Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Pháp luật về bán đấu giá tài sản và thực tiễn tại địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.32 KB, 44 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
VÀ THỰC TIỄN TẠI ĐỊA PHƯƠNG

Họ và tên sinh viên: TRẦN NGUYÊN NGỌC ANH

1


Huế, 03/2016

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
KHÓA 37
PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
VÀ THỰC TIỄN TẠI ĐỊA PHƯƠNG

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TH.S PHAN THỊ HỒNG

2

SINH VIÊN THỰC HIỆN
TRẦN NGUYÊN NGỌC ANH


MSSV: 13A5011014
LỚP: LUẬT K37B


Huế, 03/2016

Lời cảm ơn
Quá trình là niên luận là khoảng thời gian đầy thử thách đối với
mỗi sinh viên, qua đó giúp cho mỗi sinh viên tự trau dồi, rèn luyện bản
thân để chuẩn bị cho mình hành trang vững chắc bước vào cuộc sống.
Được sự phân công của trường Đại học Luật – Đại học Huế và sự
đồng ý của giảng viên hướng dẫn, em đã chọn cho mình đề tài “Pháp
luật về bán đấu giá tài sản và thực tiễn tại địa phương”
Em xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô trường Đại học
Luật đã cho em kiến thức về ngành Luật. Đặc biệt để hoàn thành niên
luận này em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới giảng
viên ThS. Phan Thị Hồng đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn
thành bài niên luận này.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn
chỉnh nhất, song do lần đầu tiên làm quen với nghiên cứu khoa học
thực tiễn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự thông cảm và góp ý của quý thầy, cô để bài niên luận được
hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
Huế, tháng 03 năm 2016
Sinh viên thực hiện
TRẦN NGUYÊN NGỌC ANH

3



MỤC LỤC

4


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Hoạt động Bán đấu giá tài sản trên Thế giới đã được phát triển từ
khá lâu, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển. Đối với Việt
Nam, thuật ngữ “Bán đấu giá tài sản” còn khá mới mẻ với công chúng,
pháp luật Việt Nam chỉ chính thức ghi nhận hoạt động bán đấu giá tài
sản từ năm 1989 bằng sự ra đời của Pháp lệnh thi hành án dân sự
1989 và chỉ áp dụng riêng đối với việc Bán đấu giá tài sản kê biên để
đảm bảo thi hành án. Hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam chỉ
thực sự có một văn bản quy phạm pháp luật quy định riêng cho việc
bán đấu giá tài sản từ năm 1996 với sự ra đời của nghị định 86/NĐCP/ ngày 19 tháng 12 năm 1996 của Chính phủ ban hành Quy chế
Bán đấu giá tài sản.
Mặc dù ra đời muộn nhưng hoạt động bán đấu giá tài sản đã
chứng

minh được nó không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế mỗi

địa phương, mỗi doanh nghiệp mà còn quan trọng đối với mỗi gia
đình, mỗi cá nhân bởi lợi ích của nó đem lại thể hiện ở việc từ năm
1996 đến năm 2010 đã có 03 nghị định của Chính phủ được ban hành
để điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản mà gần đây là nghị định
17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 03 năm 2010. Cũng chính bởi hoạt
động bán đấu giá tài sản luôn gắn liền với lợi ích nên nhiều khó khăn,
bất cập và cả tiêu cực cũng từ đó mà phát sinh. Ở góc độ của cơ quan

quản lý, nhà nước cũng đã điều chỉnh hành lang pháp lý cho phù hợp
khi hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như góp phần làm cho hoạt động
bán đấu giá chuyên nghiệp hơn. Bên cạnh những kết quả đã đạt được
trong thời gian qua, thực tế cho thấy pháp luật hiện hành về bán đấu
giá tài sản đã phát sinh nhiều bất cập, hạn chế cần được nghiên cứu,
sửa đổi để được bổ sung kịp thời.
5


Chính vì những lí do trên em đã chọn “ Pháp luật về Bán đấu giá
tài sản và thực tiễn tại địa phương” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Hoạt động Bán đấu giá tài sản đã được quy định tại nghị định
17/2010/NĐ-CP và thực hiện trong thực tiễn tại các địa phương trong
nhiều năm qua. Tuy nhiên, tình hình thực tế cho thấy những quy định
của pháp luật về hoạt động Bán đấu giá tài sản vẫn tồn tại những bất
cập, hạn chế. Từ đó mục đích nghiên cứu của niên luận là làm sáng tỏ
cơ sở lý luận của hoạt động Bán đấu giá tài sản, đánh giá thực tiễn áp
dụng những quy định của pháp luật về hoạt động Bán đấu giá tài sản là
cơ sở để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về Bán đấu giá tài sản”
Phạm vi nghiên cứu: Niên luận chủ yếu tập trung nghiên cứu những
quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản, thực trạng pháp luật về
hoạt động bán đấu giá tài sản và thực tiễn hoạt động bán đấu giá tài sản
tại Tỉnh Ninh Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-LêNin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng
Cộng Sản về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt

Nam. Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành cũng được sử dụng một cách phù hợp với nội dung của đề tài
như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích chứng minh,
phương pháp diễn giải, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê.
5. Cơ cấu của niên luận:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo thì phần nội dung của niên luận gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung về bán đấu giá tài sản.
6


Chương 2: Thực trạng pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt
Nam.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN.
1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
bán đấu giá tài sản.
Khái niệm, bản chất của hoạt động bán đấu giá tài sản:
Theo quan niệm truyền thống, đấu giá là việc mua bán hàng tài
sản công khai mà những người mua sẽ trả giá từ giá thấp cho tới khi
trả giá cao nhất và người bán đấu giá đồng ý bán bằng cách gõ búa.
Dưới góc độ pháp lý, định nghĩa về bán đấu giá tài sản thường được
quy định trong những điều luật cụ thể. Chẳng hạn điều 3 Luật Bán đấu
giá tài sản nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1996 quy định:
“bán đấu giá là hình thức bán và mua tài sản công khai theo đó các tài
sản và quyền tài sản được bán cho người trả giá cao nhất”. Còn đạo
luật của Florida năm 2003 đưa ra khái niệm “bán đấu giá tuyệt đối” là
cuộc bán đấu giá không yêu cầu giá khởi điểm tối thiểu mà hàng hóa

sẽ được bán cho người trả giá cao nhất.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học thì “Bán đấu giá tài sản là hình
thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều
người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng
không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản”
Theo quy định của pháp luật thì khái niệm bán đấu giá trên được
xem xét trong nhiều lĩnh vực cụ thể: chẳng hạn trong lĩnh vực thương
mại thì Luật Thương mại 2005 coi đấu giá hàng hóa là một trong số hoạt
7


động thương mại cụ thể, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê
người tổ chức bán đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để
chọn người mua trả giá cao nhất (khoản 1 điều 185). Những quy định
liên quan đến đấu giá hàng hóa trong luật Thương mại 2005 nhằm phát
triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả
và hiệu lực pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế,
hoạt động bán đấu giá trong thương mại chưa thực sự phát triển mà chủ
yếu là người bán hàng tự mình thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa
thuận.
Theo quy định của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010
của Chính phủ về bán đấu giá tài sản thì bán đấu giá tài sản là hình
thức bán tài sản công khai, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá và
tuân theo các quy định của pháp luật về bán đấu giá. Như vậy, khái
niệm về bán đấu giá tài sản có những đặc điểm sau đây:
- Bán đấu giá tài sản là hình thức bán công khai theo nguyên tắc và thủ
tục luật định.
- Chủ thể tham gia bán đấu giá từ hai chủ thể trở lên.
- Người được mua tài sản là người trả giá cao nhất.
Bản chất của bán đâu giá tài sản là quan hệ dân sự về mua bán

tài sản thông qua hình thức đấu giá nhằm bán được tài sản với giá
cao nhất. Hoạt động bán đấu giá tài sản được diễn ra theo ý chí của
chủ sở hữu và người được chủ sở hữu ủy quyền yêu cầu tổ chức có
chức năng bán đấu giá hoặc tài sản thực hiện việc bán đấu giá.
Tài sản đấu giá rất đa dạng. Căn cứ vào trình tự, thủ tục quy định
cho việc bán đấu giá tài sản thì các loại tài sản bán đấu giá có thể
được chia ra làm hai loại tài sản: tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ
chức được bán theo hình thức tự nguyện và tài sản tư pháp được bán
theo hình thức bắt buộc. Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức là
những tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, ví dụ
như hàng hóa, một số loại đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm,
phương tiện giải trí, bất động sản, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng,
8


đồ văn phòng, máy tính, v.v. Tài sản tư pháp bao gồm tài sản để thi
hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; tài sản là tang vật
phương tiện hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định
của pháp luật về xử lí vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy
định của pháp luật về giao dịch có bảo đảm; hàng hóa lưu giữ do
người vận chuyển đường biển, đường hàng không; đường bộ lưu giữ
tại cảng, kho; tài sản nhà nước phải bán đấu giá tài sản theo quy định
của pháp luật về quản lí tài sản nhà nước.
Đấu giá tài sản là một dịch vụ lâu đời và tương đối phát triển ở
các nước có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Tuy nhiên, ở nước ta, hoạt
động đấu giá tài sản chỉ mới thực sự bắt đầu phát triển khi Đảng và
Nhà nước ta áp dụng chính sách mở cửa, chuyển đổi nền kinh tế từ
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với sự hình thành và phát triển của pháp luật
về bán đấu giá tài sản qua từng giai đoạn cụ thể.

Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về đấu giá
tài sản ở Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996
Có thể nói dịch vụ bán đấu giá tài sản tại Việt Nam được hình
thành và phát triển từ việc bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự. Bởi
lẽ, các quy định về bán đấu giá tài sản được xuất hiện đầu tiên trong
pháp luật về thi hành án dân sự.
Pháp luật về bán đấu giá tài sản được đánh dấu bằng sự ra đời
của Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 28 tháng 8 năm 1989 (Pháp
lệnh năm 1989) quy định về bán đấu giá tài sản để thi hành án.
Để thực hiện Pháp lệnh 1989, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao và Bộ Tư pháp có Thông tư liên ngành số
06-89/TTLN ngày 07 tháng 12 năm 1989 hướng dẫn thực hiện một số
quy định của Pháp lệnh 1989. Mục VI của Thông tư có quy định về
bán đấu giá tài sản đã kê biên theo.
9


Năm 1994, Pháp lệnh thi hành án dân sự được ban hành mới
thay thế cho Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989 (Pháp lệnh 1994).
Pháp lệnh 1994 bổ sung thêm một số quy định về bán đấu giá tài sản
thi hành án. Quy định cụ thể hơn về thành phần Hội đồng định giá
gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn có liên quan và
do chấp hành viên chủ trì để đánh giá sơ bộ tài sản đã kê biên (Điều
34 của Pháp lệnh 1994), người được thi hành án, người phải thi hành
án được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định
giá thuộc Hội đồng định giá. Tài sản không bán được thì được định giá
lại để tiếp tục bán đấu giá.

10



Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2005.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên ở nước ta được Quốc hội
khóa IX, kì họp thứ 8 thông qua. Đây là một văn bản pháp luật quan
trọng, điều chỉnh các quan hệ dân sự trong đó có quan hệ về bán đấu
giá tài sản. Bộ luật dân sự năm 1995 đã quy định giao cho Chính phủ
ban hành quy chế bán đấu giá. Trên cơ sở đó, ngày 19/12/1996 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 86/1996/CP về việc ban hành quy chế
bán đấu giá tài sản. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên
điều chỉnh về lĩnh vực bán đấu giá tài sản với những quy định về tài
sản bán đấu giá, người bán đấu giá, trình tự, thủ tục bán đấu giá, giải
quyết khiếu nại tranh chấp về bán đấu giá. Có thể nói hoạt động bán
đấu giá tài sản chuyên nghiệp ở nước ta được hình thành từ năm
1997 trên cơ sở của Bộ luật dân sự và Nghị định số 86/CP ngày
19/12/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản.
Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 86/1996/CP thì Người
bán đấu giá là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản bán đấu giá
được thành lập theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, do Sở Tư pháp trực tiếp quản lý.
Người bán đấu giá cũng có thể là doanh nghiệp nhà nước được thành
lập theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần được thành lập theo Luật Công ty hoạt động bán đấu
giá chuyên nghiệp và không kinh doanh ngành nghề khác do Sở Tư
pháp quản lý về nghiệp vụ. Cũng theo quy định tại Nghị định này thì
việc bán đấu giá tài sản được tiến hành sau khi người có tài sản bán
đấu giá ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản với người bán đấu
giá, xác định giá khởi điểm để bán đấu giá. Người bán đấu giá tài sản
phải niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá, tài sản bấn đấu
giá, giá khởi điểm…Người muốn tham gia đấu giá bất động sản hoặc

động sản có giá khởi điểm từ mười triệu đồng trở lên phải đăng kí mua
11


chậm nhất là hai ngày trước ngày mở cuộc bán đấu giá và phải nộp
một khoản tiền đặt trước bằng 1% giá khởi điểm.
Ngày 07 tháng 04 năm 1997 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số
399/PLDSKT hướng dẫn một số quy định về bán đấu giá tài sản. Ở đa
số địa phương, quán triệt tinh thần Nghị định số 86/CP và Thông tư số
399/PLDSKT ngày 07 tháng 04 năm 1997 của Bộ Tư pháp, các trung
tâm đã tổ chức bán đấu giá công khai, rộng rãi, đúng trình tự, thủ tục;
khách hàng tham gia đấu giá ngày càng nhiều. Giá tài sản bán được
phần lớn tăng hơn nhiều so với giá khởi điểm, làm lợi cho người có tài
sản bán đấu giá. Khoản lệ phí nộp ngân sách đạt được chỉ tiêu mà các
Trung tâm đề ra, đảm bảo cho hoạt động bán đấu giá được liên tục và
có hiệu quả.
Nghị định số 86/1996/CP là văn bản pháp luật quan trọng đặt nền
móng cho dịch vụ đấu giá trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nội
dung của Nghị định số 86/1996/CP được ban hành trong những năm
đầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam nên vẫn
chứa đựng nhiều các điều khoản bất cập, hạn chế nhất định, không
còn phù hợp và cần thay đổi cho hợp với thực tế.
Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010.
Ngày 18/01/2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản được ban hành thay thế Nghị định số 86/1996/CP,
ngay sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư
pháp đã ban hành Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số
quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP.
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP là văn bản pháp luật chuyên ngành,
là cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển dịch vụ bán đấu giá tài sản

trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, cùng với
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì còn có nhiều văn bản quy phạm pháp
luật cùng điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản như Bộ luật Dân sự
năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật quản lý và sử dụng tài
sản nhà nước năm 2008; Luật kinh doanh bất động sản năm 2006;
12


Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi
bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002, Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
bán đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất
hoặc cho thuê đất. Nghị định số 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10
năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày
29 tháng 10 năm 2004 về thi hành án luật đất đai; Nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 quy định bổ sung về việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Thông tư liên tịch
số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng dẫn về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất và Tổ chức phát triển quỹ đất.
Sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP được ban hành, hoạt động
bán đấu giá tài sản đã đạt được những kết quả đang kể, tạo ra cơ sở
pháp lý quan trọng đối với việc củng cố và phát triển các tổ chức bán
đấu giá tài sản ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, góp phần
thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản và đáp
ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật về

hoạt động bán đấu giá tài sản trong thời kỳ này còn nhiều vấn đề bất
cập.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay.
Ngày 04/03/2010, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản được ban hành thay thế Nghị định số 05/2010/NĐCP. Ngay sau khi Nghị định số 17/2010/NĐ-CP có hiệu lực thi hành,
Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày
06/12/2010 hướng dẫn thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Ngày
13


05/01/2012 Bộ tài chính ban hành thông tư số 03/2012/TT-BTC về
hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí đấu giá,
phí tham gia đấu giá và lệ phí cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá tài
sản. Sau đó ngày 16 tháng 03 năm 2012 Bộ tài chính tiếp tục ban
hành thông tư số 48/2012/TT-BTC về hướng dẫn việc xác định giá
khởi điểm và chế độ tài chính trong hoạt động đấu giá quyền sử dụng
đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuế đất.
Kể từ khi Nghị định 17/2010/NĐ-CP có hiệu lực và được triển
khai có hiệu quả đã góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp hóa và tiếp
tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, thúc đẩy hoạt
động bán đấu giá phát triển, góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc
làm cho một bộ phận người lao động, ngăn ngừa tiêu cực, tránh thất
thoát tài sản, nhất là tài sản công, bảo đảm quyền lợi cho các tổ chức
bán đấu giá tài sản, tổ chức có tài sản và người tham gia đấu giá. Tuy
vậy, trong thực tiễn thi hành thì một số quy định của nghị định
17/2010/NĐ-CP vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, bất cập cần được sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp.
2. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong hoạt động bán
đấu giá tài sản khi triển khai Nghị định số 17/2010/NĐ-CP và
các văn bản pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản.

Khó khăn, vướng mắc của Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày
04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản.
Đa số các địa phương đã quan tâm, chỉ đạo sâu sát việc triển
khai kịp thời việc thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Bên cạnh đó
vẫn còn một số địa phương chậm triển khai như Bạc Liêu, Lai Châu,
Phú Thọ…
Hơn nữa, hệ thống pháp luật về bán đấu giá tài sản hiện hành
chưa đồng bộ. Hoạt động bán đấu giá tài sản đang được điều chỉnh
bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật và chưa có sự thống nhất quy
định của pháp luật chuyên ngành về bán đấu giá (Nghị định số
14


17/2010/NĐ-CP) với các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như
Luật Thương mại, Luật tần số vô tuyến điện, Luật Viễn thông, Luật Đất
đai, Luật Khoáng sản, Luật Chứng khoán, Luật Quản lý và sử dụng tài
sản nhà nước…Ngoài ra, còn có nghị định của Chính phủ, Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư liên tịch của Bộ, ngành quy định
về trình tự, thủ tục bán đấu giá. Trình tự, thủ tục quy định tại một số
văn bản này còn phức tạp, nhiều điểm chưa hợp lý, không khả thi gây
khó khăn cho quá trình thực hiện (ví dụ, quy định về thời hạn niêm yết,
thông báo công khai còn quá dài..). Văn bản pháp lý chuyên ngành có
giá trị cao nhất về bán đấu giá tài sản mới chỉ là Nghị định nên phạm
vi, đối tượng điều chỉnh còn hạn chế và chưa khắc phục được những
mâu thuẫn, chồng chéo về quy trình, thủ tục bán đấu giá tài sản giữa
các văn bản hiện hành, làm giảm hiệu quả của hoạt động bán đấu giá,
gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về bán đấu giá, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ dẫn đến tiêu cực, gây thất thoát tài sản, nhất là tài sản
Nhà nước.
Về trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản.

- Về thời hạn đăng kí mua tài sản bán đấu giá: quy định tại điểm g
Khoản 3 Điều 28 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định thời hạn đăng
kí mua tài sản đấu giá do từng tổ chức bán đấu giá quyết định sẽ dẫn
đến tình trạng tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền lợi khách hàng khi đăng
kí mua tài sản.
- Về bước giá: có thể thấy chưa có quy định cụ thể về mức chênh lệch
của mỗi lần trả giá nên đã gây khó khăn cho các tổ chức bán đấu giá
tài sản trong thực tiễn áp dụng.
- Về việc niêm yết bán đấu giá tài sản: có khá nhiều vướng mắc trong
việc thực hiện niêm yết bán đấu giá tài sản. Những vướng mắc này có
thể xuất phát từ nguyên nhân thể chế hoặc do những nguyên nhân
khách quan gặp phải trong quá trình thực hiện.
Việc quy định thời gian niêm yết. Cụ thể, Điều 28 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP quy định thời gian niêm yết bán đấu giá tài sản là bất
15


động sản chậm nhất 30 ngày là quá dài; hơn nữa, thủ tục xin chủ
trương đấu giá của tỉnh/thành phố, thủ tục lập phương án đấu giá và
thủ tục phê duyệt kết quả trúng đấu giá mất nhiều thời gian trong bối
cảnh thị trường bất động sản không ổn định, giá khởi điểm trước đó
sẽ không sát với giá quyền sử dụng đất tại thời điểm đấu giá dẫn tới
tâm lý e ngại đăng ký tham gia đấu giá quyền sử dụng đất, làm giảm
hiệu quả của hoạt động bán đấu giá tài sản.
Vướng mắc về quy định địa điểm niêm yết, cụ thể, việc niêm yết
bán đấu giá tài sản tại nơi có bất động sản theo như quy định tại Điều
28 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP rất khó thực hiện khi phải tiến hành
niêm yết tại khu bán đấu giá là khu đất trống.
Bên cạnh vướng mắc về thể chế, thì vấn đề chủ tài sản và chính
quyền sở tại cản trở hoặc không hợp tác trong việc niêm yết bán đấu

gia tài sản Thi hành án hoặc tài sản bất động sản, trong khi đó, các tổ
chức bán đấu giá thường không nhận được sự hỗ trợ kịp thời từ phía
các cơ quan chức năng khi thực hiện việc niêm yết.
- Về việc xử lý tiền đặt trước khi người trúng đấu giá không hoàn thành
nghĩ vụ tài chính: trong trường hợp người mua được tài sản bán đấu
giá, đặc biệt với tài sản là quyền sử dụng đất công không hoàn thành
nghĩa vụ tài chính theo quy định (không nộp hoặc chậm nộp tiền) theo
pháp luật về bán đấu giá tài sản thì không được thu tiền đặt trước của
người mua tài sản bán đấu giá nhưng chưa có quy định cụ thể để làm
căn cứ xử lý trong trường hợp này, gây ảnh hưởng đến hiệu quả công
tác bán đấu giá.
- Về quy định bán đấu giá trong trường hợp chỉ có một người tham gia:
Điều 37 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định việc bán đấu giá khi chỉ
có một người tham gia bán đấu giá không áp dụng trong trường hợp
bán đấu giá quyền sử dụng đất, quy định này không phù hợp với tình
hình hiện nay là thị trường bất động sản đang “đóng băng”, số lượng
người đăng ký tham gia đấu giá tài sản ít, do đó, quy định như vậy sẽ
làm hạn chế những người có nhu cầu mua bất động sản, giảm hiệu
16


quả của hoạt động bán đấu giá tài sản và công tác bán đấu giá quyền
sử dụng đất cũng gặp nhiều khó khăn hơn.
- Về quy định bán đấu giá không thành: Nhiều ý kiến cho rằng hiện nay
chưa có quy định cụ thể hặc hướng dẫn mang tính quy phạm đối với
trường hợp bán đấu giá không thành theo quy định tại Điều 104 Luật
Thi hành án dân sự và quy định bán đấu giá không thành tại các Điều
38, Điều 39 của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP đã gây nên rất nhiều
khó khăn, vướng mắc cho các tổ chức bán đấu giá tài sản trong thực
tiễn.

- Về quy định giảm giá tài sản để tổ chức bán đấu giá lại: Điều 49 Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP quy định việc giảm giá tài sản không quá 10%
giá khởi điểm sau mỗi cuộc bán đấu giá không thành, quy định này
còn kẽ hở, dẫn đến thất thoát tài sản. Bên cạnh đó, vẫn chưa có quy
định cụ thể về trình tự hoàn trả để giảm giá và mức giá bao nhiêu %
giá khởi điểm cho mỗi lần giảm giá đối với 03 loại tài sản: Tài sản nhà
nước, tài sản đảm bảo, quyền sử dụng đất gây khó khăn cho các tổ
chức bán đấu giá trong thực tiễn thực hiện.
- Về giao tài sản: những bất cập trong việc giao tài sản, bao gồm cả
chuyển giao tài sản để bán đấu giá và chuyển giao tài sản cho người
trúng đấu giá đã ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của người dân
khi mua tài sản bán đấu giá.
Một số tổ chức bán đấu giá tài sản đã phản ánh về việc cơ quan
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính khi ra quyết định tịch thu tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính không thực hiện chuyển giao
đúng thời hạn quy định, cộng thêm điều kiện về kho bãi cho nên việc
quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện không đảm bảo dẫn đến ảnh
hưởng tới giá trị tài sản. Do việc chuyển giao không kịp thời nên khi tổ
chức bán đấu giá tài sản đã bị hư hỏng, giá trị không còn do đó làm
thất thoát không nhỏ nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhất là các
phương tiện giao thông như: xe máy, ô tô…
17


Đặc biệt, tại hầu hết các địa phương để phản ánh các tổ chức
bán đấu giá tài sản còn gặp khó khăn trong việc chậm giao tài sản bảo
đảm và tài sản thi hành án cho người trúng đấu giá nên đã gây áp lực
rất lớn cho các tổ chức bán đấu giá và người trúng đấu giá. Nguyên
nhân của việc chậm hoặc không giao được tài sản có thể do người
phải thi hành án có hành vi đe dọa hoặc tài sản thi hành án liên quan

đến bản án bị khiếu nại kéo dài. Từ đó, khách hàng thường có tâm lý
e ngại tham gia mua tài sản thi hành án.
- Về hủy kết quả bán đấu giá tài sản: Quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều
48 Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản
thi hành án phải do sự thỏa thuận giữa người có tài sản bán đấu giá,
người mua được tài sản bán đấu giá, tổ chức bán đấu giá tài sản và
người thi hành án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (bản án bị
kháng nghị của cơ quan có thẩm quyền, quyết định đình chỉ thi hành
án..) thì người phải thi hành án không hợp tác cơ quan thi hành án để
hủy kết quả bán đấu giá. Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
người mua được tài sản bán đấu giá, vì tài sản không thể giao được,
mà giao dịch cũng không thể hủy được để người mua được tài sản
bán đấu giá nhận lại tiền.
- Về mức thu phí: Việc áp dụng mức thu phí của người tham gia đấu giá
và mức phí bán đấu giá được thanh toán như hiện nay còn quá thấp,
không đảm bảo cho hoạt động bán đấu giá; đặc biệt trong trường hợp
phải thực hiện thông báo nhiều lần, hoặc qua giảm giá nhiều lần mới
bán được.
Về công tác quản lý.
- Về cơ chế phối hợp giữa Sở Tư pháp và Sở Kế hoạch đầu tư: Hệ
thống văn bản pháp luật hiện nay còn thiếu quy định về cơ chế phối
hợp giữa cơ quan quản lý (Sở Tư pháp) và cơ quan cấp phép (Sở Kế
hoạch đầu tư) đối với các doanh nghiệp có chức năng bán đấu giá tài
sản nên nhiều khi Sở Tư pháp không nắm được các doanh nghiệp có
18


chức năng bán đấu giá tại địa phương mình nên không thể tiến hành
thanh tra, kiểm tra hoạt động bán đấu giá tài sản và yêu cầu các
doanh nghiệp này báo cáo. Hơn nữa, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP chỉ

quy định trách nhiệm của doanh nghiệp phải thông báo cho Sở Tư
pháp nơi đặt trụ sở chính mà không quy định về việc báo cáo cho Sở
Tư pháp nơi đặt trụ sở Chi nhánh và Văn phòng đại diện gây khó khăn
trong công tác quản lý hoạt động bán đấu giá taì sản tại nơi có Chi
nhánh và Văn phòng đại diện của doanh nghiệp bán đấu giá tài sản
mà trụ sở chính của doanh nghiệp đặt tại các tỉnh, thành phố khác.
- Về thẩm quyền cấp thẻ Đấu giá viên: Pháp luật cần quy định cấp thể
đấu giá viên là Sở Tư pháp. Vì hiện nay, Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ
hành nghề đấu giá thì sẽ gửi Quyết định về việc cấp Chứng chỉ hành
nghề đấu giá cho Sở Tư pháp nơi người được cấp chứng chỉ hành
nghề đấu giá thường trú. Nhưng chủ yếu các đấu giá viên ngay sau
khi được cấp chứng chỉ hành nghề không hành nghề tại nơi mình
đăng kí hộ khẩu thường trú mà hành nghề ở tỉnh, thành phố khác.
Vậy, quy định Sở Tư pháp có thẩm quyền cấp Thẻ đấu giá viên cho
những đấu giá viên hành nghề tại địa phương mình quản lý sẽ thuận
lợi cho công tác quản lý. Hơn nữa, theo quy định hiện hành thì việc
Giám đốc trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và doanh nghiệp bán
đấu giá tài sản tự cấp thẻ đấu giá viên cho mình là không hợp lý.
- Về việc đăng kí danh sách đấu giá viên: Do pháp luật chưa có quy
định chặt chẽ về đăng kí danh sách đấu giá viên nên Sở Tư pháp gặp
khó khăn trong việc quản lý các đấu giá viên đang hành nghề trên địa
bàn và xác định các trường hợp phải thu hồi chứng chỉ, đặc biệt trong
trường hợp các đấu giá viên không làm việc thường xuyên tại các tổ
chức bán đấu giá, không còn hoạt động trong lĩnh vực bán đấu giá tài
sản hoặc không điều hành cuộc bán đấu giá trong vòng 01 năm trừ
trường hợp có lí do chính đáng.
- Về mức xử phạt vi phạm hành chính: Mức phạt vi phạm hành chính
cao nhất đối với hoạt động bán đấu giá tài sản theo qui định của pháp
19



luật hiện nay còn thấp so với giá trị tài sản, chưa đủ tính răn đe đối với
các đối tượng vi phạm. Do vậy, nhiều đối tượng đã có dấu hiệu lợi
dụng hoạt động bán đấu giá tài sản là tài sản vi phạm hành chính bị
tịch thu sung quỹ Nhà nước nhằm hợp pháp hóa các tài sản buôn lậu
hoặc không rõ nguồn gốc gây khó khăn trong công tác quản lý nhà
nước.
Các vấn đề khác.
- Về bán đấu giá tài sản hình thành trong tương lai: Pháp luật hiện hành
chưa có quy định về bán đấu giá tài sản hình thành trong tương lai
nên khi đưa ra bán đấu giá khó xác định được giá khởi điểm và trình
tự, thủ tục bán đấu giá.
- Về tiêu chí lựa chọn tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất: Do chưa
có văn bản hướng dẫn về các điều kiện, tiêu chí cụ thể để cơ quan
giao xử lý việc bán đấu giá quyền sử dụng đất có cơ sở thực hiện việc
xem xét, lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc
bán đấu giá quyền sử dụng đất, đảm bảo sự cạnh tranh lạnh mạnh
trong việc tham gia đấu giá quyền sử dụng đất nên gặp nhiều khó
khăn trong tổ chức, lựa chọn tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất.
- Về chế độ đãi ngộ đối với Đấu giá viên: Trên thực tế, so với các chức
danh khác như Trợ giúp viên, Chấp hành viên, Thanh tra viên, Công
chứng viên…vẫn chưa có chính sách, chế độ đãi ngộ với Đấu giá
viên. Trong khi Đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá cũng có trách
nhiệm và phải chịu áp lực rất lớn. Nếu quy định đãi ngộ với đấu giá
viên tương xứng như các chức danh Tư pháp khác sẽ tạo động lực
cho các đấu giá viên chuyên tâm hơn trong khi hành nghề đấu giá tài
sản.
- Về thành lập và hoạt động của Hội đồng bán đấu giá: Có thể thấy hiện
nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào là “quyền sử dụng đất có giá trị
lớn, phức tạp” quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 17/2010/NĐCP dẫn tới nhiều cách hiểu khác nhau, từ đó dẫn tới tình trạng thành

lập Hội đồng bán đấu giá tài sản một cách tràn lan.
20


Đối với Hội đồng bán đấu giá cấp huyện và Hội đồng bán đấu giá
trong trường hợp đặc biệt thì hầu hết các thành viên của Hội đồng làm
việc theo chế độ kiêm nhiệm và chưa được tập huấn về công tác bán
đấu giá nên quá trình thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế; chưa duy trì
điều độ thông tin báo cáo với các cơ quan quản lý nhà nước, các cuộc
bán đấu giá hầu như chưa ký hợp đồng với đấu giá viên theo quy
định, việc thanh tra, kiểm tra khó thực hiện.. gây khó khăn trong công
tác quản lý nhà nước.
Ngoài những khó khăn về thể chế, còn tình trạng nhiều địa
phương trong quá trình tổ chức thực hiện đã không thực hiện nghiêm
túc quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản. Sở Tư pháp thực hiện
chưa tốt công tác thanh tra, kiểm tra, chế độ báo cáo, hướng dẫn
nghiệp vụ, đào tạo bồi dưỡng tại địa phương; chưa kịp rà soát, tham
mưu, kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về hoạt động bán đấu giá tài
sản trên địa bàn. Công tác phối hợp với các Sở, ban, ngành trong
quản lý hoạt động bán đấu giá tài sản trên địa bàn chưa hiệu quả.
Khó khăn vướng mắc trong từng lĩnh vực cụ thể có liên quan
đến hoạt động bán đấu giá.
Bán đấu giá quyền sử dụng đất.
- Đến nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về các điều kiện,
các tiêu chí cụ thể để cơ quan được giao việc xử lý đấu giá quyền sử
dụng đất có cơ sở thực hiện việc đấu thầu, xem xét, lựa chọn tổ chức
bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá quyền sử dụng
đất, đảm bảo sự cạnh tranh lạnh mạnh trong việc tham gia đấu thầu tổ
chức bán đấu giá quyền sử dụng đất nên gặp nhiều khó khăn trong tổ
chức, lựa chọn tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất.

- Quyết định 216/2005/QĐ-TTg quy định về đấu giá quyền sử dụng đất,
chi phí bán đấu giá do ngân sách cấp (sau khi trừ nguồn từ nguồn phí
tham gia của khách hàng), tuy nhiên đối với những hợp đồng thực
hiện trước thời điểm Thông tư 48/2010/TT-BTC có hiệu lực thì Trung

21


tâm, doanh nghiệp vẫn chưa được ngân sách cấp phần chi phí này
gây khó khăn cho đơn vị trong quá trình hoạt động.
- Bán đấu giá quyền sử dụng đất có vị trí xa trung tâm, ở vùng sâu vùng
xa, khu vực biên giới rất khó khăn, mất nhiều thời gian, chi phí cho
mỗi cuộc bán đấu giá tốn kém, trong khi giá trị quyền sử dụng đất lại
rất thấp.
- Một số nơi khi tiến hành quy hoạch, phê duyệt phương án đấu giá
quyền sử dụng đất chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật về đất
đai, các thửa đất vẫn chưa được bồi thường, giải phóng mặt bằng,
vẫn còn có nhà trên đất; nhiều vùng quy hoạch dân cư đưa ra đấu giá
nhưng chưa đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nên chưa hấp dẫn được
người mua.
Bán đấu giá tài sản, tang vật vi phạm hành chính.
- Điều 49 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định về việc giảm giá tài sản
không qua 10% giá khởi điểm sau mỗi cuộc bán không thành, quy
định này còn kẽ hở, chưa chặt chẽ dẫn đến thất thoát tài sản.
- Ý thức chấp hành pháp luật về bán đấu giá của một số đơn vị chưa
nghiêm, cá biệt có đơn vị khi bán đấu giá tài sản là hàng tịch thu sung
quỹ Nhà nước không chuyển giao cho Trung tâm mà tự bán tài sản
nhưng không có đấu giá viên điều hành theo đúng quy định của pháp
luật.
- Việc chuyển giao tài sản bán đấu giá: Các cơ quan có thẩm quyền

quản lý vi phạm hành chính khi ra quyết định tịch thu sung quỹ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính không thực hiện việc chuyển
giao đúng thời hạn quy định. Do điều kiện về kho bãi quản lý, bảo
quản tang vật, phương tiện không đảm bảo ảnh hưởng đến giá trị tài
sản. Việc chuyển giao không kịp thời nên khi tổ chức đấu giá thì tài
sản đã bị hư hỏng, giá trị không còn do đó làm thất thoát không nhỏ
nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhất là các phương tiện giao
thông như xe máy, xe ô tô….
22


- Có dấu hiệu lợi dụng hoạt động bán đấu giá tài sản là tài sản vi phạm
hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước nhằm hợp pháp hóa các tài
sản buôn lậu hoặc không rõ nguồn gốc.
Bán đấu giá tài sản Thi hành án.
- Trong một số trường hợp (bản án bị kháng nghị của cơ quan có thẩm
quyền, quyết định đình chỉ thi hành án..) thì người phải thi hành án
không hợp tác với cơ quan thi hành án để hủy kết quả bán đấu giá.
Điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người mua được tài sản
bán đấu giá, vì tài sản không thể giao được, mà giao dịch cũng không
thể hủy được để người mua được tài sản bán đấu giá nhận lại tiền.
- Khó khăn trong việc chậm giao tài sản thi hành án cho người trúng
đấu giá gây nên áp lực cho tổ chức bán đấu giá với người trúng đấu
giá. Khách hàng ngại tham gia mua tài sản thi hành án vì liên quan
đến bản án bị khiếu nại, người phải thi hành án có hành vi đe dọa,
không chấp hành giao tài sản; ngoài ra việc chậm thanh toán chi phí
thực tế bán đấu giá tài sản thi hành án cho tổ chức bán đấu giá cũng
gây khó khăn trong hoạt động của tổ chức.
- Trường hợp Toàn án nhân dân Tối cao hủy bản án Phúc thẩm sau khi
đã bán đấu giá xong. Điều này dẫn đến tình trạng bản án không còn

hiệu lực pháp luật nhưng tài sản của người bị kê biên thì không được
đảm bảo, không được khôi phục như tình trạng ban đầu, nó sẽ ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Từ đó rất dễ phát sinh tranh chấp
giữa một bên là người có tài sản bị kê biên và một bên là người mua
được tài sản vì quyền lợi của bên mua được tài sản không được đảm
bảo.

23


Bán đấu giá tài sản Nhà nước.
- Quy định về bán đấu giá tài sản Nhà nước nhưng chỉ có 01 người
tham gia mua chưa được rõ ràng nên khó thực hiện.
Tài sản giao dịch đảm bảo.
- Đối với tài sản giao dịch đảm bảo hiện nay một số Ngân hàng nhà
nước đã tự tổ chức thông báo bán đấu giá tài sản, không đúng theo
quy định của pháp luật về giao dịch đảm bảo. Mặt khác, trong trường
hợp người có tài sản đảm bảo không tự nguyện giao tài sản thì sẽ gặp
nhiều khó khăn trong việc cưỡng chế thi hành.
Hiện tượng thông đồng, dìm giá trong đấu giá vẫn diễn ra phức
tạp.
- Có trường hợp người tham gia đấu giá bị mua chuộc, khống chế,
không cho đấu giá đến mức giá thực của tài sản, hoặc muốn mua
được tài sản thì phải trả một khoản tiền để thông đồng, cưỡng ép
người khác trả giá mua sát với giá khởi điểm tài sản. Mặc dù Nghị
định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ
trợ tư pháp có quy định xử phạt đối với loại hành vi này, nhưng các
hành vi này đều diễn ra bên ngoài và trước khi tổ chức cuộc bán đấu
giá nên đấu giá viên hầu như không thể kiểm soát được các hoạt
động này, dẫn đến hiệu quả đấu giá không cao, gây thiệt hại cho

người có tài sản bán đấu giá.
Quy định về mức thu phí tham gia đấu giá và mức phí của tổ
chức bán đấu giá được thanh toán không đảm bảo cho hoạt
động của tổ chức bán đấu giá.
- Việc áp dụng mức thu phí tham gia đấu giá và mức phí của tổ chức
bán đấu giá được thanh toán theo Thông tư số 03/2012/TT-BTC và
thông tư số 48/2010/TT-BTC ngày 16/3/2012 còn quá thấp, không
đảm bảo cho hoạt động của tổ chức bán đấu giá; đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay việc bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu giá tài
sản thi hành án nói riêng phải thực hiện thông báo nhiều lần hoặc qua
24


giảm giá nhiều lần mới bán được.

Vì vậy cần có sự điều chỉnh bổ

sung mức phí đấu giá cao hơn hiện nay mới đảm bảo cho các tổ chức
hoạt động bán đấu giá.
Quy định về tài sản bán đấu giá mang tính khái quát, không cụ
thể.
- Quy định tại Khoản 2, Điều 1 và Khoản 4, Điều 2 Nghị định số
17/2010/NĐ-CP đã liệt kê một số tài sản bán đấu giá, gồm động sản,
bất động sản, giấy tờ có giá trị và các quyền tài sản được phép giao
dịch theo quy định của pháp luật là không thể hiện đầy đủ về nội hàm
các loại tài sản và tài sản bán đấu giá theo quy định của Bộ luật Dân
sự và Luật Thương mại. Việc quy định không cụ thể này sẽ gây khó
khăn trong thực tiễn bán đấu giá một số loại tài sản có tính chất pháp
lý đặc thù như bán đấu giá tài sản hình thành trong tương lai, tài sản
là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia; bán đấu giá quyền tài sản (quyền

khai thác tài nguyên thiên nhiên, quyền sở hữu trí tuệ, quyền đối với
phần góp vốn trong công ty…)
Việc thành lập Hội đồng đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất
có giá trị lớn, phức tạp chưa được hương dẫn cụ thể.
- Đối với việc bán đấu giá tài sản nhưng trong trường hợp đặc biệt tại
Điều 20 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, Điều 12 Thông tư số
23/2010/TT-BTP chưa có hướng dẫn cụ thể tài sản là quyền sử dụng
đất có giá trị lớn, phức tạp. Nên các địa phương gặp nhiều khó khăn
khi thành lập Hội đồng đấu giá quyền sử dụng đất có giá trị lớn, phức
tạp. Đây là một trong những nội dung vướng mắc trong đấu giá quyền
sử dụng đất theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP cần sớm được tháo gỡ.

25


×