Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận môn lịch sử báo chí nhà báo trương vĩnh ký

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.57 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ

Đề tài:
MỘT NHÀ BÁO VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG TRƯỚC NĂM 1945


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................5
1.

Cuộc đời sự nghiệp của nhà báo Trương Vĩnh Ký.............................5

1.1

Cuộc đời..................................................................................................5

1.2

Sự nghiệp................................................................................................5

1.2.1. Con đường sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký........................................5
1.2.2. Sự nghiệp làm báo.................................................................................6
2.

Tác phẩm báo chí tiêu biểu...................................................................7

2.1. Gia Định báo.............................................................................................7
2.1.1. Phân tích Gia Định báo.........................................................................9
2.2. Tập san Thơng Loại Khố Trình..........................................................10


3. Phương pháp làm báo...............................................................................12
4.

Bài học kinh nghiệm............................................................................13

KẾT LUẬN.....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................16

2


LỜI NĨI ĐẦU
Báo chí Việt Nam ra đời từ thế kỷ XVIII đến nay đã phát triển ở một
mức độ nhất định và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Trong khoảng thời
gian một thế kỷ rưỡi ấy, báo chí quốc ngữ vừa thực hiện vai trò “thư ký lịch
sử” với những ghi chép lưu trữ các sự kiện của nhiều giai đoạn thăng trầm
trong đời sống chính trị - văn hóa - xã hội nước nhà, vừa tham gia q trình
“làm nên lịch sử” dẫu trong vai trị là tiếng nói, cơ quan ngơn luận, cơng cụ
hay là một thành phần khơng thể thiếu của các thể chế chính trị từng tồn tại
trên đất nước này. Sự phát triển của báo chí nước nhà có được như vậy do
nhiều nhân tố trong đó nhân tố khách quan là sự ra đời và phát triển của khoa
học kỹ thuật, nhân tố chủ quan đó là sự đóng góp to lớn của những nhà báo,
đặc biệt là những người tiên phong trong việc đặt nền móng cho lịch sử báo
chí nước nhà.
Báo chí Việt Nam thực sự thốt thai từ cái nôi của chế độ thuộc địa, sự
ra đời của báo chí trùng khít với bước chân xâm lược của người Pháp vào
nước ta, khi ấy chữ quốc ngữ chưa được phổ biến rộng rãi, bị giới nho học
khinh miệt và chỉ được dùng trong cộng đồng Thiên Chúa giáo. Người đã có
cơng trong việc phá đá mở núi, dọn đường cho chữ quốc ngữ phát triển và cho
tiền đồ của nền văn học Việt Nam, người đó chính là Jean Baptiste Petrus

Trương Vĩnh Ký, thường gọi là Petrus Ký, một nhà Tây học, nho học, nhà
biên soạn từ điển và sách giáo khoa, nhà khảo cứu, phiên dịch và cũng là tác
giả của một số truyện và ký. Trương Vĩnh Ký đặc biệt quan tâm đến việc
bước đầu hoàn thiện và phổ biến chữ quốc ngữ. Với tầm nhìn hết sức sáng
suốt, ông thấy rõ giá trị, tác dụng vô cùng lớn lao của công cụ biểu đạt này,
nên đã mạnh dạn đưa nó thóat khỏi bốn bức tường kín của tu viện và đặt nó
giữa lịng cuộc sống, trước hết là trường học (Trường thơng ngơn Sài Gịn mà
ơng là Hiệu trưởng) và báo chí (Gia Định báo, tờ báo đầu tiên của nước ta mà
ông là chủ bút).
3


Trong bài luận này, chúng ta cùng ngược dòng thời gian đi tìm hiểu về
Trương Vĩnh Ký - nhà báo đầu tiên của đất nước ta, để hiểu thêm về những
dấu ấn đậm nét và các tác phẩm báo chí của ông.

Nhà bác học Trương Vĩnh Ký
(06/12/1837 – 01/09/1898)

4


NỘI DUNG
1. Cuộc đời sự nghiệp của nhà báo Trương Vĩnh Ký
1.1 Cuộc đời
Trương Vĩnh Ký sinh ngày 06 tháng 12 năm
1837 dưới thời vua Minh Mạng, tên thật là Trương
Chánh Ký, theo đạo cơng giáo nên có tên thánh là:
Jean-Baptiste Petrus Ký. Ông sinh ra ở ấp Cái Mơn,
cã Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyễn

Chợ Lách, tỉnh Bến Tre). Petrus Ký được cho đi học
chữ Hán từ năm lên 5 tuổi. Năm lên chín, có hai nhà
truyền giáo là Cố Hoà, Cố Long biết được Trương
Vĩnh Ký là một nhân tài vừa thông minh lại chăm học nên đem về trường
Dòng ở Cái Nhum dạy chữ Latin. Ông học hai năm ở giaó đường Cái Nhum,
ba năm ở trường đạo Pônhalư (Campuchia) và tám năm ở chủng viện
Dulaima ( Penang, Malaisia). Tại những nơi này, đặc biệt là ở Dulaima, ông
được học với nhiều thầy giỏi và tiếp xúc với bạn học ở nhiều nước khác nhau.
Với trí thơng minh phi thường, với tinh thần cần cù hiếm thấy, Trương Vĩnh
Ký luôn luôn là một học sinh xuất sắc toàn diện. Riêng về ngoại ngữ, lúc mới
22 tuổi (năm 1859) ơng đã có thể sử dụng thơng thạo 15 ngôn ngữ phương
Tây và 11 ngôn ngữ phương Đông.
Năm 21 tuổi (1858), Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ
còn một năm nữa là tốt nghiệp để chịu chức linh mục, thì vào lúc giữa năm,
ơng phải vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời.
1.2

Sự nghiệp

1.2.1. Con đường sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký
Năm 1860, ông nhận lời làm phiên dịch cho Pháp.
Năm 1863, là thành viên của phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp.
Sau khi về nước, ông hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và báo chí. Năm
5


1866, làm hiệu trưởng trường đào tạo thông dịch viên ở Sài Gòn. Năm 1869
làm chủ nhiệm Gia Định báo.
Năm 1886 được toàn quyền Paul Bert vốn là giáo sư đại học Bordeaux,
viện sĩ viện hàn lâm Pháp mà ông đã kết giao thân mật từ chuyến đi Pháp cử

làm cố vấn cho vua Đồng Khánh với tư cách Hàn lâm viện thị giảng học sĩ.
Ông đã tham mưu cho nhà vua làm một số điều ích quốc lợi dân (đào kinh
Mang Cá ở Huế, đắp đường ở Quảng Nam v.v…). Dù được mời mọc, ông
cũng không chịu nhập quốc tịch Pháp cũng như không nhận những chức vụ
cao trong bộ máy hành chính của Pháp.
Những năm cuối đời, ơng chun tâm dạy học và viết sách. Ơng đã góp
phần đào tạo cho đất nước hàng ngàn trí thức trẻ và để lại cho kho tàng văn
hóa dân tộc và nhân loại hơn 120 tác phẩm về nhiều chuyên ngành: ngơn ngữ,
lịch sử, địa lý, pháp luật, kinh tế, chính trị, sinh học, văn học v.v… Những
cơng trình này đã có tác dụng khai sáng cho thế hệ trẻ, mở mang sự hiểu biết:
hiểu biết thiên nhiên, hiểu biết xã hội, hiểu biết con người.
Lúc sinh thời, Trương Vĩnh Ký được giới khoa học Châu Âu tôn trọng,
đánh giá rất cao. Ông được mời làm hội viên các hội Nhân chủng học, Địa lý
Paris, Giáo dục nhân văn và khoa học… Năm 1874, ông được phong Giáo sư
ngôn ngữ Á Đông và được tôn vinh là một trong mười tám “toàn cầu bác học
danh giá” ngang với những tên tuổi lẫy lừng của phương Tây thời đại đó.
1.2.2. Sự nghiệp làm báo
Người Việt làm báo trước nhất trong buổi đầu báo chí sơ khai, khơng ai
khác hơn là Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Trước khi Gia Định báo được ông tiếp
quản năm 1869, thì trước đó, cây bút họ Trương đã cộng tác viết bài cho báo
Pháp ngữ rồi. Ông đã viết rất nhiều sách báo giới thiệu đất nước và con người
Việt Nam, dĩ nhiên bằng tiếng Pháp: Souvenirs historiques sur Saigon et ses
environs, Précis de géographie de l’Indochine, Produits de l’Annam,
Dictionnaire biographique Annamite,v.v.

6


Sau này Trương Vĩnh Ký còn tự bỏ tiền túi để xuất bản tập san
Miscellanées (Thơng loại khố trình), ra năm 1888, gồm 18 số, đây là một tập

san có những bài sưu tầm vui và bổ ích cho mọi lứa tuổi. Nội dung tờ nguyệt
san được viết bằng chữ quốc ngữ, tuy nhiên nhan đề lại được viết bằng chữ
Hán và chữ Pháp. Chủ ý của ông là việc phổ biến chữ quốc ngữ không chỉ
trong học đường mà cịn ở mọi gia đình.
Tuy nhiên hoạt động báo chí chỉ chiếm một phần nhỏ trong quá trình
hoạt động văn hóa của Trương Vĩnh ký, sự nghiệp của ơng là một đóng góp
lớn lao vào nền văn hóa Việt Nam.
2.

Tác phẩm báo chí tiêu biểu
Trang nhất của tờ Gia Định Báo

2.1. Gia Định báo
Ngày 15/4/1865, Gia Định Báo – tờ báo Việt ngữ đầu tiên chính thức ra
mắt tại Sài Gịn. Khởi thủy là một tờ cơng báo tiếng Pháp của Soái phủ Nam
kỳ (Courrier de Saigon, ấn hành năm 1864) dịch ra chữ Quốc ngữ, những ấn
bản Gia Định Báo ban đầu có hình thức đơn giản, chỉ thuần thông tin công vụ,
đăng tải công văn, nghị định của chính quyền thuộc địa. Tuy nhiên, trải qua
44 năm tồn tại (15/4/1865 – 31/12/1909), tờ công báo in bằng chữ Quốc ngữ
7


này đã có những bước hồn thiện, cách tân mạnh mẽ để trở thành một tờ báo
thành một tờ báo đại chúng, phục vụ nhu cầu thông tin – giao tiếp, mở mang
kiến thức – kỹ năng và thư giãn – giải trí cho người dân, đảm bảo cả hình
thức lẫn nội dung thông tin, từ cách tổ chức đến vận hành tòa soạn, xứng đáng
trở thành cột mốc đánh dấu sự ra đời của nền báo chí Việt Nam. Đây cũng là
tờ báo có quảng cáo đầu tiên ở Việt Nam.
Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân
Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đơng Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và

giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng
tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra báo của
Gia Định báo khơng cố định, khi thì Thứ Ba, Thứ Tư, lúc lại Thứ Bảy. Số
trang của Gia Định báo cũng khơng cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang.
Trương Vĩnh Ký là người tiên phong trong việc sáng lập nền báo chí
Việt Nam. Tờ “Gia Định báo” khi còn Ernest Poteau quản nhiệm chỉ là một
bản tin, một bản dịch Việt văn của tờ Coarrier de Sài Gịn nhưng khi đến tay
ơng quản nhiệm (Ngày 16/9/1869) thì tờ báo khác hẳn. Về hình thức tờ báo
không thay đổi nhiều, nhưng về nội dung ông đã có những cách tân đáng kể
và tập trung vào 3 chủ đích: cổ động tân học, truyền bá quốc ngữ và giáo dục
quốc âm. Tờ báo đã một mình tung hoành trên 30 năm cuối thế kỷ 19 và nơi
tập hợp nhiều nhà báo nổi tiếng sau này như Trương Minh Ký, Huỳnh Tịnh
Của...
Nội dung của tờ báo bao gồm 2 phần: cơng vụ và tạp vụ, về sau có
thêm phần mở rộng (phần khảo cứu, nghị luận).
Phần công vụ chun về lĩnh vực chính trị, pháp lý và cơng quyền với
tài liệu bằng tiếng Pháp do Nha nội vụ cung cấp và được ông Trương Vĩnh
Ký dịch ra chữ quốc ngữ. Phần này đăng tải các sắc lệnh, nghị định, thơng tư,
đạo lệnh, chỉ dụ…. của Chính quyền Bảo hộ Pháp và Triều đình Nguyễn;
những tin về cấp bằng, thăng chức, hạ chức, bãi chức, thuyên chuyển công

8


tác, hoạt động quân sự, biên bản các cuộc họp của Hội đồng Quản hạt, những
tin “dây thép” của hãng Hanas…
Phần tạp vụ đề cập nhiều lĩnh vực: kinh tế, tơn giáo, văn hóa, xã hội…
với các mục như lời dặn, khuyến cáo, rao giảng mang tính tuyên truyền hành
chính; những tin liên quan đến lạm phát, giá cả, sưu thuế, các báo cáo về tình
hình canh nơng, thương mại, kỹ nghệ, địa chính .v.v… Có cả một số bản

tường thuật về lễ đón, lễ hội, cuộc chiêu đãi, đám tang…
Phần mở rộng có giá trị và sức cuốn hút nhất. Đây là phần khảo cứu,
nghị luận về văn hóa, đạo đức, phong tục, lễ nghi, tư tưởng, lịch sử, thơ
văn .v.v…
Tờ báo được phát không đến các trường học để học sinh dùng như bài
tập đọc, và theo đó đã giúp quảng bá chữ Quốc ngữ trong người dân và
khuyến khích tân học.
2.1.1. Phân tích Gia Định báo
Gia Định Báo là tờ báo Quốc ngữ đầu tiên và cũng là tờ báo được định
hướng rất rõ ràng trong việc phổ biến chữ Quốc ngữ cho dân chúng. Bởi vì,
Gia Định Báo là tờ báo Quốc ngữ đầu tiên đã mang lại cho nền văn học nước
nhà một luồng gió mới làm thay đổi những nề nếp cũ có quá nhiều ảnh hưởng
Trung Hoa, cũng như tạo cho người dân Việt Nam một cách sống mới, hiểu
biết dần thời cuộc, ý thức tham gia chính sự.
Đa số các bài trên Gia Định Báo đều bằng văn xuôi, ngắn gọn, đơn
giản, theo cách nói của người miền Nam, và đàng hồng theo lễ giáo Việt
Nam. Chữ quốc ngữ trên Gia Định Báo như ghi lại tiếng nói thường ngày của
mọi người, câu văn và cách dùng chữ giản dị, dễ hiểu, tương đối của thời đó,
nếu so với sau này.
Tuy cịn nhiều điểm hạn chế: chưa phân biệt rõ văn phong nói và viết
nên tính chất nơm na, khẩu ngữ khá đậm nét, hình thức mỹ thuật chưa đẹp…
nhưng với nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phổ biến, cổ vũ chữ
tiếng Việt (quốc ngữ), cung cấp những kiến thức, thông tin mọi mặt cho nhân
9


dân, trong suốt 44 năm tồn tại, Gia Định báo đã hồn thành sứ mệnh lịch sử
của mình, xứng đáng là tờ báo tổng hợp có giá trị cao và tạo tiền đề cho báo
chí Việt Nam phát triển.
Riêng về giá trị của Gia Định báo, Vũ Ngọc Phan viết: “Chẳng hạn như

tờ Gia Định Báo đã mở đường cho báo chí ở trong miền Nam nói riêng và
trên tồn quốc nói chung. Vì so với miền Bắc thì miền Nam được biết báo chí
bằng quốc ngữ sớm hơn 40 năm. Ở miền Bắc, năm 1892 chỉ mới có tờ Đại
Nam Đồng Văn Nhật Báo viết bằng chữ Hán và phải chờ đến năm 1905 mới
có tờ báo đầu tiên bằng quốc ngữ bên cạnh những bài bằng chữ Hán là tờ Đại
Việt Tân Báo”.

2.2. Tập san Thơng Loại Khố Trình
Tờ báo chữ quốc-ngữ thứ nhì và thứ nhất do tư nhân - là Trương Vĩnh
Ký, xuất-bản đầu tiên năm 1888 là tập san Thơng Loại Khóa Trình phía trên
có hàng chữ Hán 通 類 課 程 (Thơng loại khóa trình), phía dưới là hàng chữ
Miscellannées ou Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires
communales et cantonales. Số 1 và 2 không ghi ngày tháng, từ số 3 ghi Juillet
1888, như vậy số 1 có thể ra vào tháng 5-1888. Và số cuối cùng là số 18 ra
10


tháng 10-1889. 6 số báo cuối được ghi số lại, từ số 1 (Mai 1889) đến 6
(Octobre 1889). Khổ báo 16 x 23,5 cm; từ số 1 đến số 3 mỗi số có 12 trang, từ
số 4 trở đi, mỗi số có 16 trang.
Trong lời Bảo (tức lời phi lộ) của số 1, Trương Vĩnh Ký nói về mục
đích của báo: “Coi sách dạy (tức sách giáo khoa) lắm, nó cũng nhàm; nên
phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú. Vậy ta tính làm ra một
tháng đơi ba kì, một tập mỏng mỏng nói chuyện sang đàng, chuyện tam hồng
cuốc chí, pha phách lộn lạo xào bần để cho học trò coi chơi cho vui. Mà
chẳng phải chơi khơng vơ ích đâu, cũng là những chuyện con người ta ở đời
nên biết cả. Có ý có chí thì lâu nó cũng thấm, như là trí con trẻ còn đang sáng
láng sạch sẻ, tinh thần còn minh mẫn, tươi tốt như tờ giấy bạch, như sáp mềm,
vẽ vời, uốn sửa sắc nào thế nào cũng còn đặng: tre còn măng dễ uốn, con còn
nhỏ dễ dạy.

Tuy về sau có ghi thêm đối tượng là gia đình nhưng nội dung và
khuynh hướng vẫn như vậy. Ấn phẩm có mục đích cổ động những điều hay
và đẹp của phong hóa cũ, phổ biến văn hóa dân tộc kể cả văn thơ chống Pháp
của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tri Phương, Bùi Hữu Nghĩa,... Có thể xem
Thơng loại khố trình là tạp-chí chuyên về văn- học Việt-Nam đầu tiên tuy
chủ yếu đăng những bài sưu tầm và dịch thuật. Việc sưu tầm không chọn lọc,
chỉ cốt thu thập được những tác phẩm văn học dân gian (để biết qua hoặc để
học hỏi): các bài hát dân ca, hò, vè, những câu ca dao, câu đố, phương ngôn,
tục ngữ, chuyện vui. Về văn học thành văn, có những bài diễn Nơm, những
áng văn hay của người xưa như hịch, phú, văn tế, thơ Đường luật. Ngồi ra
cịn các ghi chép về phong tục tập quán, lịch sử, địa lý; những sưu tập về
tuồng, chèo, truyện,... Những bài như Vè Nằm Dỏ nói đến việc canh phịng
trong làng mạc. Tất cả chứng tỏ Trương Vĩnh Ký cũng có tinh thần dân tộc,
chống Pháp, chớ không phải theo nịnh thực dân như những xuyên tạc của
cộng sản và tàn dư ở hải ngoại.

11


3. Phương pháp làm báo
Trong số 11 ra ngày 8/4/1870 Trương Vĩnh Ký kêu gọi cộng tác viên
như sau:
"Lời cùng các thầy thông ngôn, ký lục, giáo tập... đặng hay: Nay việc
làm Gia Định Báo tại Sài Gòn ở một chỗ nên khơng có lẽ mà biết các việc
mới lạ các nơi trong sáu tỉnh mà làm cho thiên hạ coi; nên xin các thầy cứ mỗi
tuần hay là nửa tháng hãy viết những chuyện mình biết tại chỗ, tại xứ mình ở
như: ăn trộm, ăn cướp, bệnh hoạn, tai nạn, rủi ro, hùm tha, sấu bắt, cháy chợ,
cháy nhà, mùa màng thể nào, tại sở nghề nào thạnh hơn...".
Có thể thấy phương pháp làm báo của ơng cịn là khai thác những vấn
đề xã hội rất gần gũi quần chúng. Ông cũng đặc biệt chú ý đến những “cái

mới”- những thông tin thời sự kịp thời về những sự việc, sự kiện, con người,
tình huống, hồn cảnh tiêu biểu, điển hình mới xuất hiện, vừa nảy sinh trong
đời sống hàng ngày. Theo cách ơng hướng dẫn làm báo thì ai cũng có thể làm
báo, khơng khác gì cách làm báo mạng ngày nay.
Tác giả Vũ Ngọc Phan từng nhận định:“Cũng như một số văn sĩ sinh ra
ở miệt vườn phương Nam, nhà báo họ Trương chủ trương dùng một thứ chữ
dễ dãi, như tiếng nói thường ngày, khơng một chút chải chuốt, sang sửa, viết
như nói, khơng hoa mỹ, cầu kỳ, nhưng có ý thức giữ gìn sự trong sáng, phong
phú của ngôn ngữ dân tộc, nhưng không dung tục, thực dụng, ngôn ngữ vỉa
hè, văn chương cống rãnh, mà là ngơn ngữ của những người bình dân tự
trọng, có văn hóa”
Bài vở đều của Trương Vĩnh Ký viết, từ số 6 có thêm các bài văn vần
của Trương Minh Ký diễn Nôm giải nghĩa các câu chữ Hán, và từ số 7 thêm
bài của những cộng tác viên mới như Huình Tịnh Paulus Của, Trần Chánh
Chiếu, Lương Khắc Ninh, Léon Trương Vĩnh Viết (thứ nam của TVK),
Antoire Trần Hữu Hạnh, Nguyễn Khắc Huề,...
Về nội dung gồm có các đề mục: Dạy chữ Nhu (chữ Hán), Dạy chữ
Pháp (thời bấy giờ gọi là Phang sa hay Lang sa), Giảng nghĩa về luân lý,
12


Khảo cứu về thi ca, phong tục. Nhơn vật (danh nhân). “Thơ”, “Truyện”,
“Trang văn hóa”, “Vui cười”, ngồi ra có các mục “Cho hay” hoặc “Cho ai
nấy đặng hay” giống với mục “Lời tịa soạn”, mở đầu thì có mục “Bảo” tương
đương với “Lời nói đầu” của báo chí sau này. Những bài viết chứng tỏ tinh
thần và thái độ của chủ bút trân trọng, chân thành và cởi mở: “Xin kẻ coi sách
hoặc có thấy lớp lang sắp đặt, hoặc có điều khoản nào chẳng ưng bụng thì xin
cho ta hay mà sửa lại” (“Cho ai nấy đặng hay”, số 11, tháng 3 năm 1889).
Thơng loại khố trình là một tờ học báo (tự học, vì khơng theo chương
trình nào) đầu tiên, đưa văn-chương đến người đọc và giúp tập làm vănchương. Báo tồn tại được 18 tháng thì phải đình bản do vấn đề kinh phí hoạt

động: mỗi số, chỉ bán được gần 500 bản, nhưng chậm thu hồi vốn và bị thiếu
hụt. Chủ bút ngao ngán thừa nhận: “Thật là hữu hằng tâm nhưng ngặt nỗi bất
hữu hằng sản nên đành...” Bài Cho hay trong số cuối cùng (tháng 10/1889)
chua chát lý giải: “Nay vì bởi khơng có vốn cho đủ in ln Thơng loại khố
trình nữa nên ta cực chẳng đã, phải đình in”.
4.

Bài học kinh nghiệm

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà báo Trương Vĩnh Ký – nhà báo chính
thức đầu tiên trong lịch sử nước nhà đã mang đến những bài học kinh nghiệm
cho những nhà báo trẻ tương lai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “ Nhiệm vụ của báo chí là tuyên
truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng
đến mục đích chung.” Cả cuộc đời làm báo của Trương Vĩnh Ký cũng dựa
trên một mục đích rõ ràng đó là phổ biến chữ quốc ngữ cho người dân, ông
cũng đã viết rằng :
“Trong các tác phẩm của tôi không bao giờ đi lệch mục đích chính là
sự biến cải và đồng hóa dân tộc An Nam (theo tiêu chuẩn Ki-tơ giáo Pháp)...
Đệ trình với quý vị những tác phẩm này, tôi khẩn xin q vị thẩm định mục
đích mà tơi đã đề ra khi soạn thảo, và nếu quí vị nghĩ rằng những tác phẩm đó
có thể là một lợi khí của tiến bộ và là một phương tiện thích hợp để tạo ra
13


trong lúc này, sự thay đổi và đồng hóa mà nhà cầm quyền (thực dân Pháp)
đang tìm cách thực hiện ở xứ này có lợi cho những kẻ thần phục mới của nhà
cầm quyền, tôi mong rằng qúy vị sẽ góp phần vào việc xuất bản những sách
này.”
Đó là một tinh thần hết mình vì nhân dân, một tấm lịng mong muốn xã

hội sẽ phát triển và tốt đẹp hơn.
Qua đó, có thể thấy để làm một nhà báo tốt, trước hết phải đặt lợi ích
của nhân dân lên hàng đầu. Người làm báo cần có mục đích, tư tưởng trong
sáng, khách quan, không vụ lợi, nhận định vấn đề một cách rõ ràng. Làm
nghề cần có trách nhiệm với nghề, phụng sự và cống hiến hết mình cho xã
hội. Nói một cách khái qt, nhà báo phải ln suy nghĩ và hành động trước
hết vì lợi ích của nhân dân và đất nước, phải đặt “cái ta cộng đồng” trên “cái
tơi cá nhân”.
Khơng chỉ vậy, nhìn vào con đường học vấn của Trương Vĩnh Ký, có
thể thấy rằng ơng là người học sâu hiểu rộng, có tầm nhìn lớn, từ đây, ta có
thể rút ra bài học thứ hai là những người làm báo cần có phơng kiến thức văn
hố-xã hội sâu rộng và khơng ngừng được bổ sung, cập nhật. Nhà báo cần
phải liên tục trau dồi, tích luỹ kiến thức văn hoá-xã hội để trở thành người có
tầm hiểu biết rộng lớn. Có như vậy, các tác phẩm báo chí mới đủ độ sâu, mới
đạt tới các giá trị văn hố để chinh phục cơng chúng.
Với sự am hiểu về ngoại ngữ của mình (sử dụng thơng thạo tới 26 ngôn
ngữ ở tuổi 22), Trương Vĩnh Ký mới có thể cộng tác với các tờ báo tiếng
Pháp để giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam. Thực tế cho thấy,
ngoại ngữ là phương tiện quan trọng giúp nhà báo khai thác các nguồn thông
tin bằng tiếng nước ngoài, mở mang tri thức mọi mặt, học hỏi kinh nghiệm
của báo chí thế giới, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp;
qua đó, hội nhập hiệu quả và đạt tới đẳng cấp quốc tế. Bác Hồ cũng từng nói:
“Trong nghề làm báo, ta có kinh nghiệm của ta, nhưng ta cũng cần phải học
thêm kinh nghiệm của các nước anh em. Muốn thế, thì những người làm báo
14


ít nhất cũng cần biết một thứ tiếng nước ngoài”. Do đó, nhà báo nên thành
thạo một hoặc nhiều ngoại ngữ, nhất là các ngoại ngữ thông dụng.


15


KẾT LUẬN
Báo chí Việt Nam chỉ mới hiện diện được gần 150 năm nhưng đã phát
triển nhanh chóng và cũng đã đa dạng với nhiều thay đổi, thăng trầm theo
dòng lịch-sử của dân tộc.
Không thể phủ nhận công lao to lớn, vai trò quan trọng của Trương
Vĩnh Ký trong lịch sử báo chí nước nhà. Cả cuộc đời làm báo, soạn sách, Ông
đã để lại cho chúng ta một di sản văn hoá đồ sộ. Trương Vĩnh Ký đã khẳng
định vị trí của ơng là vị trí của một nhà văn hoá tiên phong qua việc truyền bá
chữ quốc ngữ với tờ Gia Định báo, qua sự đóng góp đa dạng và phong phú
với 118 tác phẩm thuộc nhiều thể loại và qua việc mở đường cho nhiều lãnh
vực văn hoá.
Học hỏi từ Trương Vĩnh Ký cũng những bậc tiền bối những người đã
có cơng đóng góp cho nền báo chí nước nhà là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhà
báo vững mạnh, góp phần đưa sự nghiệp báo chí nước nhà phát triển tương
đồng với báo chí quốc tế trong quá trình hội nhập.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16

1.

Huỳnh Ái Tơng, Báo chí và nhà văn Quốc ngữ thời sơ khởi

2.

Nhiều tác giả, Gia Định báo – Tờ báo Việt ngữ đầu tiên




×