tĩnh
(lý) và động (sự) đều cùng lúc tồn tại, xuyên suốt vào nhau, không ngăn ngại; mỗi

hiện tượng đều đồng nhất với hiện tượng khác.


Hoa Nghiêm Tơng (hay Hiền Thủ tơng):
Tơng phái Phật giáo này cũng phát khởi ở Trung Hoa căn cứ ở Hoa Nghiêm Kinh

do Đỗ Thuận và Trí Nghiêm Hoà Thượng ở đời Tuỳ và Đường lập ra, người có cơng kế
thừa và xiển dương là là Ngài Pháp tạng cịn gọi là Hiền Thủ.


Tơng này theo chủ trương “Pháp giới duyên khởi” Vạn hữu có tam đối lục tướng

là do thập huyền môn, thập huyền diệu, lý duyên khởi và lục tướng viên dung mà phát
sinh lý “Sự sự vô ngại”. Đây là cái đặc sắc của giáo lý Hoa Nghiêm Tơng.


Theo Tơng này thì phân biệt chân vọng dứt trừ điên đảo. Để tâm thanh tịnh cùng

thực tại Nhất Như là giải thốt.



Mật tơng (hay Chân Ngôn Tông):
Mật Tông là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ

giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ. Mật Tông lại
chia thành hai phái: Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và Kim cương thừa

(Vajrana).


Tơng phái Mật Tơng căn cứ ở Đại Nhật Kinh, lấy bí mật Chân Ngơn làm Tơng

chỉ, nên cũng gọi là Mật Tông. Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Tát Đỏa, Kim
Cương Tát Đỏa truyền cho Long Trí, Long Trí truyền cho Kim Cương trí, Kim Cương
Trí cùng với Bất Không đem qua trung Hoa vào khoảng đời Đường. Chân Ngôn Tông
chủ trương thuyết Lục đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Cho lục đại là thực của
vũ trụ.


-

Tịnh Độ Tông: Tông phái Tịnh Độ lấy việc quy y tịnh độ làm mục đích, chun

trì tụng các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà. Tịnh Độ Tông phát khởi
từ đời nào không rõ, chỉ thấy trong kinh điển ghi các vị Bồ Tát Long Thọ, Mã Minh, Thế
Thân khuyên mọi người nên tu Tịnh Độ. Tịnh Độ Tông cho rằng mỗi người ai cũng có
Phật tính, đều có thể thành Phật, vì ở thế gian phiền não nên cầu về cõi Cực Lạc Tây
Phương. Vì tự lực khó đạt nên cầu tha lực Đức Phật A Di Đà. Ngày nay Tịnh độ tông là
tông phái Phật giáo phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
1.4 Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở một số nước Đông Nam Á

1.4.1 Campuchia
Tại Campuchia, Phật giáo đã xuất hiện vào thế kỷ IV, ngày nay có hơn 95% dân
số Campuchia theo Phật giáo (Nam tông). Trong Hiến pháp năm 1953, Phật giáo cũng
được chọn làm quốc giáo cho Campuchia. Phật giáo truyền vào Campuchia thông qua hai
con đường là: các thương nhân theo Ấn Độ giáo truyền vào vương quốc Phù Nam và việc
Phật giáo đồng hố thơng qua văn hóa sống của người Khmer trong đế chế Angkor khi
Phật giáo nguyên thuỷ của người Môn được người Campuchia tiếp thu. Đến thế kỷ VII,
vị vua trước đó của Campuchia là một người ủng hộ Hindu giáo và đàn áp Phật giáo,
nhưng sang đến thế kỷ IX Phật giáo lại bắt đầu nhận được sự ủng hộ từ các vị vua. Vua
Jayavarman I cai trị đất nước từ cuối thế kỷ XII đến những năm đầu thế kỷ XIII, ông là
người tôn sùng và ủng hộ đạo Phật rất nhiều. Dưới thời cai trị của ông, Phật giáo (Bắc
tông) trong một thời gian ngắn đã trở thành tơn giáo có ưu thế vượt trội trong vương
quốc, điển hình thơng qua việc ông đã cho xây dựng thành phố Angkor (Angkor Thom)
mà trong đó lấy ngơi đền Bayon làm trung tâm, ngay giữa đền là một ngọn tháp đồ sộ
được tạc hết độc đáo, xung quanh tháp chính là những ngọn tháp nhỏ hơn được tạc với
những gương mặt người - những gương mặt này chính là chân dung của những vị vua
được xem là những vị “Vua Phật”.
Trong những thế kỷ tiếp theo, Phật giáo tiếp tục được người dân Campuchia tin theo,
thậm chí vào giữa thế kỷ XIX khi Campuchia trở thành thuộc địa dưới quyền cai trị của thực
dân Pháp thì Phật giáo vẫn được các vị vua bảo trợ dù ở mức thấp hơn. Trong triều đại vua
Jayavarman I trị vì, những tăng sĩ Miến Điện bắt đầu đến giảng dạy Phật giáo


Theravada (Nam tông) cho cộng đồng người Campuchia, khi người Thái xâm lược
Campuchia vào thế kỷ XIV cũng đã góp phần truyền bá thêm Phật giáo Theravada tại đất
nước này. Đến giữa thế kỷ XIV, Phật giáo (Nam tông) đã được người dân Campuchia
đón nhận một cách rộng rãi.
1.4.2 Lào
Người Lào có nguồn gốc từ biên giới phía Tây Nam của Trung Quốc, từ khi người
Nam Chiếu hưng khởi vào đời Đường đến khi Đại Lý bị Mông Cổ tiêu diệt. Vùng này

chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hoá Trung Quốc, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng văn hố
Đơng Nam Á Ấn Độ hóa. Phật Giáo thịnh hành ở đây trong giai đoạn sơ khởi là loại tín
ngưỡng Phật Giáo hỗn hợp giữa văn hoá Trung Quốc lẫn Ấn Độ, đồng thời mang ảnh
hưởng tín ngưỡng bản địa. Theo tập tục dân gian, người Lào thời cổ thờ phụng thần linh,
gia tiên, thờ vong hồn và thế giới thiên nhiên. Thời đó, Phật Giáo chỉ là tín ngưỡng của
thiểu số. Lịch sử Lào ghi chép Phật Giáo du nhập từ đời vua Phà Ngừm (1349). Lãnh thổ
của nước Lào trong thời bấy giờ bao gồm toàn bộ Bắc Lào và Trung Lào hiện nay,
Chiang Mai của Thái Lan và miền Đông Bắc của Miến Điện, lãnh thổ rộng lớn đã giúp
cho Lào trở thành một quốc gia khá hùng mạnh trong thời bấy giờ. Sau khi vua Phà
Ngừm dựng nước, chế độ chính trị nơi đây phần nhiểu mơ phỏng theo vương triều Khmer
của Campuchia, đặt ra quyền trung ương tập quyền. Do đó, Phật Giáo của Campuchia
cũng bắt đầu du nhập vào Lào. Vua Phà Ngừm kết hôn với Kiều Lạc (công chúa
Campuchia), công chúa Kiều Lạc là người theo Phật giáo thuần thành. Khi sang Lào, bà
thấy dân chúng thời đó sùng bái quỷ thần, mê tín dị đoan, thường hay hiến tế bằng phụ
nữ, nên bà khuyên nhà vua nên can thiệp để đưa Phật Giáo vào, để có thể giúp dân chúng
thay đổi tín ngưỡng. Vua Phà Ngừm đồng thuận với điều đó và bắt đầu tạo nhiều cơ hội
cho Phật giáo du nhập vào Lào, dưới sự tác động của vua, Phật giáo Theravada (Nam
tơng) đã có được vị thế vững vàng tại Lào và được duy trì cho đến nay.
1.4.3 Việt Nam
1.4.3.1 Lịch sử


Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất trước
Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Phật giáo hình thành nên
hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
o

Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và


phát triển rộng khắp;
o

Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần là giai đoạn cực thịnh;

o

Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;

o

Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.

1.4.3.2 Đặc điểm
Ngày nay, hơn một nửa dân số Việt Nam tự coi mình là tín đồ của Phật giáo Đại
thừa. Phật giáo Ngun thủy và Hịa Hảo cũng có mặt với số lượng đáng kể. Ở khu vực
miền Nam, hệ phái Phật giáo Nam tơng cũng có ảnh hưởng khơng nhỏ, nhất là trong cộng
đồng người Khmer Nam bộ.
Thực hành Phật giáo ở Việt Nam khác với thực hành ở các nước châu Á khác, và
khơng có cùng cấu trúc thể chế, hệ thống cấp bậc hoặc tăng đoàn tồn tại trong các môi
trường Phật giáo truyền thống khác. Phần lớn các học viện Phật giáo tập trung vào các
nghi lễ sùng kính hơn là thiền định.
Tính dung hịa: Phật giáo ở Việt Nam được dung hợp với tín ngưỡng bản địa, tiếp
nhận Đạo giáo, rồi cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tơn
giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tơn giáo có cùng một mục đích)

- Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp
sau của con người. Ngồi ra giáo lý Phật giáo cịn được hịa trộn với các tơn giáo khác để
hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920. Ngồi ra cịn có sự dung hịa giữa các tơng

phái Phật giáo với nhau.
Phật giáo tại Việt Nam còn là nguồn ảnh hưởng đến sự ra đời của các hệ phái, tôn
giáo mới như: Đạo phật Khất sĩ Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đạo
Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội,...


Phật giáo ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến đời sống người Việt Nam từ tư tưởng, đạo
lý, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tập quán, các quan hệ chính trị xã hội, trong đời sống
người bình dân và giới trí thức, ngơn ngữ, ca dao, thơ ca, nghệ thuật,... Phật giáo đã góp phần
hình thành ở người Việt Nam lối sống bình dị, chất phác, thật thà, rất đỗi thủy chung, có
nghĩa có tình, có trước có sau, hướng con người vào thực hành cái thiện, tránh xa cái ác, đem
lại sự thanh thản trong tâm hồn mỗi con người. Có thể khẳng định rằng, Phật giáo là một
thành phần tối quan trọng hình thành nên đời sống và xã hội Việt Nam.


CHƯƠNG 2: PHẬT GIÁO THÁI LAN VÀ NHỮNG
ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
1.1 Tổng quan về đất nước Thái Lan
Thái Lan hoặc Vương quốc Thái Lan, hay còn được gọi là “Xứ sở chùa Vàng” là
một quốc gia độc lập có chủ quyền ở khu vực Đơng Nam Á, phía bắc giáp Lào và
Myanmar, phía đơng giáp Lào và Campuchia, phía nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia,
phía tây giáp Myanmar và biển Andaman. Thái Lan có diện tích 508.130 km², dân số vào
khoảng 76 triệu người (ước tính 2023). Khoảng 75% là dân tộc Thái, 21% là người Thái
gốc Hoa và 6% là người Mã Lai, phần cịn lại là những nhóm thiểu số và các dân tộc
khác. Về tôn giáo, Phật giáo Nam Tông được coi là ‘quốc giáo’ với tỷ lệ người theo là
90,4% - khiến cho nước này trở thành một trong những quốc gia Phật giáo lớn nhất trên
thế giới theo tỷ lệ dân số. Cũng theo điều tra dân số năm 2023, Islam giáo chiếm 4% và
Kitô giáo chiếm 2,1%.
1.2 Phật giáo tại Thái Lan


(Hình 1.2: Phật giáo tại Thái Lan)


Phật giáo được coi như tôn giáo quốc gia của Thái Lan (chiếm khoảng 95% dân
số). Mặc dù chọn Phật giáo Theravada Srilanka làm dịng chính, nhưng Phật giáo
Theravada Thái Lan hồn tồn khơng cứng nhắc theo Srilanka, mà dung hợp tất cả những
dịng Phật giáo có từ trước đó, kể cả tín ngưỡng thờ thần linh của người Thái cổ và lấy
học thuyết Phật giáo để giải thích, củng cố thêm những quan niệm của mình trong tín
ngưỡng truyền thống Có thể thấy, Phật giáo Theravada Thái Lan có phần khác Phật giáo
nguyên thủy, khi luôn bám sát các vấn đề nhân sinh quan của Phật giáo, nhấn mạnh vào
thuyết luân hồi và luật nhân quả để hành động theo các quy phạm đạo đức vốn đã đề cao
trong Phật giáo Theravada Sri Lanka. Tất cả nhằm hướng đến một kiếp sống tốt đẹp hơn,
không bận tâm nhiều vào sự giải thoát, Niết bàn mà Phật giáo nguyên thủy đề cập.
Phật giáo được cho là đã đến Thái Lan ngày nay sớm nhất là 250 TCN, vào thời
Hoàng đế Ấn Độ Ashoka. Có giả thuyết khác lại cho rằng đạo Phật du nhập vào Thái Lan
do các thương gia và di dân Ấn Ðộ trước kia thường lui tới các bờ biển Miến Ðiện, Mã
Lai, Nam Dương, Thái Lan và Campuchia. Những di dân và thương gia đầu tiên này
truyền vào Thái cả Phật giáo lẫn Hindu giáo. Kể từ đó, Phật giáo đã đóng một vai trị
quan trọng trong văn hóa và xã hội Thái Lan.
Các học giả Thái Lan tin rằng vương quốc Dvaravati của người Môn (miền trung
Thái Lan ngày nay) có thể đã tiếp nhận các nhà truyền giáo Phật giáo trong thời đại này,
do nhiều phát hiện khảo cổ học ở các thành phố cổ Dvaravati như Nakhon Pathom chỉ ra
sự hiện diện của Phật giáo sớm.
Vương quốc Mơn của Hariphunchai (phía bắc Thái Lan) với thủ đô tại Lamphun
cũng là một vương quốc Phật giáo, với những ngôi chùa nổi tiếng như Wat Haripunchai
và Wat Champa Devi.
1.3 Phật giáo qua 4 thời kỳ
Trong lịch sử đất nước Thái lan đã từng trải qua các triều đại Sukhothai,
Ayutthaya, Thonburi và Rattanakosin (Bangkok). Và ở mỗi thời kỳ đều mang đậm dấu ấn
và sự ảnh hưởng của Phật giáo.

1.3.1 Thời Kỳ Sukhothai


Phật giáo hình thành và phát triển ở Thái Lan từ thời kỳ đầu của triều đại Sukhothai (12371456). Trong thời kỳ này có rất nhiều vị vua tín ngưỡng Phật Pháp, xây dựng chùa chiền,
thậm chí có nhiều vị xuất gia tu học chẳng hạn như Vua Ramkhamheng và Vua Lithai. Đặc
biệt, vua Lithai (Maha Thammarat Ai - trị vì từ năm 1419-1438 đến triều đại Rama - trị vì từ
năm 1782) ơng là một vị vua Phật tử anh minh, từ ái, thương dân như con của mình, kể cả
những kẻ đối đầu. Ơng đã có cơng xây chùa và đúc tượng Phật rất nhiều trong thời ông trị vì.
Có thể nói, ở thời kỳ mà ơng trị vì được coi là thời hồng kim của Phật giáo. Mặc dù
Sukhothai chỉ tồn tại gần hai thế kỷ (1238-1436) nhưng hai vị vua sùng đạo của vương triều
là Ramkhamhaeng cùng Lu T’ai đã củng cố và đưa Phật giáo Theravada được truyền từ Sri
Lanka trở thành quốc giáo từ thế kỷ XIII – XIV cho đến tận ngày nay.

1.3.2 Thời kỳ Ayutthaya
Các vương triều sau này của người Thái đã tiếp nối dòng chảy Phật giáo thời
Sukhothai, củng cố sự phát triển Phật giáo Theravada ở Thái Lan và các nước lân cận. Phật
giáo Nguyên thủy đã bén rễ sâu khắp Xiêm trong thời Ayutthaya, bên cạnh Hindu giáo vốn
đã đặc trưng cho nghi lễ cung đình và các thực hành tơn giáo trước đó đã lan tỏa khắp mọi
tầng lớp xã hội. Cơ sở tu viện Phật giáo (sangha) đóng một vai trị quan trọng trong xã hội,

tạo thành tâm điểm cho cuộc sống làng quê, cung cấp cho nam thanh niên một nền giáo
dục và cung cấp cho những người được chọn ở lại tăng đoàn một kênh để di chuyển lên xã

hội. Trong khoảng thời gian 417 năm, vương quốc có rất nhiều tu viện, chùa chiền, tượng
Phật, chùa chiền, cung điện đẹp đẽ.

1.3.3 Thời kỳ Thonburi
Dưới triều đại của vua Thonburi, ông đã cho sửa chữa một số ngôi chùa, thiết lập các
quy tắc tu viện, thu thập các kinh sách tôn giáo và việc nghiên cứu và thực hành Phật giáo
đã được sửa đổi ở một mức độ nào đó. Đối với các bản văn như Tam Tạng Kinh, Chú giải


và Tiểu chú giải bị lửa thiêu hủy, ông đã cho mượn hoặc sao chép chúng từ Campuchia.
Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng Phật giáo Theraveda dưới hình thức của Ayutthaya vẫn
thịnh hành trong thời kỳ Thonburi
1.3.4 Thời Kỳ Rattanakosin


Ở thời kỳ này, Phật giáo đã là một phần không thể thiếu trong đời sống. Các vị vua Thái
Lan thời nay đã xây dựng nhiều chùa chiền. Mặc dù trải qua chiến tranh nhưng các vị vua
vẫn cố gắng khôi phục, xây dựng và thực hành Phật giáo.
1.4 Những ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa - xã hội và tinh thần của
người dân Thái Lan
1.4.1 Kinh tế
Phật giáo cũng đóng một vai trị đáng kể trong môi trường kinh tế của người dân
Thái. Nhiều lời Phật dạy về cách chọn nghề chân chính và thực hiện cơng việc làm ăn
chân chính, đã được áp dụng rộng rãi trong mọi giai tầng của xã hội Thái, và người dân
Thái biết làm thế nào để duy trì một gia đình hạnh phúc, ổn định về kinh tế qua giáo lý
của nhà Phật.
Khi Thái Lan bước vào quá trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa, kinh tế có
những bước phát triển vượt bậc từ chỗ là một quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài sang
thành một quốc gia đi đầu tư ra ngoại quốc. Nông nghiệp sản xuất chủ yếu là tự cung tự
cấp, này các sản phẩm nơng nghiệp đã trở thành hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài và
Thái Lan đã đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo. Tuy nhiên vì quá chú trọng đến
phát triển mà người Thái không quan tâm tới việc bảo vệ tài nguyên rừng và môi trường.
Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội là những vấn đề nhức nhối mà chính phủ Thái
Lan đang nỗ lực tìm cách khắc phục. Trong rất nhiều chương trình và dự án đề ra, ta thấy
nổi bật nhất là “chương trình kinh tế vừa đủ” và sau đó được nâng lên thành “Học thuyết
kinh tế vừa đủ” của vua Bhumibol Adulyadej (1946 – 2016). Đây là một chương trình và
học thuyết xuất phát từ triết lý về “Trung Đạo” và “Biết đủ” của Phật giáo, nhờ áp dụng
các biện pháp cụ thể của học thuyết này mà bộ mặt nông thôn Thái Lan đã được cải thiện.

Đối với triết lý này, việc ưu tiên hàng đầu là lợi ích của con người và môi trường, chứ
không phải khai thác tối đa lợi nhuận.


(Hình 1.4.1: Nền nơng nghiệp lúa nước tại Thái Lan)
1.4.2 Giáo dục
Thái Lan – “Vương quốc của những chiếc áo Cà sa” đã minh chứng cho vai
trò quan trọng của Phật giáo đối với nền giáo dục của đất nước này.
Khi đến thăm các trường học, các chuyên gia giáo dục Anh ngạc nhiên về sự hiền
hòa, từ ái, khiêm cung và nhã nhặn; tính tự kỷ luật, nghiêm túc, sự lễ phép với thầy cô
giáo, sự tôn trọng lẫn nhau của các em học sinh; đặc biệt, sự yên tĩnh của những ngơi
trường, mặc dù có mấy ngàn học sinh đang học.
Giáo dục Phật giáo ln đóng vai trị quan trọng trong nền giáo dục của quốc gia.
Trong lịch sử, đã từ rất lâu nhà chùa là nhà trường, tu sĩ là thầy giáo. Hiện nay, Tăng sĩ
Phật giáo phụ trách một số môn như: Phật pháp và giáo dục công dân… Cuộc sống của
mỗi người dân Thái Lan ln gắn bó và ảnh hưởng tinh thần Phật giáo. Khi chào đời, cha
mẹ thỉnh chư Tăng đặt tên cho con, đến 18 tuổi phải vào chùa xuất gia ít nhất là ba tháng,
kể cả vua chúa; ngày lập gia đình thì thỉnh chư Tăng đến nhà tụng kinh cầu an và dâng lễ
vật cúng dường; ngày mất cũng thực hiện theo nghi lễ Phật giáo.
1.4.3 Chính trị



×