Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng biện pháp tín chấp thực tiễn tại huyện dương minh châu, tỉnh tây ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ HUỆ

“PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ BẰNG BIỆN PHÁP
TÍN CHẤP - THỰC TIỄN TẠI HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU
TỈNH TÂY NINH”

Tai Lieu Chat Luong

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh, năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ HUỆ
“PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ BẰNG BIỆN PHÁP
TÍN CHẤP - THỰC TIỄN TẠI HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU
TỈNH TÂY NINH”

Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số chuyên ngành: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
VS. PGS -TS. Nguyễn Ngọc Điện



TP. Hồ Chí Minh, năm 2019


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là một trong những chế
định luật được hình thành khá sớm trong hệ thống hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong 09 biện pháp bảo đảm được quy định trong Bộ Luật Dân sự năm 2015, biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội
lại có những đặc điểm riêng. Tín chấp thuộc biện pháp bảo đảm có tính đối nhân,
có nghĩa là biện pháp bảo đảm khơng bằng tài sản, nhằm mục đích để thực thi các
chính sách hỗ trợ Người nghèo – đối tượng khơng có tài sản bảo đảm nhưng vẫn
tiếp cận được nguồn vốn vay. Bên bão lãnh không thực hiện việc trả nợ thay mà
chỉ có nghĩa vụ giám sát và đơn đốc việc trả nợ. Chính vì thế, nhằm thực hiện có
hiệu quả việc quy định biện pháp bảo đảm thơng qua vai trị của các tổ chức chính
trị - xã hội bằng tín chấp do Luật định và chính sách nhất quán của Đảng, sự chỉ
đạo xuyên suốt của Chính phủ đối với tín dụng chính sách hộ nghèo nói chung và
trên địa bàn huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh nói riêng. Tác giả chọn đề tài
“Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng biện pháp tín chấp - thực tiễn
tại huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay, đề tài tập trung nghiên
cứu với các mục đích:
Thứ nhất, tìm hiểu các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bằng biện pháp tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội hiện nay.
Thứ hai, Trên cơ sở các quy định của pháp luật, nghiên cứu cách thức tổ chức
thực hiện có hiệu quả nhất đối với biện pháp tín chấp của các tổ chức chính trị - xã
hội trong tín dụng chính sách hộ nghèo.
Thứ ba, Tổng kết, đánh giá thực trạng hoạt động tín chấp của các tổ chức chính

trị - xã hội hiện nay và đưa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện.


Qua thực thi biện pháp bảo đảm tín chấp trên thực tế, nhận thấy thành quả đạt
được là khá lớn; Tín dụng dành cho người nghèo ngày càng trở nên thông dụng và
được áp dụng rộng rãi trên các địa bàn khó khăn của cả nước. Có thể nói trong
những năm qua, Ngân hàng chính sách xã hội cũng phấn đấu hết mình và đạt được
tầm bao phủ rộng. Tuy nhiên, trong việc thực thi biện pháp tín chấp của các tổ chức
chính trị - xã hội trong cho vay hộ nghèo vẫn có một số vấn đề cần được khắc phục
như các quy phạm pháp luật quy định hoạt động tín chấp của tổ chức chính trị - xã
hội nằm rải rác trong các văn bản dưới luật; còn ít quy phạm điều chỉnh quan hệ tín
chấp giữa các cá nhân, tổ chức liên quan trong tín chấp của các tổ chức chính trị xã hội; mặt khác các quy phạm pháp luật này khơng được cụ thể hóa về trách nhiệm
của các tổ chức chính trị - xã hội đứng ra bảo đảm khi đối tượng được bảo đảm của
tổ chức (hộ vay) không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình. Điều này đã
phần nào làm cho ý nghĩa của tín chấp khơng đạt được, đồng thời trách nhiệm của
một số tổ chức chính trị - xã hội đứng ra bảo đảm tín chấp chưa cao.
Vì vậy, việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm bằng tín
chấp của các tổ chức chính trị - xã hội là nhu cầu của thực tiễn khách quan trong
đời sống kinh tế xã hội hiện nay. Cụ thể điều chỉnh quy định về các tổ chức chính
trị - xã hội được bảo đảm tín chấp tại cơ sở theo hướng mở rộng đối tượng được
vay vốn bằng tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội; mở rộng chủ thể nhận bảo đảm
tín chấp; Quy định trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội đứng
ra bảo đảm tín chấp trong khâu xét duyệt và quản lý đối tượng được vay vốn nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia.


1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………….............3

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................................. 6
3. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 8
4. Câu hỏi nghiên cứu: ................................................................................................ 8
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 9
5.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 9
5.2. Phạm vi nghiên cứu: ......................................................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 10
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................................. 11
7.1. Ý nghĩa khoa học ............................................................................................ 11
7.2. Ý nghĩa thực tiễn ............................................................................................ 11
8. Kết cấu dự kiến của luận văn ................................................................................ 12
Chương 1. Tổng quan về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tín
chấp của các tổ chức chính trị xã hội……………………………………………….12
1.1. Khái quát về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ....................... 12
1.1.1 Khái niệm về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự. ..................................................................................... 12
1.1.2. Mục đích của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. .............. 13
1.1.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ..................................... 14
1.2. Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội.15
1.2.1. Khái niệm tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội. ................................ 15
1.2.2. Bản chất tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội. ......................................... 16
1.2.3. Cơ sở để quy định tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội là một biện pháp
bảo đảm.................................................................................................................. 16
1.3. Những nội dung cơ bản về phương thức ủy thác cho vay thông qua các tổ chức
chính trị - xã hội ........................................................................................................ 19
1.3.1. Về ký kết văn bản ủy thác với các tổ chức Chính trị - xã hội ..................... 19


2


1.3.2. Các chương trình tín dụng và các dự án hiện nay đang uỷ thác cho vay qua
việc bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội .............................. 20
1.3.3. Nội dung, hình thức và đối tượng trong bảo đảm bằng tín chấp ................. 22
1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức Hội, đoàn thể cấp xã trong bảo đảm cho vay
bằng tín chấp .......................................................................................................... 27
1.3.5. Quyền và nghĩa vụ của NHCSXH huyện trong phối hợp cho vay hộ nghèo
............................................................................................................................... 28
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng
hoạt động tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội trong cho vay hộ nghèo tại
huyện Dương Minh Châu…………………………………………………………....30
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình kinh tế xã hội huyện và ngân hàng chính sách xã
hội huyện Dương Minh Châu ................................................................................... 30
2.1.1. Đặc điểm tình hình chung huyện Dương Minh Châu ................................. 30
2.1.2. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của NHCSXH huyện ....................... 32
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn huyện ......... 33
2.2. Thực trạng hoạt động tín chấp của các tổ chức chính trị xã hội trong cho vay hộ
nghèo tại ngân hàng chính sách xã hội huyện .......................................................... 35
2.2.1. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm tín chấp của các các
tổ chức chính trị xã hội. ......................................................................................... 35
2.2.2. Kết quả đạt được và tồn tại hạn chế trong hoạt động tín chấp của các tổ chức
chính trị xã hội về thực hiện các chương trình tín dụng hộ nghèo trên địa bàn huyện.
............................................................................................................................... 40
2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan và nâng cao hoạt động tín chấp của các
tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn huyện Dương Minh Châu. .............................. 44
2.3.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan hoạt động tín chấp của các tổ chức
tổ chức chính trị - xã hội. ....................................................................................... 44
2.3.2. Kế hoạch phát triển chính sách tín dụng hộ nghèo và nhóm các giải pháp
nâng cao vai trị của tổ chức chính trị - xã hội trong tín chấp trên địa bàn huyện.53
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………………...63

TÀI LIỆU THAM KHẢO…….……………………………………………………..65


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khi nền kinh tế thị trường Việt Nam đang dần hội nhập ngày càng sâu rộng
với nền kinh tế quốc tế thì các giao dịch dân sự thương mại ngày càng diễn ra phổ biến
và đa đạng, được xem như một trong những phương thức hữu hiệu giúp cho các chủ thể
tìm kiếm được các lợi ích của mình. Bên cạnh việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển thông
qua các hoạt động giao thương thì một nền kinh tế năng động ln chứa đựng những yếu
tố rủi ro. Do đó, nhằm hạn chế, khắc phục và ngăn chặn những nguy cơ tiềm ẩn các rủi
ro ngay từ những giao dịch được kí kết, các chuyên gia, các nhà làm luật đã có những
dự phịng thơng qua việc thiết kế các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
Pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (BPBĐTHNV) là một trong
những quy phạm pháp luật được hình thành khá sớm trong hệ thống pháp luật các quốc
gia trên thế giới và trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chế định bảo đảm trong Pháp
luật Việt Nam được bắt đầu quan tâm và quy định từ pháp luật Nhà Lê với Bộ Quốc triều
Hình Luật (Luật Hồng Đức) quy định về việc bão lãnh và Pháp luật Nhà Nguyễn với Bộ
Luật Gia Long quy định về người bão lãnh. Với những nỗ lực nhất định, trong thời gian
qua pháp luật Việt Nam được từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trong Luật hiện
đại, quy định về các BPBĐTHNV bắt đầu từ một văn bản của Ngân hàng Nhà nước “
Quy định về thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng”, sau đó là các BPBĐTHNV trong
Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991. Đến BLDS năm 1995 đã quy định rõ ràng hơn về
các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (THNVDS) tại Mục 5, Chương
I, phần Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự với 07 biện pháp bảo đảm ( BPBĐ). Quy
định này đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các giao dịch bảo đảm, là cơ sở để các chủ
thể căn cứ để tham gia vào các giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên đối với biện pháp bằng tín

chấp của các tổ chức chính trị - xã hội (TC CT-XH) chưa được quy định như là một biện
pháp riêng biệt mà nó là một phần bên trong quy định của biện pháp bão lãnh.


4

BLDS năm 2005 và 2015 ra đời bổ sung, thay thế BLDS năm 1995 đã bắt đầu quy
định Tín chấp như là một BPBĐTHNV riêng biệt bên cạnh các biện pháp khác, điều
này tạo hàng lang pháp lý đặc biệt quan trọng để các tổ chức chính trị - xã hội ( CT-XH)
và tổ chức tín dụng, đặc biệt là Ngân hàng chính sách xã hội ( NHCSXH) triển khai thực
hiện tốt những chính sách tín dụng ưu đãi liên quan đến cá nhân và hộ gia đình nghèo là
thành viên của một trong các tổ chức CT-XH; tạo điều kiện để họ có thể có được các
nguồn vốn phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh hoặc làm dịch vụ từ đó phát triển
kinh tế vươn lên làm giàu và thốt nghèo góp phần đảm bảo xã hội được công bằng, ổn
định và phát triển.
Mặc dù được quy định là một BPBĐTHNV như các biện pháp bảo đảm khác nhưng
biện pháp Tín chấp lại có những đặc điểm riêng. Về bản chất, tín chấp là một hình thức
vay hồn tồn dựa vào uy tín và sự tín nhiệm mà khơng có tài sản bảo đảm. Trong trường
hợp TC CT-XH ở cơ sở bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân hay hộ gia đình nghèo vay
vốn thì đây là hình thức vay có BPBĐ là tín chấp. Tín chấp thuộc BPBĐ có tính đối
nhân, có nghĩa là BPBĐ khơng bằng tài sản,– đối tượng khơng có tài sản bảo đảm nhưng
vẫn được hỗ trợ nguồn vốn ưu đãi. Bên bão lãnh khơng thực hiện thay mà chỉ có nghĩa
vụ giám sát và đơn đốc việc trả nợ.
Để có thể đồng thời đạt được cả 02 mục đích: thực hiện các chính sách giúp đỡ, hỗ
trợ cho hộ người nghèo và bảo đảm khả năng an toàn cho các khoản vay, thì việc áp
dụng biện pháp này theo cách thức nào để hiệu quả và an toàn là một vấn đề đáng quan
tâm đối với hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Hiện nay NHCSXH đã dần xây dựng
và ngày càng bổ sung, hoàn thiện các quy định về phối hợp uỷ thác một các công việc
cho các TC CT-XH được thực hiện dựa trên các văn bản thỏa thuận, văn bản liên tịch
được ký kết giữa Ngân hàng với các TC CT-XH các cấp, Căn cứ vào nội dung các văn

bản đã được ký kết, các TC CT-XH cấp xã đã giao quyền thực hiện một số phần công
việc cụ thể với Tổ tiết kiệm và vay vốn ( TK & VV) do các tổ chức hội thành lập và hoạt
động theo địa bàn ấp, khu phố. Thông qua việc ký kết phối hợp, NHCSXH các cấp đã
phối hợp, liên hệ chặt chẻ với chính quyền cấp cơ sở và các tổ chức CT-XH thành lập


5

được 187.151 Tổ TK&VV; tổ chức giao dịch tại hơn 10.974 điểm giao dịch đặt tại trụ
sở ủy ban nhân dân cấp xã. Cho đến cuối năm 2018, các tổ chức CT-XH nhận ủy thác
đang tham gia quản lý 163.985 tỷ đồng, chiếm 98,5% tổng dư nợ của NHCSXH1.
Tiếp tục khẳng định BPBĐTHNV thơng qua tín chấp của các TC CT-XH vẫn là
một biện pháp, một giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng chính sách, nâng cao vai trị
giám sát của cộng đồng xã hội trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó có nhiều vấn đề bất cập và hạn chế đang
được đặt ra là: Chất lượng tín dụng thơng qua ủy thác chưa đồng đều, một số nơi nợ xấu,
quá hạn vẫn còn ở mức cao và chậm chuyển biến; một số tổ chức Hội, đoàn thể nhận ủy
thác cấp xã chưa quan tâm sâu sát, chưa chủ động trong công tác kiểm tra, giám sát, nhất
là kiểm tra đối với hoạt động của Tổ TK&VV; chất lượng các cuộc kiểm tra không cao,
việc sử dụng vốn vay của hộ nên không phát hiện kịp thời những hộ sử dụng vốn vay
khơng đúng mục đích vay ban đầu. Ở một số địa phương, đơn vị, tổ trưởng tổ TK&VV
chưa làm tốt việc hướng dẫn làm các thủ tục xin gia hạn nợ hoặc xử lý nợ khi bị rủi ro
kịp thời; chưa thông báo kịp thời cho ngân hàng những trường hợp hộ vay bỏ đi khỏi nơi
cư trú để xử lý nợ theo quy định; chưa tích cực, chủ động đơn đốc khi có nợ quá hạn
phát sinh dẫn đến nợ quá hạn ủy thác tăng. Trong cơng tác bình xét, thiết lập hồ sơ cho
vay cịn sai sót, vẫn cịn tình trạng cho vay chồng chéo chương trình. Mặt khác, căn cứ
Nghị Định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ quy
định về giao dịch bảo đảm, tại Điều 50 quy định các tổ chức CT-XH được là bên bảo
đảm bằng tín chấp gồm có 06 tổ chức đó là Hội Nông dân; Hội Liên hiệp Phụ nữ; Tổng
Liên đồn Lao động; Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh và

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( MTTQVN) nhưng qua thời gian thực hiện chỉ có 04 tổ
chức thực hiện việc bảo đảm tín chấp cịn lại 02 tổ chức Cơng Đồn và MTTQVN chưa
thực hiện được việc bảo đảm tín chấp vì hầu như khơng có đối tượng.

Minh Ngọc - Thùy Trang (16 tháng 10 năm 2017). “Tổ chức hội, đoàn thể - Dây dẫn chuyền từ vốn vay của
NHCSXH”. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2018.
1


6

Từ những mặt hạn chế trên, với mong muốn thực hiện có hiệu quả các quy định
bảo đảm bằng tín chấp thơng qua vai trị của các tổ chức CT-XH do Luật định và chính
sách tín dụng hộ nghèo. Tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bằng biện pháp tín chấp - thực tiễn tại huyện Dương Minh Châu tỉnh Tây Ninh” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động tín chấp của các TC CT-XH,
chủ yếu là các đề tài nghiên cứu về chính sách tín dụng dành cho những hộ nghèo tại
NHCSXH; về hoạt động tín chấp của các TC CT-XH chỉ có các bài báo, tạp chí đánh
giá về kết quả đạt được của hoạt động cho vay đối với hộ nghèo qua hình thức ủy thác
của các tổ chức CT-XH. Do đó bài viết dựa trên cơ sở một số bài đánh giá kết quả hoạt
động này như bài:
- Bài báo đăng ngày 16/10/2017 trên tờ VBSP News về “Tín dụng chính sách có
ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, là kênh tạo ra xung lực trong xóa
nghèo bền vững”
- Qua tổng kết 15 năm thực hiện các chính sách ưu đãi về tín dụng cho các hộ nghèo
thơng qua các tổ chức CT-XH giai đoạn 2002-2017 đã đánh giá NHCSXH đã bám sát
các chủ trương, chính sách định hướng của Đảng, quy định của Nhà nước; phối hợp tốt
với chính quyền các cấp, các tổ chức CT-XH đẩy mạnh thực hiện các chương trình ưu

đãi tín dụng, tập trung các nguồn lực góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội (KTXH), đặc biệt là các mục tiêu giảm nghèo bền vững. Từng bước hỗ trợ, giúp đỡ
các hộ nghèo và các đối tượng có cơng khác được vay vốn ưu đãi của Nhà nước đồng
thời tiết giảm chi phí. Với mơ hình, cách thức tổ chức hoạt động hợp lý hệ thống
NHCSXH các cấp đã được hình thành và phối hợp với các tổ chức CT-XH đã thực hiện
rất tốt công tác tuyên truyền, tư vấn, hỗ trợ hộ vay vốn mạnh dạn đầu tư chăn nuôi, trồng
trọt phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống.


7

- Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Hội, đoàn thể - cầu nối đưa vốn tín dụng chính
sách đến với hộ nghèo” do NHCSXH phối hợp với Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức
Ngày 27/9/2018 tại Hà Nội.
Với mục đích nhằm tiếp thu, ghi nhận các quan điểm, cách nhìn nhận của đại biểu
quốc hội, các chuyên gia, nhà quản lý và cử tri đặc biệt là các hộ gia đình nghèo về kết
quả đạt được thơng qua hoạt động của các tổ chức CT-XH đối với công tác nhận ủy thác
tín dụng chính sách (TDCS); khẳng định vị trí, vai trị của các tổ chức CT-XH ngay từ
cơ sở với (TDCS). Từ đó, đưa ra các phương pháp hay, cách thức thực hiện giúp nâng
cao vai trò của các tổ chức CT-XH trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi.
- Bài báo tin tức kinh tế: “Vay tiền qua hội, đoàn thể an toàn cao” đăng ngày
02/10/2017. Nội dung chính của Bài báo nhận định TC CT-XH không chỉ là cầu nối đưa
nguồn vốn của NHCSXH đến với lực lượng đoàn viên, hội viên của tổ chức mình mà
đây cịn là nơi đáng tin cậy giúp các đối tượng vay vốn quản lý và sử dụng nguồn vốn
có hiệu quả. Các tổ chức này sẽ định hướng, vạch ra phương án xản xuất, kinh doanh
giúp hội viên làm ăn hiệu quả. Các TC CT-XH đã giúp hội viên của họ giải quyết được
03 vấn đề cốt yếu là: vay để nhằm làm gì, phương pháp làm như thế nào và quản lý theo
cách nào cho hiệu quả?. Qua phương thức này, về phía NHCSXH đã làm tốt phương
châm mình là một tỏ chức kinh doanh tài chính, chủ động thực hiện các hoạt động huy
động vốn và cho vay, thu hồi vốn, lãi theo quy định. Ngược lại, về phía các TC CT-XH

có được lợi thế là tập hợp được nhiều đoàn viên, hội viên, mở rộng tổ chức ngày càng
lớn mạnh thuận lợi cho công tác tuyên truyền vận động thực hiện các nhiệm vụ chung
của tổ chức của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, có thể làm tốt việc hướng dẫn, giám sát
quá trình sử dụng đồng vốn mang lại lợi ích cao nhất.
Đến thời điểm nghiên cứu, tác giả vẫn chưa thấy có Luận văn nào nghiên cứu đầy
đủ, tồn diện và chuyên sâu về hoạt động tín chấp của các TC CT-XH, do đó Luận văn
này sẽ tập trung nghiên cứu về những vấn đề còn hạn chế, bất cập trong hoạt động này
trên cơ sở các văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề này và thực trạng áp dụng tại địa


8

phương. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hồn thiện về BPBĐTHNV thơng qua tín
chấp của các TC CT-XH.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về BPBĐTHNV bằng tín chấp
của các tổ chức CT-XH hiện nay, đề tài tập trung nghiên cứu với các mục đích:
Thứ nhất, tìm hiểu các quy định của pháp luật về giao dịch BĐTHNV bằng biện
pháp tín chấp của các tổ chức CT-XH hiện nay.
Thứ hai, nghiên cứu phương thức triển khai, nội dung thực hiện mang lại hiệu quả
tối ưu đối với biện pháp tín chấp của các TC CT-XH trong cho vay vốn hộ gia đình
nghèo.
Thứ ba, tổng kết, đánh giá thực trạng hoạt động tín chấp của các TC CT-XH hiện
nay và đưa ra đề xuất, kiến nghị bổ sung, hoàn thiện các quy định liên quan.
4. Câu hỏi nghiên cứu:
Những nội dung cần nghiên cứu:
- Pháp luật Việt Nam quy định về BĐTHNV bằng tín chấp của các TC CT-XH như
thế nào?
- Hiện nay BLDS năm 2015 chỉ chính thức thừa nhận các chủ thể của quan hệ dân
sự bao gồm cá nhân và pháp nhân vậy việc quy định hộ gia đình ( hộ nghèo) trong biện

pháp tín chấp có phù hợp hay không?
- Những khác biệt cơ bản giữa các BPBĐTHNV và biện pháp tín chấp của các TC
CT-XH là gì?
- Tại sao chỉ áp dụng biện pháp tín chấp của các TC CT-XH cho đối tượng cá nhân
hoặc hộ nghèo, nên chăng cần mở rộng đối tượng khác hay khơng?.
- Ngun nhân vì sao chỉ có NHCSXH là thực hiện CSTD ưu đãi cho vay hộ nghèo
mà chưa mở rộng ở các ngân hàng thương mại khác?
- Những hậu quả xấu hay rủi ro thường hay xảy ra đối với TCTD (bên nhận bảo
đảm)?


9

- Các TC CT-XH bão lãnh cho hội viên của tổ chức mình vay vốn, nếu hội viên
khơng thực hiện nghĩa vụ thì trách nhiệm của tổ chức này như thế nào? Mặt khác quyền
và nghĩa vụ cụ thể của đơn vị bảo đảm khi thực hiện tín chấp?.
- Tại sao chỉ có các TC CT-XH mới có thể thực hiện biện pháp tín chấp cho vay
đối với hộ nghèo mà không phải là Ban chỉ đạo giảm nghèo xã trong khi rà sốt đề nghị
cơng nhận hộ nghèo là do Ban này thực hiện và ủy ban nhân dân xã ký cơng nhận danh
sách hộ nghèo?.
- Có cần thiết quy định 02 tổ chức CT-XH là MTTQVN và Công Đoàn cơ sở là
đơn vị được thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tín chấp hay khơng vì thực tế các tổ chức
này khơng có đồn viên, hội viên thuộc đối tượng được hỗ trợ?.
- Từ những vướng mắc, pháp luật cần quy định gì để hoạt động bảo đảm bằng tín
chấp ngày càng phát huy hiệu quả góp phần thực hiện tốt chính sách giảm nghèo tại địa
phương?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung các vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu về các giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp của các tổ

chức CT-XH, kết quả ủy thác các dự án cho vay của hộ nghèo tại NHCSXH.
- Phân tích các mặt mạnh, mặt hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt
động này, yêu cầu cần thiết hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh.
- Kiến nghị, đề xuất giải pháp nhằm hồn thiện về BPBĐTHNV bằng tín chấp
thơng qua các tổ chức CT-XH.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy phạm pháp luật về BĐTHNV bằng tín chấp
của các tổ chức CT-XH theo quy định của BLDS năm 2015, và các văn bản dưới luật có
liên quan đến hoạt động ủy thác ( một phương thức thực hiện hoạt động tín chấp) của
NHCSXH với các TC CT-XH.


10

- Phạm vi không gian: hoạt động ủy thác của các TC CT-XH với NHCSXH trên
địa bàn huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh.
- Phạm vi thời gian: Luận văn phân tích, đánh giá chủ yếu dựa trên lý luận, cơ sở
pháp lý theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành và số liệu kết quả giao dịch tại
NHCSXH huyện trong giai đoạn 5 năm từ 2013-2018 để nghiên cứu.
Trong các BĐTHNVDS do pháp luật quy định, biện pháp tín chấp của các TC CTXH là một biện pháp đặc thù thiên về công tác an sinh xã hội hơn là lợi ích kinh tế của
các chủ thể tham gia. Căn cứ vào tính chất, đặc trưng của biện pháp tín chấp do pháp
luật quy định, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích những đặc tính của biện pháp
tín chấp phù hợp với thực tiễn hiện nay và đưa ra những quan điểm về sự cần thiết quy
định về việc này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luật viết cũng ln trong tình trạng vận động hướng tới sự hồn thiện mà khơng
bao giờ đạt đến sự hồn thiện tuyệt đối. Thực tiễn cuộc sống cần có pháp luật để định
hướng, để vận hành một cách đúng đắn; pháp luật cần được đưa vào thực tiễn để đối
chiếu, để hoàn thiện. Giữa thực tiễn và pháp luật ln có sự tác động qua lại và khơng
ngừng phát triển. Chính vì thế, việc nghiên cứu và phân tích luật nhằm mục đích làm

sáng tỏ Luật, làm rõ các quy tắc mà nhà làm luật muốn thiết lập và đảm bảo tính chính
xác của việc áp dụng Luật trong thực tiễn là hết sức cần thiết.
Trong Luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích Luật viết: Phương pháp này được sử dụng để phân tích
tìm ra ý chí của nhà làm luật trong các quy định liên quan đến hoạt động tín chấp.
- Phương pháp phân tích phát triển và phương pháp phân tích lịch sử được sử dụng
khi nghiên cứu, tìm hiểu về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự qua các
giai đoạn phát triển của BLDS;
- Phương pháp phân tích thống kê, so sánh và tổng hợp được sử dụng khi phân tích
các vấn đề liên quan đến bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tín chấp của các TC CT-XH;
thống kê, so sánh các số liệu cụ thể trong thực tiễn thực hiện, trên cơ sở kịp thời đánh


11

giá những bất cập, hạn chế, nguyên nhân từ đó có các giải pháp giải quyết các vấn đề đặt
ra.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Nếu các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ những căn cứ khác nhau, các căn cứ này có
thể là sự thỏa thuận, có thể là do quy định của luật, thì BĐTHNV chỉ có thể phát sinh
thông qua sự thỏa thuận của các bên trong một giao dịch dân sự. Theo quy định tại khoản
8 Điều 292 BLDS năm 2015 thì tín chấp được coi là một BPBĐ nghĩa vụ dân sự.
Trong BLDS quy định về biện pháp tín chấp chỉ dừng ở việc quy định chung chưa
thật cụ thể về khái niệm của tín chấp. Hiện nay BLDS chưa quy định rõ về vai trò cụ thể
của tổ chức đứng ra bảo đảm tín chấp. Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định chi tiết hơn
về quyền và nghĩa vụ của TC CT-XH đứng ra tín chấp. BLDS năm 2015 ra đời thay thế
BLDS 2005 tuy nhiên vẫn chưa có nghị định hay thơng tư hướng dẫn thay thế Nghị định
163. Quy trình xét duyệt cho vay, cơng tác thu hồi nợ chủ yếu được quy định trong các
văn bản liên tịch giữa NHCSXH với các tổ chức CT-XH mà khơng có bất kỳ văn bản

dưới luật nào khác điều chỉnh nội dung này. Bên cạnh đó, mặc dù Tín chấp là một biện
pháp mang tính dự phịng, chỉ áp dụng khi nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện
hoặc thực hiện không đúng. Tuy nhiên cần có những văn bản luật quy định rõ ràng, cụ
thể hơn để các tổ chức CT-XH thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong
hoạt động tín chấp.
Luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tham khảo cho công tác nghiên cứu,
giảng dạy ở nước ta.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn sẽ tìm hiểu, phân tích, đánh giá về hoạt động tín chấp của các TC CTXH trong tín dụng hộ nghèo nhằm tìm ra lợi ích của hoạt động này, tạo điều kiện cho hộ
nghèo được vay vốn phát triển kinh tế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống; giúp
NHCSXH quay vịng, bảo tồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, đảm bảo nguồn vốn
phát triển bền vững và cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị tại địa


12

phương. Bên cạnh đó đưa ra các giải pháp, phương hướng nhằm thực hiện hiệu quả hoạt
động tín chấp của các TC CT-XH.
8. Kết cấu dự kiến của luận văn
Kết cấu dự kiến của báo cáo nghiên cứu gồm nội dung cơ bản như sau:
Phần mở đầu
Chương 1. Tổng quan về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tín
chấp của các tổ chức chính trị - xã hội
Chương 2. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng
hoạt động tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội trong cho vay hộ nghèo tại huyện
Dương Minh Châu.
Phần kết luận
Chương 1. Tổng quan về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng
tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội
1.1. Khái quát về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

1.1.1 Khái niệm về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trong cuộc sống, con người luôn phải tham gia vào các mối quan hệ xã hội khác
nhau như quan hệ dân sự, kinh tế. Trong các quan hệ này, mỗi bên đều có những quyền
và lợi ích cũng như những nghĩa vụ nhất định, nhiều khi quyền và lợi ích của bên này
chỉ có được từ việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia. Điều này dẫn đến tình trạng khi bên
có nghĩa vụ vi phạm các cam kết thì giữa các bên sẽ xảy ra tranh chấp và nếu bên bị vi
phạm khơng có bất cứ hình thức ràng buộc nào đối với bên vi phạm thì bên bị vi phạm
sẽ rơi vào tình thế bất lợi. Điều này đã xuất hiện một yêu cầu cấp thiết là cần phải có
biện pháp bảo đảm nào đó giữa các bên khi muốn tham gia ký kết hợp đồng.
BPBĐ theo nghĩa rộng là tất cả các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, pháp lý để đảm bảo
cho một công việc, nghĩa vụ có thể được thực hiện. Các biện pháp kinh tế, kỹ thuật có
thể hiểu là các tính tốn, đánh giá, hỗ trợ kỹ thuật, các nguồn lực đảm bảo để một dự án,
phương án kinh doanh có thể thực thi trên thực tế.


13

Dưới khía cạnh pháp lý chung nhất, bảo đảm là tất cả các biện pháp pháp lý để đảm
bảo cho nghĩa vụ được thực hiện một cách đúng đắn, đầy đủ. Các biện pháp pháp lý có
thể bao gồm các chế định quy định về hợp đồng, các chế định về xử lý tài sản, xử lý
tranh chấp, buộc thực hiện nghĩa vụ hoặc các BPBĐ bằng tài sản…
BĐTHNVDS là các biện pháp do pháp luật quy định hoặc do các bên tham gia
nghĩa vụ thỏa thuận đặt ra và khơng trái pháp luật, nhằm thúc đẩy người có nghĩa vụ
thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình vì lợi ích của bên có quyền, đồng thời tạo điều
kiện cho người có quyền trực tiếp thực hiện các quyền của mình trong trường hợp người
có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của họ, bằng cách dựa
vào luật hoặc dựa vào sự thỏa thuận của các bên để sáp nhập hoặc thêm vào nghĩa vụ
chính một nghĩa vụ bổ sung. Các BP BĐTHNVDS theo nghĩa khách quan là một tập hợp
các quy định của pháp luật từ điều 274 đến điều 384 BLDS năm 2015.

1.1.2. Mục đích của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Ở Việt Nam, các BPBĐ nói chung đã hình thành từ rất sớm. Nhìn lại lịch sử pháp
luật về các BPBĐTHNVDS ở nước ta được ghi nhận từ pháp luật Nhà Lê với Bộ quốc
triều hình luật, BLDS Bắc kỳ 1936, Trung kỳ 1939, Nam kỳ năm 1910 đều có quy định.
Trong Luật hiện đại, quy định về các BPBĐTHNVDS bắt đầu từ một văn bản của ngân
hàng nhà nước “quy định về việc thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng”, sau đó là đến
quy định trong BLDS. Do vậy, từ thời phong kiến các nhà làm luật đã thấy được sự cần
thiết có các BPBĐ trong thực hiện các giao dịch dân sự nhằm đem lại lợi ích cho các bên
tham gia
Trong cuộc sống thực tế, việc tham gia xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự
trước hết và chủ yếu là dựa vào sự tự giác và ý chí của các bên. Tuy nhiên, không phải
bất cứ ai khi tham gia giao dịch đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các
nghĩa vụ của mình. Trong một quan hệ nghĩa vụ, người có quyền được chủ động yêu cầu
người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ hoặc không được thực hiện một công
việc nhất định và chỉ khi nào cơng việc đó được thực hiện đúng, thì người có quyền mới
thỏa mãn lợi ích của mình. Tuy nhiên, về cách thức biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự


14

và việc thực hiện hay không? thực hiện như thế nào? lại phụ thuộc vào hành vi của người
có nghĩa vụ. Vì vậy mà trong các quan hệ nghĩa vụ, nhiều khi vẫn không bảo đảm đươc
quyền lợi của người có quyền nếu người vi phạm nghĩa vụ khơng có khả năng thực hiện
nghĩa vụ.
Nếu người có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ, bên
có quyền có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế,
buộc bên vi phạm phải thực hiện nghĩa vụ. Mặc dù vậy nhưng nhiều khi vẫn không đảm
bảo được quyền lợi của người có quyền nếu người vi phạm nghĩa vụ khơng có khả năng
thực hiện hoặc vì các lý do khách quan khác ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cả hai
bên.

Có thể nói các BPBĐ xuất hiện trong các giao dịch bảo đảm xuất phát từ nhu cầu
thực tế và có vai trị thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại phát triển có trật tự, góp phần
giảm thiểu tranh chấp xảy ra ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu giữa các bên
khi thực hiện không đúng; bảo vệ cơng bằng xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên; đồng thời khắc phục được rủi ro cho bên nắm quyền và tạo cho bên có quyền thế
chủ động trong thực tế hưởng quyền dân sự, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế
xã hội.
1.1.3. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
BPBĐ THNVDS là biện pháp trong đó một bên được quyền sử dụng tài sản mà
mình có quyền sở hữu hoặc dùng chính uy tín của mình (gọi là bên bảo đảm) để bảo
đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể mình hoặc của chủ thể khác (gọi là
bên bảo đảm).
Có 09 biện pháp bảo đảm là thế chấp tài sản, cầm cố tài sản, ký quỹ, đặt cọc, ký
cược, bảo lưu quyền sở hữu, bão lãnh, cầm giữ tài sản và tín chấp được ghi nhận tại Điều
292 BLDS năm 2015. Trong BLDS 2015, có sự phân định khá rõ ràng BPBĐ bằng tài
sản và BPBĐ phi tài sản ( bảo đảm đối nhân). Trong trường hợp bão lãnh, tín chấp bên
đưa ra bảo đảm phải thực hiện nghĩa vụ theo như đúng cam kết. Đối với bão lãnh thực
hiện nghĩa vụ thay ( có thể là tài sản, cơng việc), đối với tín chấp thông qua các thiết chế


15

cộng đồng để tác động đến việc thực thi nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Phần lớn các biện
pháp được liệt kê trong BLDS là các biện pháp được bảo đảm bằng tài sản, theo đó bên
đứng ra bảo đảm trao cho bên nhận bảo đảm quyền đối với tài sản được dùng làm bảo
đảm. Tài sản được dùng bảo đảm sẽ chịu sự chi phối, kiểm soát của bên nhận bảo đảm,
có những hạn chế nhất định trong việc sử dụng, định đoạt theo đúng quy định của pháp
Luật về bảo đảm và thỏa thuận của các bên trong giao dịch.
1.2. Biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã
hội.

1.2.1. Khái niệm tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội.
Theo nghĩa Tiếng Việt, “Tín chấp là vay tiền bằng sự tín nhiệm, khơng thế chấp tài
sản”. Ở đây có nghĩa là tín chấp được nhắc tới là một hình thức tín dụng của các ngân
hàng chứ khơng phải dưới góc độ một BPBĐ dân sự. Theo cách nhận định này, tín chấp
là một hình thức vay tiền ngân hàng mà trong hình thức này, sự tín nhiệm hay là uy tín
được xem là một sự bảo đảm để vay tiền mà khơng cần có tài sản đưa ra để thế chấp.
Như vậy, xét vay tín chấp, ta thấy bên cạnh hợp đồng vay tiền bằng tín chấp ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng khác ln ln là một sự bảo đảm bằng uy tín, sự tín nhiệm
của cá nhân hay tổ chức nào đó, khơng chỉ có TC CT-XH. Sự bảo đảm bằng uy tín, sự
tín nhiệm của cá nhân hay tổ chức nào đó chính là BPBĐ bằng tín chấp. Như vậy, Tín
chấp của TC CT-XH là một loại của tín chấp. Uy tín, sự tín nhiệm của các TC CT-XH
là sự bảo đảm trước ngân hàng, tổ chức tín dụng để vay tiền.
Về khái niệm Tín chấp của các TC CT-XH, BLDS năm 2015 không nêu rõ khái
niệm mà chỉ quy định các tổ chức CT-XH cấp xã, phường thị trấn gọi chung là cấp cơ
sở có thể đứng ra cam kết với ngân hàng để bảo đảm bằng tín chấp cho một cá nhân hoặc
hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền từ nguồn vốn ưu đãi của nhà nước để dùng sản
xuất, làm kinh doanh hoặc mục đích tiêu dùng nhưng phải tuân theo quy định của pháp
luật.
Tín chấp là một trong những BPBĐTHNVDS được quy định trong BLDS năm
2015. Sự góp mặt của các TC CT-XH, sự tham gia của các tổ chức tín dụng mà cụ thể là


16

NHCSXH và những hộ gia đình nghèo là dấu hiệu rõ nhất để nhận biết BPBĐ này. Ngày
nay, tín chấp là BPBĐ được dùng khá phổ biến bởi các lợi ích mà nó mang lại.
1.2.2. Bản chất tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội.
Bản chất của tín chấp của tổ chức CT-XH được xem xét dưới các góc độ sau:
Về góc độ xã hội: Tín chấp của các TC CT-XH là việc Nhà nước thực hiện những
quy định ưu đãi cho vay với mục đích hỗ trợ để các hộ gia đình nghèo tiến đến thốt

nghèo.
Về góc độ kinh tế: Trong tín chấp của các tổ chức CT-XH, các TCTD xét duyệt
cho những hộ gia đình nghèo có nhu cầu được vay tiền bằng bảo đảm bởi uy tín của tổ
chức CT-XH cũng là một trong những hoạt động kinh doanh thường xuyên của tổ chức
tín dụng.
Xét về bản chất, tín chấp của các TC CT-XH phản ánh chủ trương, mục tiêu hỗ trợ
tín dụng của Chính phủ với các đối tượng chính sách nên khơng phù hợp với việc cho
vay theo cơ chế thị trường của các ngân hàng thương mại mà chỉ thông qua NHCSXH.
1.2.3. Cơ sở để quy định tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội là một biện
pháp bảo đảm
BLDS năm 1995 chưa quy định BPBĐTHNV bằng tín chấp của các TC CT-XH là
một biện pháp riêng biệt mà nó là một phần bên trong quy định của biện pháp bão lãnh.
BLDS năm 2005 và 2015 ra đời bổ sung, thay thế BLDS năm 1995 đã bắt đầu quy
định Tín chấp như là một BPBĐTHNV riêng biệt bên cạnh các biện pháp khác, điều
này tạo hàng lang pháp lý đặc biệt quan trọng để các TC CT-XH và tổ chức tín dụng,
đặc biệt là NHCSXH triển khai có hiệu quả các ưu đãi tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình
nghèo đã tham gia là thành viên của tổ chức đó; giúp họ có thêm nguồn vốn để phát
triển kinh tế ổn định cuộc sống.
Sở dĩ tín chấp của các TC CT-XH được tách ra từ BPBĐ là bảo lãnh vì tuy tín chấp
và bảo lãnh có điểm giống nhau nhưng cũng có sự khác nhau cơ bản, cần phân biệt
chúng:


17

Sự giống nhau giữa tín chấp của TC CT-XH và bảo lãnh: Tín chấp của tổ
chức CT-XH và bảo lãnh đều là BPBĐ có liên quan đến người thứ ba. Người thứ
ba trong bảo lãnh là người bảo lãnh, trong tín chấp của TC CT-XH là các TC CTXH.
Sự khác nhau giữa tín chấp của TC CT-XH và bảo lãnh: Trong bảo lãnh, bên
bảo lãnh (người thứ ba) có cam kết với người nhận bảo lãnh (người có quyền) sẽ

thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (người có nghĩa vụ) nếu đến hạn
mà nghĩa vụ bị vi phạm. Trong Tín chấp, đó là một hình thức vay hồn tồn dựa
vào uy tín và sự tín nhiệm mà khơng có tài sản bảo đảm. Trong trường hợp TC CTXH ở cơ sở dùng uy tín của mình đứng ra bảo đảm cho cá nhân, hộ gia đình nghèo
được vay tiền thì đây là hình thức vay có BPBĐ là tín chấp. Tín chấp thuộc BPBĐ
có tính đối nhân, có nghĩa là BPBĐ khơng bằng tài sản, nhằm mục đích để thực
hiện mục tiêu hỗ trợ người nghèo – đối tượng khơng có tài sản bảo đảm nhưng vẫn
có thể được vốn vay. Bên bão lãnh không thực hiện thay mà chỉ có nghĩa vụ giám
sát và đơn đốc việc trả nợ.
Có ý kiến cho rằng, tín chấp của TC CT-XH là một loại quan hệ hồn tồn mang
tính phi tài sản. Vì thế, các nhà làm luật khơng nên quy định tín chấp của TC CT-XH là
một BPBĐ vì mặc dù quy định có sự bảo đảm của tổ chức CT-XH nhưng trách nhiệm
bảo đảm về vật chất, tài sản của biện pháp này hồn tồn bằng khơng; vì thế mà bên bảo
đảm khơng có cơ sở để bảo đảm lợi ích của bên nhận bảo đảm khơng bị xâm hại.
Tuy nhiên, hoạt động tín chấp của các tổ chức CT-XH là một BPBĐTHNVDS được
quy định trong BLDS năm 2015 là có cơ sở:
Về mặt xã hội:
Vay vốn bằng tín chấp của các TC CT-XH phù hợp với chính sách của Đảng, Chính
phủ về xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Chính
vì vậy mà BPBĐ tín chấp cần được giữ lại và tách ra thành một BPBĐ riêng biệt. Có


18

như vậy, mới thể chế hóa chính sách của Đảng, Chính phủ và đi vào thực hiện trên thực
tế nhằm2:
Tạo ra nguồn sức mạnh chung của cả hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa
phương; từ Đảng, Nhà nước và toàn xã hội tạo ra nguồn vốn tối ưu đến được tay hộ
nghèo. Là nơi đáng tin cậy của chính quyền địa phương cơ sở và hộ nghèo, đối tượng
chính sách.
Dân chủ, khách quan trong việc quản lý, sử dụng nguồn tiền; đảm bảo số tiền vay

đến đúng đối tượng quy định; đồng thời nâng cao hiệu quả nguồn vốn chính sách và tạo
thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa NHCSXH với các tổ chức tại địa phương.
Lực lượng đoàn viên, hội viên của tổ chức Hội ngày càng được mở rộng, lớn mạnh
thông qua việc ủy thác cho vay; các TC CT-XH thường xuyên liên hệ, gần gủi, gắn bó
với hội viên tổ chức mình từ đó tạo niềm tin hơn thuận lợi hơn trong công tác tuyên
truyền vận động triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị khác của địa phương, đơn vị
góp phần giảm chi phí.
Việc thực hiện các điểm giao dịch tại xã, qua các tổ chức đoàn thể địa phương giúp
cho hộ vay có được nguồn vốn nhanh chống, thuận lợi; việc huy động tiền gửi tại
NHCSXH một cách nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm thời gian.
Việc quy định tín chấp của các TC CT-XH là một biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự hoàn toàn phù hợp với truyền thống dân tộc:
Thứ nhất, Người Việt Nam rất coi trọng uy tín, coi trọng niềm tin và sự tín nhiệm
lẫn nhau. Tín chấp thể hiện rất rõ điều này. Chính vì vậy mà khi được vay vốn, người
dân lúc nào coi trọng việc trả nợ như một việc để giữ chữ tín, là một việc để họ đền đáp
những người đã giúp họ.
Thứ hai, Người Việt Nam có truyền thống đồn kết, tương thân tương ái. Cũng như
trong tín chấp của các TC CT-XH, mục đích chính là giúp đỡ, tạo điều kiện để người
nghèo ổn định cuộc sống và thốt nghèo.
2

Tạp chí Ngân hàng số 1+2 năm 2017


19

Dưới góc độ pháp lý:
Các BPBĐTHNV đều có 03 chức năng nói chung: chức năng tác động, chức năng
dự phịng, chức năng dự phạt. Ba chức năng này thể hiện trong tín chấp của các TC CTXH như sau:
Chức năng tác động: Các tổ chức chính trị cũng như sự bảo đảm của các tổ chức

này có ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ tới ý thức vay vốn, sử dụng vốn và trả nợ của
người vay vốn.
Chức năng dự phòng: Ngân hàng, tổ chức tín dụng chỉ áp dụng tín chấp nếu người
vay vốn là thành viên của tổ chức CT-XH được phép bảo đảm cho thành viên của tổ
chức mình vay vốn.
Chức năng dự phạt: Các tổ chức CT-XH phải có trách nhiệm quản lý hoạt động của
Tổ TK&VV trực thuộc, ngăn chặn và xử lý kịp thời hiện tượng cán bộ quản lý của các
đơn vị ủy thác chiếm dụng tiền của người vay, không đôn đốc thu hồi nợ.
1.3. Những nội dung cơ bản về phương thức ủy thác cho vay thơng qua các tổ
chức chính trị - xã hội
1.3.1. Về ký kết văn bản ủy thác với các tổ chức CT-XH
Theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ, NHCSXH
được triển khai cho vay qua hai cách:
Thứ nhất là, cho vay thông qua các tổ chức CT-XH theo hợp đồng ủy thác
Thứ hai là, cho vay trực tiếp tại ngân hàng; các hộ được bình xét cho vay từ Tổ TK
&VV ở cộng đồng khu dân cư mà hộ đó là thành viên đã gia nhập tổ.
Chính vì thế, để thực hiện tốt các nội dung về cho vay vốn, NHCSXH các cấp đã
ký các văn bản cụ thể với các TC CT-XH, thông qua từng cấp NHCSXH trung ương,
NHCSXH tỉnh và NHCSXH huyện đã ký các văn bản liên tịch phối hợp với 04 tổ chức
là Hội Nơng Dân, Hội Phụ Nữ, Đồn Thanh Niên và Hội Cựu Chiến Binh về ủy thác các
nội dung cho vay các đối tượng được ưu đãi theo quy định.
Hệ thống NHCSXH cũng thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm các nội dung
thực hiện; nghiên cứu đút kết thực tiễn từ đó kịp thời bổ sung, thay đổi hoàn thiện các


20

văn bản những nội dung phù hợp để đảm bảo việc ủy thác giửa NHCSXH và các tổ chức
CT-XH được hiệu quả. Thông qua việc ký kết phối hợp, NHCSXH đã đồng hành cùng
với chính quyền cấp xã, phường, thị trấn và các tổ chức CT-XH tại cơ sở ra mắt được

187.151 Tổ TK&VV; tổ chức các điểm giao dịch cho vay tại hơn 10.974 đặt tại trụ sở
ủy ban nhân dân cấp xã. Cho đến cuối năm 2018, các tổ chức CT-XH nhận ủy thác đang
quản lý số tiền 163.985 tỷ đồng, chiếm 98,5% tổng dư nợ cho vay của NHCSXH.
1.3.2. Các chương trình tín dụng và các dự án hiện nay đang cho vay qua việc
bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức chính trị - xã hội
Như đã trình bày, NHCSXH có hai phương thức cho vay: cho vay trực tiếp tại ngân
hàng và cho vay thơng qua hoạt động ký ủy thác. Trong hai hình thức này, cho vay thông
qua các TC CT-XH cơ sở nhận ủy thác chiếm hơn 98% tổng dư nợ. Đến hiện nay, đang
triển khai cho vay tất cả 23 chương trình tại NHCSXH như sau:3
“Các chương trình cho vay đối với hộ nghèo theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP; hộ
nghèo tại 64 huyện nghèo; vay hỗ trợ về nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định
33/2015/QĐ-TTg; cho vay xây dựng nhà ở phòng, tránh bão, lụt cho hộ nghèo khu vực
miền Trung theo Quyết định số 48/2014/QĐ-TTg; Cho vay hộ cận nghèo theo Quyết
định số 15/2013/QĐ-TTg; Chương trình cho vay đối với hộ mới thoát nghèo theo Quyết
định số 28/2015/QĐ-TTg; Ưu đãi cho học sinh, sinh viên có hồn cảnh khó khăn được
vay vốn học tập theo Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg; Dự án cho vay tạo việc làm mới,
hổ trợ duy trì, mở rộng việc làm theo Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9 tháng 7 năm
2015 của Chính phủ; Hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết việc làm đối với người lao động
bị thu hồi đất theo Quyết định số 63/2015/QĐ-TTg; Nhằm tạo điều kiện cho các hộ nông
thôn được xây dựng các cơng trình nước sạch vệ sinh mơi trường, chính phủ đã phê duyệt
đề án cho vay hỗ trợ theo Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg; Các dự án cho vay nhằm hỗ
trợ xuất khẩu lao động đối với người lao động nghèo, người dân tộc thiểu số đi làm việc
ở nước ngoài; hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động; hỗ trợ tạo việc làm

3

NHCSXH. “Các chương trình cho vay”. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2018.


21


và Quỹ quốc gia về việc làm; người lao động bị thu hồi đất theo Quyết định số
63/2015/QĐ-TTg; Cho hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn vay để đầu tư sản xuất,
kinh doanh theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg; người hoạt động thương mại tại vùng
khó khăn; Dự án phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; dự án phát triển ngành lâm nghiệp;
Chương trình vay hỗ trợ các hộ trồng rừng sản xuất, phát triển chăn nuôi theo nghị định
số 75/2015/NĐ-CP; đối với các trường hợp hộ gia đình có người nhiểm HIV, người
nghiện ma túy, người bán dâm hồn lương theo Quyết định số 29/2014/QĐ-TTg;
Chương trình vay vốn của Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp - IFAD tại Tuyên
Quang; Hỗ trợ hộ nghèo tại khu vực thành thị, hộ chính sách, hộ có thu nhập thấp vay
mua, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo Nghị định
số 100/2015/NĐ-CP của Chính phủ về phát triển và quản lý nhà ở xã hội”.
Trong các chương trình cho vay của NHCSXH phổ biến nhất vẫn là cho vay hộ
nghèo. Tính đến hết năm 2018, tổng số tiền cho vay theo các chương trình tín dụng của
NHCSXH đạt trên 187 nghìn tỷ đồng; trong đó nguồn tiền cho vay đối với đối tượng là
hộ nghèo lên đến con số hơn 38 nghìn tỷ đồng (chiếm 20,2% tổng dư nợ) với 1,28 triệu
hộ nghèo đang còn trong thời gian sử dụng vốn4.
Về đối tượng được hỗ trợ vay vốn chính sách: Là hộ thuộc diện nghèo theo họp xét
của địa phương áp dụng chuẩn quy định của Chính phủ theo từng giai đoạn. thời điểm
hiện tại được áp dụng theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về nghèo đa chiều.
Số tiền tối đa được vay: Hiện nay mức cho vay đối với những hộ nghèo đã được
nâng lên ( trước đây là 50 triệu), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước kiêm Chủ tịch Hội
đồng quản trị (HĐQT) NHCSXH vừa ký ban hành Quyết định số 12/QĐ-HĐQT ngày
22/2/2019 về việc nâng mức tiền vay và kéo dài thêm thời hạn trả vốn tối đa đối với hộ
nghèo đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn vay của hộ.

4

/>


×