Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Bình luận từ việc megastar bị khiếu nại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.77 KB, 17 trang )

1. Bình luận từ việc Megastar bị khiếu nại

Phạm Hồi Huấn

Vụ việc
Megastar là một trong những tên tuổi hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực giải trí tại
thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, theo các thơng tin được đưa trên các phương
tiện truyền thông, sáu doanh nghiệp ngành điện ảnh đã nộp đơn đến Cục Quản lý
cạnh tranh để khiếu nại Megastar với lý do Megastar đã có hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường. Cụ thể, sáu doanh nghiệp trên đã khiếu kiện Megastar với
các lý do như sau:
Thứ nhất, theo phân tích của các doanh nghiệp đứng đơn, hiện nay 90% các phim
nhựa chiếu rạp là phim nước ngoài, được các doanh nghiệp nhập khẩu từ các hãng
sản xuất phim nước ngoài. Với mỗi phim, hãng sản xuất phim nước ngoài ký hợp
đồng với một doanh nghiệp để doanh nghiệp này nhập khẩu và phân phối lại phim
cho các doanh nghiệp khác trong nước. Các doanh nghiệp này cũng thống kê rằng,
Megastar thường chiếm khoảng 50% số phim nhập khẩu mỗi năm. Cụ thể, tổng
phim nhập khẩu trong năm 2009 là 106 phim, riêng Megastar nhập 50 phim. Bên
khiếu nại cũng cho rằng, doanh thu từ hoạt động phân phối phim nhựa nhập khẩu
của Megastar trong thời gian qua dao động từ 34% đến 75% tổng doanh thu trên
thị trường phân phối phim nhựa nhập khẩu tại Việt Nam
Thứ hai, bên khiếu nại cho rằng, Megastar đã vi phạm Luật Cạnh tranh khi có hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Cụ thể là việc Megastar áp đặt giá bán
hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng khi áp dụng chính sách
định phí thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem. Hiểu nôm na, với mỗi phim mà
Megastar phân phối cho các doanh nghiệp khác chiếu, Megastar thu 25.000 đồng
trên mỗi vé mà các doanh nghiệp này bán ra. Bên khiếu nại cho rằng, cách thu này
của Megastar (áp dụng từ đầu tháng 6/2009) đã khiến các doanh nghiệp phải nâng
giá vé để tránh lỗ và kết quả là khán giả bị thiệt hại do giá vé tăng.
Thứ ba, ngoài ra, bên khiếu nại cũng cho rằng Megastar đã áp đặt điều kiện trong
quan hệ giữa các bên. Cụ thể, Megastar buộc các doanh nghiệp này phải thuê thêm




phim khác kèm theo phim muốn thuê. Ví dụ, muốn có phim Transformers (một
phim thuộc dạng “bom tấn”, hút khách) thì Cơng ty Cổ phần phim Thiên Ngân
(Galaxy) phải lấy kèm phim Ice Age (là một phim hoạt hình).
Bên khiếu nại còn nêu việc Megastar đã buộc các doanh nghiệp này phải chiếu
những phim do Megastar phân phối tại những phòng chiếu do Megastar chỉ định.
Hành vi này bị bên khiếu nại cho là Megastar đã áp đặt điều kiện cho các doanh
nghiệp.
Bình luận:
1. Thị trường liên quan
Một vấn đề quan trọng trong xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh là xác định thị
trường liên quan. Theo đó, thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lí liên quan. Cụ thể:
a)Thị trường sản phẩm liên quan
Yếu tố đầu tiên khi xử lý vụ việc này là xác định thị trường sản phẩm liên quan.
Theo quy định của Luật Cạnh tranh, thị trường sản phẩm liên quan là thị trường
của những hàng hố, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử
dụng và giá cả. Vậy thị trường sản phẩm liên quan trong trường hợp này là gì? Đó
là thị trường chiếu phim rạp hay chỉ giới hạn trong việc nhập khẩu và phân phối
các phim của nước ngoài?
Vấn đề các bên đang khiếu kiện là giá phân phối phim chiếu lại và các vấn đề có
liên quan. Về bản chất, đây là các khiếu kiện liên quan trong quan hệ phân phối.
Do đó, thị trường sản phẩm được xác định là thị trường phân phối các phim nước
ngoài để chiếu rạp tại Việt Nam.
b)Thị trường địa lý liên quan
Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng
hố, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có
sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận.
Như đã phân tích, thị trường sản phẩm là thị trường phân phối phim chiếu lại. Do

đó, thị trường địa lý được xác định sẽ là trên phạm vi tồn quốc. Vì việc phân phối
của Megastar được áp dụng trên phạm vi toàn quốc.


2. Vị trí thống lĩnh thị trường
Về nguyên tắc, một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp này có khả
năng tác động lớn đến cạnh tranh trên thị trường. Theo qui định của Luật Cạnh
tranh Việt Nam, có hai cách để xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên
trên thị trường liên quan, hoặc doanh nghiệp tuy khơng có thị phần từ 30% trở lên
trên thị trường liên quan nhưng doanh nghiệp này có khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể[1].
Từ quy định này, có thể xác định một doanh nghiệp khi đã có thị phần từ trên 30%
trên thị trường liên quan thì doanh nghiệp này đương nhiên có vị trí thống lĩnh mà
không cần phải xem xét đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này.
Luật cạnh tranh cũng đã xác định: Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại
hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh
nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng
hố, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua
vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp
kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý,
năm[2]
Con số 30% trên có thể là 30% tổng số mua vào hoặc 30% tổng số bán ra. Lập luận
của các bên khi khiếu nại Megastar đã khẳng định, Megastar là doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường xuất phát từ chỗ 90% các phim nhựa chiếu rạp là phim
nước ngoài, được các doanh nghiệp nhập khẩu từ các hãng sản xuất phim nước
ngoài. Với mỗi phim, hãng sản xuất phim nước ngoài ký hợp đồng với một doanh
nghiệp để doanh nghiệp này nhập khẩu và phân phối lại phim cho các doanh
nghiệp khác trong nước. Các doanh nghiệp này cũng thống kê rằng Megastar
thường chiếm khoảng 50% số phim nhập khẩu. Cụ thể, tổng phim nhập khẩu trong

năm 2009 là 106 phim, trong đó, riêng Megastar đã nhập tới 50 phim.
Tuy nhiên, để khẳng định Megastar là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
thì cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh phải xác định doanh số mua vào của
Megastar chiếm từ 30% trở lên tổng doanh số mà tất cả các nhà nhập khẩu phim
của Việt Nam bỏ ra để nhập khẩu phim. Còn nếu chỉ căn cứ vào số lượng phim
nhập khẩu của Megastar thì chưa đủ cơ sở để kết luận Megastar chiếm vị trí thống
lĩnh hay chưa. Câu trả lời còn phải chờ kết luận từ phía cơ quan quản lý cạnh tranh.
Do vậy, những phân tích tiếp sau đây chỉ có ý nghĩa khi xác định được Megastar là


doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường tại Việt Nam trong lĩnh vực phân phối
phim chiếu lại tại Việt nam.
3. Hành vi áp đặt giá bán bất hợp lí
Mỗi phim mà Megastar phân phối cho các doanh nghiệp khác chiếu, Megastar thu
25.000 đồng trên mỗi vé mà các doanh nghiệp này bán ra. Vậy hành vi này là một
hành vi kinh doanh bình thường hay là hành vi “áp đặt giá bán bất hợp lí” vi phạm
Luật Cạnh tranh như sáu công ty trên khiếu nại?
Theo Nghị định 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ (NĐ 116) hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Cạnh tranh thì hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được
coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hố, dịch vụ khơng
tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh
nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
a) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên quan trong thời gian tối thiểu 60
ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng
mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiểu đó;
b) Khơng có biến động bất thường làm tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch
vụ đó vượt quá 5% trong thời gian tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng
giá[3].
Ranh giới để phân định hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh và hành vi kinh doanh
tìm kiếm lợi nhuận hợp pháp của doanh nghiệp trong trường hợp này là rất mong

manh. Điều này xuất phát từ đặc thù của việc kinh doanh trong lĩnh vực phim ảnh.
Về bản chất, người xem phim có nhu cầu xem ngay khi phim vừa mới phát hành
(đặc biệt là những phim ăn khách, còn gọi là phim “bom tấn”). Theo quy luật cung
cầu, trong trường hợp này giá của phim sẽ cao. Và cịn có nhiều cách để tính giá
khi nhập khẩu và phân phối lại cho các công ty khác chiếu.
Theo hướng dẫn của NĐ 116, áp đặt giá bán bất hợp lý hay khơng thường được
nhìn trong một tiến trình. Theo đó, nếu nhu cầu khơng tăng đột biến mà giá bán
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường áp đặt tăng quá 5% theo cách được
hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116 thì có cơ sở để kết luận là hành vi
áp đặt giá bất hợp lý. Một điều quan trọng là thời gian khảo sát kéo dài 60 ngày.
Trong khi đó, một bộ phim được nhập khẩu về thường sẽ được khởi chiếu ngay. Ít
khi nào bộ phim được chiếu liên tục trong một thời gian dài. Do vậy, một cách tất
yếu, muốn thu hồi khoản tiền bỏ ra cộng với lợi nhuận, nhà phân phối phải tính


tốn như thế nào đó để đạt được mục tiêu trên trong một khoản thời gian ngắn.
Về nguyên tắc, luật khơng cấm việc tính phí trên mỗi vé bán ra. Do đó, dưới góc
độ luật học thì việc tính 25.000 đồng trên mỗi vé bán là chuyện bình thường. Với
những gì vừa phân tích, khó có cơ sở để khẳng định Megastar có hành vi áp đặt giá
giá bán bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng.
4. Áp đặt điều kiện giao kết hợp đồng
Hành vi áp đặt các điều kiện giao kết hợp đồng được hiểu là hành bắt buộc các đối
tác phải chấp thuận các điều kiện do doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đưa ra thì
hợp đồng giữa hai bên mới được giao kết.
Theo khiếu kiện của các bên thì Megastar đã có hành vi buộc các doanh nghiệp
phải thuê thêm phim khác kèm theo phim muốn th. Ví dụ, muốn có phim
Transformers (một phim thuộc dạng “bom tấn”, hút khách) thì Cơng ty Cổ phần
Phim Thiên Ngân (Galaxy) phải lấy kèm phim Ice Age (là một phim hoạt hình)
Nếu việc thuê kèm phim khác trở thành một điều kiện bắt buộc khi giao kết hợp
đồng, có nghĩa là bên khởi kiện muốn thuê phim Transformers mà khơng th

thêm phim Ice Age thì sẽ bị từ chối cho th thì hành vi này khơng phải là hành vi
áp đặt các điều kiện khi giao kết hợp đồng mà thực chất đây là hành vi buộc doanh
nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của
hợp đồng.
Kết luận
Đã 6 năm kể từ khi luật cạnh tranh ra đời. Nhưng trên thực tế, số vụ việc mà cục
quản lí cạnh tranh và hội đồng cạnh tranh xử lí quá ít ỏi (bao gồm cả hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh). Điều đó khơng có nghĩa là
các hành vi vi phạm luật cạnh tranh (đặc biệt là các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường) khơng xảy ra mà bởi tâm lí e ngại của các bên có liên quan trong
việc cầu viện đến “vòng cương toả” của luật cạnh tranh. Kết luận cuối cùng vẫn
cịn phải chờ kết luận từ phía Hội đồng xử lí vụ việc nhưng trước mắt với hành vi
khiếu kiện này là một động thái cho thấy các doanh nghiệp dường như đã bắt đầu
quan tâm hơn đến luật cạnh tranh trong quá trình hoạt động của mình.


[1] Khoản 1 Điều 11 Luật Cạnh tranh
[2] Khoản 5 Điều 3 Luật Cạnh tranh
[3] Khoản 2 Điều 27 Nghị định 116/2005/NĐ-CP
/>Lãng quên
Trả lời Trả lời với trích dẫn
2.
Show All

Cảm ơn

Có 5 thành viên cảm ơn Mr.PigLet vì bài viết này:
3.
03-06-10 07:51 AM#2
Mr.PigLet


Lãng quên
Tham gia ngày
Jun 2006
Bài gửi
2.337
Cảm ơn
1.150
Được cảm ơn: 3.516
Ðề: Bình luận từ việc Megastar bị khiếu nại
/>Sáu doanh nghiệp chiếu phim trong nước tố cáo Megastar tận dụng ưu thế lớn trên
thị trường để nâng giá thuê phim và áp đặt các điều kiện phát hành.


Megastar nắm trong tay những phim bom tấn như
Megastar nắm trong tay những phim bom tấn như "Avatar"... Ảnh: Fox.
Hiện trên thị trường phim chiếu rạp Việt Nam, số lượng phim nội được sản xuất rất
ít, do: thị hiếu khán giả, thiếu kịch bản hay, thiếu vốn đầu tư, thiếu đạo diễn, diễn
viên giỏi… 90% phim chiếu rạp đều phải nhập khẩu từ các hãng sản xuất nước
ngoài như Walt Disney Studios, Paramount/Dreamworks, Universal Pictures, Fox,
Warner Bros/Sony.
Theo thông lệ quốc tế và Việt Nam, doanh thu bán vé sẽ được phân chia giữa rạp
và công ty nhập phim theo một tỷ lệ được ấn định từ trước, và phần phải trả cho
phía nhập phim được coi là mức giá thuê phim. Nếu doanh thu bán vé tại cụm rạp
A của một phim nước ngoài là 1 tỷ đồng, và tỷ lệ ăn chia doanh thu giả định là 50 50, có nghĩa là cụm rạp A sẽ được hưởng 500 triệu đồng và công ty nhập phim sẽ
được hưởng 500 triệu. Cụm rạp A sẽ có tồn quyền ấn định giá bán vé dựa trên chi
phí hoạt động của mình và phù hợp với đối tượng khách hàng mà cụm rạp A
hướng tới.
Megastar nâng giá thuê phim
Các doanh nghiệp nhập phim chủ yếu ở Việt Nam bao gồm: Công ty TNHH

Truyền thông Megastar (Megastar), Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân (Galaxy),
Cơng ty TNHH Bình Hạnh Đan (BHD), và Cơng ty TNHH Lotte Cinema Việt
Nam (Lotte). Các doanh nghiệp này sau khi nhập phim sẽ phân phối lại cho các rạp
chiếu phim trên phạm vi cả nước.
Mỗi hãng phim nước ngoài chỉ ký hợp đồng với một hãng phát hành tại một quốc
gia. Megastar là một doanh nghiệp liên doanh giữa cơng ty văn hóa Phương Nam
(sở hữu 10% vốn điều lệ) và công ty Envoy Media Limited của British Virgin
Island (BVI) (sở hữu 90% vốn điều lệ) có cơng nghệ và vốn đầu tư, rạp lớn, giá vé
cao nên có vị trí thuận lợi khi thương thảo với các hãng phim lớn trên thế giới.
Thực tế, 4 trong số 5 hãng phim lớn tại Hollywood đã ký hợp đồng với Megastar.
Nắm trong tay số lượng phim nhập áp đảo, Megastar quay trở lại nâng giá thuê
phim cho các rạp với lý do doanh thu cao thì chi phí th phim cũng phải tăng lên.
Từ tháng 6/2009, Megastar bắt đầu thay đổi cơ chế ăn chia doanh thu bán vé và
thực hiện việc áp đặt chính sách Giá thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem là 25
nghìn đồng (sau thuế); nghĩa là nếu rạp A bán mỗi vé với giá dưới 50 nghìn đồng
thì phần Megastar hưởng là 25 nghìn/vé. Tuy nhiên, nếu giá vé là trên 50 nghìn
đồng, Megastar lại áp dụng tỷ lệ chia 50 - 50 như cũ.


Thời điểm đó, giá vé ở rạp Dân Chủ (Hà Nội) là 20 nghìn đồng, rạp Cinebox (TP
HCM) là 25 nghìn đồng… Chính sách Giá th phim tối thiểu của Megastar đã đẩy
các doanh nghiệp chiếu phim vào tình thế tiến thối lưỡng nan: nếu khơng chấp
nhận chính sách này thì khơng có phim để chiếu, nếu muốn giữ ngun giá bán vé
thì bị lỗ nặng, cịn nếu tăng giá thì ảnh hưởng trực tiếp đến túi tiền khán giả.
Hay "Iron Man", thu hút hàng triệu lượt người xem tại Việt Nam. Ảnh: Marvel
Entertainment.
Các doanh nghiệp chiếu phim Việt lâm vào tình trạng thua lỗ
Hậu quả của cách làm nói trên là các rạp chiếu phim hiện nay, đáng kể nhất là cụm
rạp Cinebox, Tân Sơn Nhất, Galaxy và nhiều doanh nghiệp điện ảnh nhà nước như
Tháng Tám, Công ty Cổ phần Truyền thơng Điện ảnh Sài Gịn… đều bị sụt giảm

25-50% doanh thu, hoạt động cầm chừng hoặc thua lỗ từ quý 2 năm 2009 đến nay.
Ông Trần Cảnh Tuệ - giám đốc Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng Đồng
Nai - cho biết, ơng đã phải đóng cửa một trong hai rạp chiếu phim, rạp còn lại hoạt
động cầm chừng. “Chúng tơi khơng có điều kiện nâng cấp rạp đạt tiêu chuẩn
Hollywood theo yêu cầu của Megastar, càng không thể thu một ngày mấy triệu
đồng tiền lãi để đóng cho họ. Vì thế, chúng tơi khơng được chiếu những bộ phim
bom tấn của đơn vị này nhập. Trong khi đó, những hãng sản xuất trong nước được
Megastar yêu cầu, nếu đưa phim vào hệ thống phát hành của họ, thì khơng được
đưa cho những đơn vị nhỏ như chúng tơi. Vậy là chúng tơi khơng cịn phim để
chiếu. Đây là hành động cá lớn nuốt cá bé” - ơng Tuệ bức xúc.
Trong khi đó, sức ép lên những rạp lớn như Trung tâm chiếu phim Quốc gia,
Galaxy khơng q căng, nhưng cũng gây khơng ít trở ngại. Đại diện Galaxy chia
sẻ, họ phải tăng giá vé phim nhập của Megastar nếu khơng muốn hịa hoặc lỗ vốn.
Riêng cụm rạp Nguyễn Trãi của hãng có thời gian thua lỗ. Hãng xác định, việc mở
thêm cụm rạp hoặc đầu tư thêm trong tình hình hiện nay gặp nhiều khó khăn.
Ơng Diên, trưởng phịng dịch vụ Trung tâm chiếu phim Quốc gia cho biết, Trung
tâm đang có nhiều vấn đề không thể giải quyết với Megastar và lúc này, Trung tâm
khơng cịn được chiếu phim của Megastar nữa. “Từ khi Megastar thay đổi cơ chế
ăn chia doanh thu bán vé, những doanh nghiệp như chúng tôi gặp rất nhiều vấn đề
đau đầu. Bên cạnh đó, họ cịn ép chúng tơi tăng suất chiếu mỗi tuần với một phim
của Megastar từ 40 suất lên 70 suất. Như vậy là khơng cịn chỗ để chiếu phim của
những đối tác khác. Chúng tôi đã nhiều lần thảo luận nhưng họ không chấp nhận,
buộc chúng tôi phải ngưng hợp tác. Điều này ảnh hưởng đến lượng khán giả đến


rạp. Rất may chúng tôi là rạp lớn nên không bị 'trói tay, trói chân'” - ơng Diên cho
biết.
Trong khi những doanh nghiệp khác như Cine oen
Trong khi những doanh nghiệp khác như Cine One thấy vui mừng vì phim "Leap
Year" họ nhập thu hút hơn 12 nghìn lượt khán giả tới rạp. Ảnh: Universal.

Đồng loạt khiếu nại
Trước tình hình này, các doanh nghiệp điện ảnh trong nước liên tục yêu cầu
Megastar đàm phán, nhưng không nhận được sự hợp tác hay phản hồi chính thức
nào từ phía Megastar, ngồi việc Megastar vẫn kiên quyết buộc các doanh nghiệp
điện ảnh khác phải chấp nhận các yêu cầu của mình. Vào ngày 1/3, sáu doanh
nghiệp gồm: Công ty cổ phần Sài Gịn Điện ảnh (Cinebox Hịa Bình), Cơng ty cổ
phần Điện ảnh 212 (Cinebox Lý Chính Thắng), Cơng ty cổ phần truyền thơng Điện
ảnh Sài Gịn (cụm rạp Đống Đa, Thăng Long, Tồn Thắng, Vinh Quang), Cơng ty
cổ phần phim Thiên Ngân (cụm rạp Galaxy), Công ty TNHH một thành viên điện
ảnh Hà Nội (cụm rạp Tháng Tám), Trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng Đồng
Nai (rạp Thanh Bình và Sông Phố) đã đồng loạt đệ đơn cầu cứu lên các ban ngành
quản lý.
Đầu tháng 4, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Cục
Điện ảnh tổ chức các cuộc họp với tập thể các doanh nghiệp điện ảnh Việt Nam và
với riêng Megastar về vấn đề này. Tuy nhiên, Megastar chưa có động thái thay đổi
tích cực nào.
Ngày 17/3, sau q trình hịa giải và thương lượng không thành công, sáu doanh
nghiệp này tiếp tục gửi đơn khiếu nại tập thể lên Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ
Công thương và được Cục Quản lý Cạnh tranh chấp nhận thụ lý vụ việc. Ngày
12/5, Cục Quản lý Cạnh tranh ra quyết định tiến hành điều tra sơ bộ đối với
Megastar.
Đại diện pháp lý cho sáu doanh nghiệp trong vụ kiện Megastar đánh giá: “Trên thị
trường điện ảnh, Megastar trở thành gã khổng lồ trấn giữ cả đầu vào lẫn đầu ra,
buộc các doanh nghiệp cịn lại muốn tham gia thì phải chấp nhận vơ điều kiện
những chính sách của Megastar, góp phần làm Megastar càng hùng mạnh hơn nữa.
Những hãng phát hành khác buộc chấp nhận yêu cầu để Megastar ngồi mát ăn bát
vàng hoặc không chiếu phim của họ, khi ấy khán giả ùn ùn kéo đến Megastar để
coi bom tấn. Kiểu nào Megastar cũng thu lãi lớn, từ đó, họ quay lại báo công với
các hãng sản xuất”.



Vị đại diện pháp lý này cũng tố rằng, tận dụng thế mạnh của phân phối độc quyền,
Megastar không chỉ ép các rạp về mức giá thuê phim mà cả về các điều kiện phát
hành, đảm bảo cho phim của Megastar được chiếu ở phòng chiếu lớn nhất, giờ
chiếu tốt nhất, tần suất cao nhất có thể, các phim “bom tấn” phải th kèm phim
khác… Ví như, để có Transformers, Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân (Galaxy)
phải lấy kèm phim hoạt hình Ice Age. Ơng bày tỏ niềm lạc quan vào kết quả vụ
kiện: “Luật cạnh tranh của Việt Nam hiện nay khá hồn thiện. Trước đây chúng tơi
cũng đã nói với Megastar về việc đưa ra pháp luật, nhưng họ phớt lờ và tiếp tục áp
dụng chính sách của mình. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải lên tiếng. Chúng
tôi rất tin vào sự công tâm của pháp luật”.
Vụ Megastar bị khiếu nại: Cục Quản lý cạnh tranh điều tra sơ bộ
Ngày 12-5, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh Bạch Văn Mừng ra quyết định
điều tra sơ bộ vụ Công ty TNHH Truyền thông Megastar bị khiếu nại về hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Trước đó, giữa tháng 3, sáu cơng ty ngành điện ảnh đã nộp đơn khiếu nại đến Cục
Quản lý cạnh tranh. Bên khiếu nại cho rằng Megastar đã áp đặt giá bán hàng hóa,
dịch vụ bất hợp lý và áp đặt điều kiện trong quan hệ giữa các bên.
Theo Luật Cạnh tranh, thời gian điều tra sơ bộ là 30 ngày. Nếu kết quả điều tra sơ
bộ cho thấy Megastar khơng vi phạm Luật Cạnh tranh thì sẽ đình chỉ điều tra. Nếu
kết quả điều tra sơ bộ cho thấy có hành vi vi phạm thì sẽ chuyển sang giai đoạn
điều tra chính thức 180 ngày (có thể gia hạn hai lần, mỗi lần khơng q 60 ngày).
Sau đó, hồ sơ vụ việc sẽ được chuyển cho Hội đồng Cạnh tranh để hội đồng mở
phiên điều trần và có quyết định xử lý vụ việc.
/>
Vụ Megastar bị khiếu nại vi phạm Luật Cạnh tranh: Cần thêm thời gian điều
tra


Hơn một tuần sau khi bị 6 nhà phát hành phim trong nước khiếu nại về hành vi vi

phạm Luật Cạnh tranh, đại điện của Megastar cho biết, lãnh đạo của Megastar hiện
chưa thể bình luận về vấn đề này; Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) cũng
chưa thể đưa ra kết luận, vì cịn cần thời gian để điều tra thêm.

Trước đó, 6 nhà phát hành phim trong nước gồm Cơng ty cổ phần Sài Gịn Điện
ảnh, Cơng ty cổ phần Điện ảnh 212, Công ty cổ phần Truyền thơng điện ảnh Sài
Gịn, Cơng ty cổ phần Phim Thiên Ngân, Công ty TNHH một thành viên Điện ảnh
Hà Nội và Trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng Đồng Nai đã gửi đơn đề nghị
Cục Quản lý cạnh tranh tiến hành điều tra các hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh của
Megastar trong việc phát hành phim nhập khẩu, gây ảnh hưởng đến các rạp chiếu
phim và quyền lợi của khán giả.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, một luật sư của Đoàn Luật sư TP.HCM là đại
diện pháp lý cho các doanh nghiệp trên (đề nghị giấu tên) cho biết, các hãng phim
tại Việt Nam có hai nguồn phim chính là nội địa (chiếm 5%) và nhập khẩu (chiếm
95%). Khi nhập khẩu phim vào Việt Nam, các nhà nhập khẩu sẽ cho các nhà phát
hành phim trong nước th phim để trình chiếu cho cơng chúng trong một khoảng
thời gian nhất định.
Theo thông lệ, cách phân chia lợi nhuận phổ biến trên thế giới và tại Việt Nam
giữa các nhà nhập khẩu phim và các nhà phát hành phim thường là 55/45 (tuần đầu
tiên chiếu phim), 50/50 (tuần thứ hai) và 45/55 (tuần thứ ba). Nhưng nói chung, tỷ
lệ ăn chia 50/50 thường được áp dụng nhiều nhất, dựa trên doanh thu bán vé của
các rạp.
Với tư cách là nhà nhập khẩu 60-80% tổng số lượng phim nhập khẩu vào Việt
Nam và còn ký hợp đồng phân phối phim với 4/5 hãng phim lớn của Hollywood,
nắm trong tay nhiều siêu phẩm điện ảnh, từ tháng 6/2009, Megastar bắt đầu áp
dụng cơ chế ăn chia doanh thu khác hoàn toàn. Cụ thể, trong các hợp đồng ký với
các nhà phát hành phim trong nước, Megastar yêu cầu, cứ mỗi một vé xem phim
được bán ra, các rạp sẽ phải trả cho Megastar 25.000 đồng, bất kể giá bán vé của



rạp phim đó là bao nhiêu. Con số này được Megastar tính tốn dựa trên tổng doanh
thu phịng vé chia cho tổng số lượng khán giả.
Vị luật sư trên cho biết, 25.000 đồng chỉ là doanh thu sau thuế, nếu cộng thêm thuế
VAT (5%) nữa, thì giá vé mà các doanh nghiệp phát hành phim trong nước phải
nộp cho Megastar là 26.250 đồng. “Như vậy, với chính sách mới của Megastar, giá
vé đã tăng từ 19 đến 30% so với cách tính cũ ”, vị luật sư cho biết.
Trong khi đó, theo Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 hướng dẫn thi
hành Luật Cạnh tranh, ở vị trí thống lĩnh thị trường, Megastar khơng được phép
tăng giá hàng hóa hoặc dịch vụ vượt quá 5% trong vòng 6 tháng. Hơn nữa, theo vị
luật sư đại diện pháp lý cho các doanh nghiệp, Megastar đã tăng giá vé một cách
đột ngột trong một lần, không theo quy định và hiện đã kéo dài gần một năm.
Trước cơ chế giá mới của Megastar, nếu chấp nhận lấy phim của Megastar thì các
nhà phát hành phim trong nước phải tăng giá vé, để đảm bảo có lãi, nhưng như vậy
nghĩa là họ sẽ mất khách. Đơn cử, tại cụm rạp Cinebox ở TP.HCM, giá vé trung
bình là 25.000 – 30.000 đồng nhắm vào đối tượng chính là học sinh và sinh viên,
nếu giá vé tăng lên thì chắc chắn lượng khách đến rạp sẽ giảm.
Nếu chấp nhận lấy phim mà khơng tăng giá vé, thì các nhà phát hành phim trong
nước cũng sẽ bị lỗ và dần phá sản. Ông Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Cơng ty cổ
phần Truyền thơng - Điện ảnh Sài Gịn cho biết, Công ty phải nâng giá vé lên
40.000 - 45.000 đồng thì mới đảm bảo có lãi. “Tuy nhiên, chúng tơi lại có chính
sách khuyến mãi 25.000-30.000 đồng/vé, nên đang phải chịu lỗ”, ơng Tuấn nói.
Cịn một lựa chọn nữa đối với các nhà phát hành phim trong nước, đó là khơng
chấp nhận lấy phim của Megastar. Tuy nhiên, trong trường hợp này, họ cũng có
nguy cơ phá sản và mất khán giả vì khơng có phim để chiếu. Như vậy, trong bất kỳ
tình huống nào, người được lợi trong vụ việc này chỉ có Megastar.
Sáu doanh nghiệp phát hành phim trong nước có đơn thư khiếu nại cho biết, nội
dung của hợp đồng giá mới mà họ ký với Megastar đều do Megastar soạn thảo và
áp đặt. Như vậy, theo vị luật sư đại diện pháp lý cho các doanh nghiệp này,
Megastar đã vi phạm Khoản 2 và 5, Điều 13 của Luật Cạnh tranh. Theo đó, các



hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm bao gồm: áp đặt giá mua, giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho
khách hàng; áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên
quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Theo Điều 118 của luật này, đối với hành vi vi phạm quy định về thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến
10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm
thực hiện hành vi vi phạm. “Như vậy, Megastar có thể phải chịu mức xử phạt hành
chính từ 5 đến 10% tổng doanh thu năm 2009”, vị luật sư nói.

Về mặt chun mơn, Giảng viên Nguyễn Ngọc Sơn - Khoa Kinh tế Luật Đại học
Quốc gia TP HCM, người được xem là chuyên gia hàng đầu Việt Nam về luật cạnh
tranh - cho rằng Megastar có “bóng dáng hành vi vi phạm Luật cạnh tranh Việt
Nam”. Ông cho biết, Luật cạnh tranh Việt Nam cấm doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường (chiếm 30% thị phần trên thị trường liên quan) thực hiện một số
nhóm hành vi gây tổn hại đến môi trường cạnh tranh, ảnh hưởng đến người tiêu
dùng.
Tác giả của hàng loạt cuốn sách đã xuất bản về luật cạnh tranh cho biết, sau khi
đọc thơng tin về vụ việc trên báo chí, ơng đã tiếp cận hồ sơ chứng cứ và thấy
Megastar có dấu hiệu vi phạm Luật cạnh tranh ở các điều khoản:
“Áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ một cách bất hợp lý” (Khoản 2, Điều 13 - Luật
Cạnh tranh ban hành năm 2005). Theo quy định luật cạnh tranh, doanh nghiệp
thống lĩnh không được tăng quá 5% giá vé trong vịng sáu tháng nếu khơng có
những biến động đặc biệt trên thị trường. Trong khi đó, Megastar áp đặt Giá thuê
phim tối thiểu trên mỗi người xem là 25 nghìn đồng (sau thuế) làm cho giá thuê
phim tăng trung bình 19% - 30% so với trước đây.
“Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa dịch

vụ” (Khoản 5, Điều 13 - Luật Cạnh tranh). Megastar đã áp đặt các điều kiện khác


như: buộc lấy kèm phim, buộc chiếu phim ở phòng lớn nhất và vào các giờ chiếu
do Megastar chỉ định.
Ông Sơn cho biết, Luật cạnh tranh ra đời nhằm hướng đến xây dựng một thị trường
phát triển lành mạnh, cố gắng dung hịa luật cạnh tranh, chính sách cạnh tranh và
chính sách phát triển ngành. Điện ảnh Việt Nam đang tiến hành cơng cuộc xã hội
hóa, nhưng thị trường lại có những dấu hiệu tích tụ của việc chiếm lĩnh từng phần.
Megastar từ vị trí thống lĩnh trong việc nhập phim đã tiến dần đến việc thống lĩnh
chiếu phim nhằm độc quyền dần các khâu. Điều này đi ngược chính sách phát triển
ngành. Ơng Sơn khẳng định, khơng luật pháp nước nào cấm độc quyền hay trừng
phạt doanh nghiệp thống lĩnh, nhưng phải đảm bảo kẻ lớn không chèn ép kẻ bé.
Chính sách xã hội hóa cho phép các doanh nghiệp nước ngồi vào Việt Nam kinh
doanh, nhưng nếu khơng điều tiết việc những doanh nghiệp này có hành vi chèn ép
doanh nghiệp trong nước, sẽ dẫn đến hậu quả các doanh nghiệp Việt Nam dần bị
tiêu diệt và chính sách xã hội hóa của chúng ta cũng bị chết theo.
Điều ông Sơn băn khoăn là hậu quả của hành vi chiếm lĩnh thị trường. Ông cho
rằng, Megastar đang tác động lớn đến các doanh nghiệp chiếu phim Việt Nam làm
những doanh nghiệp nhỏ như Cinebox, Đồng Nai lâm vào tình trạng vơ cùng khó
khăn, đồng thời thơng qua việc tiến đến cào bằng giá phim để hút khán giả về cụm
rạp của mình. “Nếu giá vé gần ngang nhau, khơng khán giả nào lại khơng chọn nơi
có chất lượng dịch vụ cao như Megastar. Như vậy, Megastar đang độc quyền dần
thị trường chiếu phim, quyết định cho người dân Việt Nam xem phim gì và quyết
định đối tượng nào được phép xem phim. Những người có thu nhập trung bình
hoặc gần dưới trung bình sẽ có nguy cơ khơng được tới rạp, bởi những rạp chiếu
giá rẻ hoặc bị đóng cửa hoặc buộc phải tăng giá. Xét dưới góc độ văn hóa, điều này
rất nguy hiểm” - ơng quan ngại.
Vị chuyên gia xây dựng dự án Luật cạnh tranh của Bộ Cơng thương nhìn nhận, vụ
sáu doanh nghiệp Việt Nam kiện Megastar không phải là tranh chấp đơn thuần nên

khơng thể tiến hành hịa giải, mà là họ phát hiện ra những vi phạm của Megastar đệ
trình lên để pháp luật giải quyết theo quy định. Ông đánh giá, để giải quyết vụ việc
này, cơ quan quản lý cạnh tranh cần hết sức thận trọng vì vụ việc ảnh hưởng đến tư
tưởng - nhận thức văn hóa. Trong khi đó, cơ quan quản lý ngành cần có chính sách
cơng tâm để hỗ trợ.


Trước những ý kiến cho rằng, khó xác định Megastar chiếm trên 30% thị trường
liên quan, ông Sơn nhận định việc này hồn tồn có thể giải quyết. Tổng doanh số
bán vé (box office) đối với phim nhập khẩu năm 2009 là khoảng 12,9 triệu USD
(số liệu này dễ thống kê vì các vé bán ra đều phải được giữ lại cuống - cũng là hóa
đơn VAT), trong đó khoảng hơn 50% là trả cho doanh nghiệp nhập và phát hành
phim (vì chính sách giá th phim của Mega làm cho tỷ lệ này tăng lên). Thống kê
từ số tiền mà các doanh nghiệp chiếu phim phải trả cho Megastar cho thấy thị phần
của Megastar trên thị trường này vào khoảng 50%. Đây là số liệu nội bộ ngành, rất
dễ để kiểm chứng lần nữa thông qua báo cáo tài chính của Megastar.
Trong khi đó, đại diện pháp lý của sáu doanh nghiệp chiếu phim Việt Nam khẳng
định, họ muốn thông qua vụ việc để hướng tới một thị trường cạnh tranh lành
mạnh chứ khơng phải phải là địi hỏi được bồi thường. Vị này cho biết, vụ kiện
giữa sáu doanh nghiệp chiếu phim Việt Nam và Megastar tương tự với vụ việc
Jetstar Pacific Airlines kiện công ty Xăng dầu Hàng không (Vinapco), thuộc Tổng
công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) năm 2009. Vietnam Airlines
thông qua công ty con của mình áp đặt Jetstar Pacific Airlines hàng tháng phải ứng
trước tiền cho Vinapco để công ty này đi mua nguyên liệu bay về bán lại. Đây là
hành vi lợi dụng vị thế độc quyền để chiếm dụng vốn, từ đó dần loại đối thủ cạnh
tranh khỏi "vịng chiến đấu", thu hút khách hàng về phía mình. Hội đồng Cạnh
tranh Quốc gia đã quyết định phạt Vinapco 3 tỷ đồng, yêu cầu Vinapco lập tức
cung cấp xăng cho Jetstar Pacific Airlines đồng thời cấp quyền cung cấp xăng hàng
không cho Công ty Cổ phần Nhiên liệu bay (PJF) thuộc Petrolimex để xóa thế độc
quyền của Vinapco.

Tại các buổi làm việc với tập thể các doanh nghiệp chiếu phim Việt Nam, các cơ
quan quản lý nhà nước gồm Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch, Cục Điện ảnh đã thể hiện quan điểm: thực hiện nghiêm túc chủ trương xã
hội hóa điện ảnh, nâng cao và phát huy vai trò của điện ảnh Việt Nam, xử lý hiện
tượng tiêu cực trong thị trường điện ảnh đang có những ảnh hưởng, tác động tiêu
cực đến các rạp chiếu phim và khán giả Việt Nam. Theo ông Lại Văn Sinh, Cục
trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam, trong buổi làm việc với Cục, đại diện Megastar
hứa sẽ sớm có buổi làm việc với sáu doanh nghiệp khiếu nại.


Nhìn nhận về vụ việc, ơng Khuất Duy Tân, Trưởng phòng phổ biến phim Cục Điện
ảnh Việt Nam lại cho rằng, chưa đến mức tạo thành một vụ kiện. Ông cho biết,
Cục muốn các bên ngồi lại với nhau, xây dựng một thị trường thống nhất và phát
triển. "Ban đầu, Cục chủ trương tổ chức một cuộc họp giữa Megastar và sáu doanh
nghiệp chiếu phim, nhưng phía Megastar xin được trao đổi trước với các doanh
nghiệp rồi báo cáo văn bản với Cục để Cục báo cáo với Bộ Văn hóa Thể thao Du
lịch và Ban tuyên giáo. Cục sẽ đứng ra tổ chức một cuộc họp chung khi các doanh
nghiệp đã thống nhất với nhau. "Mục tiêu cuối cùng của chúng tôi là xây dựng thị
trường lành mạnh, tạo điều kiện tốt nhất cho người xem. Tuy nhiên, nếu các doanh
nghiệp chiếu phim trong nước thấy một doanh nghiệp có 90% vốn nước ngồi như
Megastar vi phạm luật cạnh tranh Việt Nam, đương nhiên họ cần đưa vụ việc ra
pháp luật. Hiện Cục cạnh tranh cũng đã cử người sang làm việc, yêu cầu chúng tôi
cung cấp danh sách phim nhựa nhập khẩu từ năm 2009 tới nay" - ông Tân cho biết.
Theo nguồn tin của VnExpress.net, sau khi nhận Quyết định điều tra sơ bộ từ Cục
Quản lý Cạnh tranh, chiều 21/5, Megastar đã gửi công văn yêu cầu sáu doanh
nghiệp đến gặp vào ngày 25/5, với thời gian và địa điểm do Megastar ấn định. Đại
diện sáu doanh nghiệp chiếu phim Việt Nam cho rằng, hành động này của
Megastar "thể hiện sự trịch thượng với tư thế là một ơng lớn" vì thời gian thơng
báo trước q ngắn (1 ngày làm việc) và các doanh nghiệp lại ở nhiều tỉnh thành
khác nhau.

Hiện, Cục Cạnh tranh tiếp tục tiến hành điều tra sơ bộ vụ việc. Đến tuần cuối của
tháng 6, Cục kết thúc điều tra, bắt đầu quá trình tố tụng.
Một số vụ kiện tương tự trên thế giới:
- Microsoft bị phạt vì lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, áp đặt điều kiện bất lợi
cho khách hàng (mua hệ điều hành) thơng qua đó hạn chế cạnh tranh. Tổng mức
xử lý ở Mỹ và châu Âu tính từ năm 2004 đến 2008 khoảng 1 tỷ USD.
-Vụ Deutsche Telekom (năm 2003, do Ủy ban Cạnh tranh Châu Âu xử lý), theo đó
hãng viễn thơng Deutsche Telekom đã bị xử lý vì hành vi tăng giá cung cấp “hàng
hóa dịch vụ thiết yếu” đối với các đối thủ cạnh tranh của mình (vì Deutsche
Telekom giữ vị trí thống lĩnh thị trường trên thị trường cung cấp này) để các đối


thủ cạnh tranh với mình trên thị trường thứ cấp khơng thể bán giá thấp và do đó
mất lợi thế cạnh tranh.
- Vụ kiện Alsatel v. Novasam (năm 1988). Ủy ban Cạnh tranh Châu Âu kết luận
rằng việc tự ý tăng giá lắp đặt điện thoại lên 25% đã đủ cấu thành hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường.



×