Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Quản trị tài sản nợ Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.49 KB, 46 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. NH
2. NHNN
3. CN
4. TSN
5. DTBB
6. TNCLS
7. NNCLS
8. TCTD
9. TCKT&DC
10. Sacombank
11. ALCO
: Ngân hàng
: Ngân hàng Nhà nước
: Chi nhánh
: Tài sản nợ
: Dự trữ bắt buộc
: Tài sản nhạy cảm lãi suất
: Nợ nhạy cảm lãi suất
: Tổ chức tín dụng
: Tổ chức kinh tế và dân cư
: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
: Ủy ban quản lý tài sản nợ - tài sản có
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, BIỂU ĐỒ
Bảng 1. Số dư huy động tiền gửi của khách hàng giai đoạn 2008 – 2010
Bảng 2. Giá trị huy động giấy tờ có giá
Bảng 3. Định mức bình quân theo từng loại tiền
Bảng 4. Tiền gửi và tiền vay liên ngân hàng
Bảng 5. Dư nợ cho vay phân theo kỳ hạn
Bảng 6. Dư nợ phân theo chất lượng nợ vay
Bảng 7. Một số chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng


Bảng 8. Khe hở nhạy cảm với lãi suất
Biểu đồ 1. Chênh lệch tài sản nợ - tài sản có nhạy cảm lãi suất
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng của đề tài nghiên cứu
Thị trường tài chính - tiền tệ giai đoạn 2010 - 2012 với nhiều biến động; tình trạng lạm
phát cao, lãi suất leo thang, thanh khoản nóng, chính sách mở rộng tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước là những điểm nổi trội cho giai đoạn nửa cuối năm 2011 đến cuối năm
2012; tiếp sau đó là thời kỳ suy giảm kinh tế trong nước kéo dài cho cả giai đoạn
2009 - đến nay dưới những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái thế
giới. Do đó, diễn biến của thị trường tài chính tiền tệ giai đoạn này đã ảnh hưởng đến
các mặt hoạt động của ngân hàng, trong đó có cân đối TSN - TSC. Thêm vào đó xu
thế hội nhập quốc tế yêu cầu hoạt động quản trị ngân hàng cần được hiện đại hóa để
phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên hoạt động quản trị TSN - TSC trong hệ thống
ngân hàng hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, có thể dẫn đến các rủi ro trong hoạt động
kinh doanh trước những biến động của thị trường tài chính, đặc biệt là rủi ro lãi suất,
rủi ro thanh khoản, và điều này không là ngoại lệ đối với Sacombank. Vì vậy, việc cải
tiến nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị TSN - TSC là cần thiết để giảm thiểu rủi ro
và gia tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, cũng như phù hợp với chuẩn
mực kinh doanh quốc tế lĩnh vực ngân hàng. Với ý nghĩa thực tiễn như trên, nhóm
chọn đề tài “Quản trị tài sản nợ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận này nêu ra một bên của cân đối quản trị TSN - TSC với nội dung chính yếu
trong hoạt động quản trị TSN của NH nói chung cũng như thực trạng hoạt động này
tại Sacombank. Việc hoàn thành tiểu luận này nhằm trả lời các vấn đề sau:
- Dựa vào lý thuyết quản trị TSN để đánh giá công tác quản trị TSN hiện tại của
Sacombank.
- Những đề xuất mang ý nghĩa thực tiễn nhằm hoàn thiện hoạt động quản
trị TSN tại Sacombank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu cơ sở lý luận tổng quan về quản trị TSN của NHTM,

quản trị rủi ro lãi suất, quản trị khe hở kỳ hạn, quản trị thanh khoản và tỷ giá, các công
cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất và khe hở kỳ hạn cho NH.
Tập trung vào phân tích, đánh giá hoạt động quản trị TSN của Sacombank
giai đoạn 2010-2012 trên một số khía cạnh chính yếu như cơ cấu tổ chức quản
trị TSN; đánh giá các khoản mục chính yếu trong cơ cấu TSN; quản trị rủi ro lãi
suất và thanh khoản; cơ chế điều hòa vốn. Từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn
thiện hoạt động quản lý TSN tại Sacombank.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, tổng
hợp số liệu, so sánh, phân tích, đánh giá về mặt định tính và định lượng các tài liệu
thực tế về hoạt động quản trị TSN của Sacombank nhằm giải quyết các vấn đề được
đặt ra trong phần mục tiêu nghiên cứu của luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về quản trị TSN trong NHTM. Trong chương này
trình bày các khoản mục của TSN, các yêu cầu và phương pháp quản trị TSN,
đồng thời cũng đề cập đến quản trị rủi ro lãi suất, quản trị khe hở kỳ hạn, quản trị
thanh khoản và tỷ giá, các chiến lược quản trị TSN, các công cụ phái sinh và các yêu
cầu đối với quản trị TSN dựa trên Basel.
Chương 2: Thực trạng quản trị TSN tại Sacombank. Chương này giới thiệu về
bộ máy tổ chức quản lý TSN - TSC của NH, và tập trung phân tích cơ cấu TSN, công
tác quản trị thanh khoản, cơ chế điều hành lãi suất, cơ chế điều hòa vốn và rủi ro lãi
suất trong hoạt động kinh doanh của NH.
Chương 3: Kiến nghị góp phần hoàn thiện hoạt động quản trị TSN cho
Sacombank. Chương này trình bày việc áp dụng các công cụ phái sinh trong phòng
ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh của NH, đồng thời cũng đưa ra một số kiến
nghị khác cho cả Sacombank và NHNN nhằm hoàn thiện quản trị TSN cho
Sacombank.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ QUẢN TRỊ TÀI SẢN NỢ TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

1.1 Quản trị tài sản nợ
1.1.1 Những vấn đề chung quản trị tài sản nợ
1.1.1.1 Khái niệm quản trị tài sản nợ
Quản trị TSN là quản trị nguồn vốn phải trả của NH nhằm đảm bảo NH luôn có
đủ nguồn vốn để duy trì và phát triển một cách hiệu quả hoạt động kinh doanh, đồng
thời đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh khoản ở mức độ chi phí thấp nhất.
1.1.1.2 Các yêu cầu quản trị tài sản nợ
- Phải chấp hành quy định của luật pháp và cơ quan quản lý trong quá trình tìm
kiếm nguồn vốn cho NH như:
 TCTD không được huy động vốn quá nhiều so với vốn tự có nhằm đảm bảo
khả năng chi trả về sau.
 Áp dụng lãi suất huy động phù hợp so với cơ chế quản lý về lãi suất của
NHNN.
- Phải đảm bảo hai yêu cầu chi phí thấp và quy mô cao của nguồn vốn huy
động.
Đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu thanh khoản của NH, hạn chế đến mức tối đa sự
sụt giảm đột ngột về nguồn vốn của NH.
- Sử dụng các công cụ huy động vốn đa dạng để hạn chế rủi ro và phù hợp với đặc
điểm hoạt động của NH.
1.1.2 Các thành phần của tài sản nợ
1.1.2.1 Các tài khoản giao dịch
- Tải khoản tiền gửi không kỳ hạn (tài khoản tiền gửi giao dịch, thanh toán).
Với mục đích chính là sử dụng dịch vụ thanh toán của NH nên đây là loại tiền gửi
khách hàng có thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào, do đó khi NH sử dụng làm nguồn
vốn kinh doanh thì rủi ro rất cao nên phải dự trữ nhiều hơn so với các loại tiền gửi
khác.
- Tài khoản vãng lai: thường áp dụng với những khách hàng có uy tín, NH có
thể cho thấu chi đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ tài khoản để
đảm bảo khả năng trả nợ. Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau các tài khoản khách nợ,
chủ nợ hay phải thu phải trả.

1.1.2.2 Các tài khoản phi giao dịch
Đây là loại tiền gửi định kỳ như tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tiền gửi tiết
kiệm của cá nhân. Đối với loại tiền gửi này, khách hàng chỉ được rút tiền ra theo một
kỳ hạn quy định trước và không được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Mục
đích người gửi là hưởng lợi tức. Do đó, NH phải trả lãi cao hơn tiền gửi không kỳ hạn,
là loại tiền gửi ổn định nên NH thường sử dụng cho vay trung – dài hạn.
1.1.2.3 Vay vốn trên thị trường tiền tệ
- Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân
hàng: là trường hợp NH có lượng tiền gửi tại NHNN thấp không đủ đáp ứng cho nhu
cầu chi trả. Khi đó, dưới sự tổ chức của NHNN, NH này sẽ được vay của một
NH khác có lượng tiền gửi dư thừa tại NHNN, vì khoản cho vay là một bộ phận của
tiền gửi thanh toán nên thời gian vay thường chỉ là một ngày (vay qua đêm). Ngoài ra,
các NH có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau không qua thị trường liên ngân hàng.
- Vay NHTW: NHTW sẽ tiếp vốn (cho vay) đối với các NHTM thông qua
nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá trị hoặc
cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà NHTM xuất trình.
- Phát hành những chứng chỉ tiền gửi: là giấy chứng nhận đã gửi tiền vào NH
có thể chuyển nhượng được có hưởng lãi suất tùy theo sự thỏa thuận giữa khách hàng
với người phát hành.
- Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu NH.
1.1.2.4 Vay ngắn hạn qua hợp đồng mua lại (Repurchase agreement – RP)
Hợp đồng mua lại thực chất là thỏa thuận bán tạm thời chứng khoán chất lượng
với tính thanh khoản cao (cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu chính phủ sắp đến hạn thanh toán
… ) kèm theo thỏa thuận sẽ mua lại các chứng khoán này tại một thời điểm trong
tương lai với mức giá xác định trong hợp đồng. Giao dịch này có thể là qua đêm
hoặc vài tháng, tùy thuộc vào nhu cầu vốn của NH và khả năng vốn của chủ
thể mua chứng khoán. Thông thường lãi suất hợp đồng mua lại rất thấp so với lãi suất
huy động NH.
Số tiền vay * Lãi suất hiện hành của RP * Số ngày vay theo hợp đồng (1.1)
1.1.3 Phương pháp quản trị tài sản nợ

1.1.3.1 Thực hiện các chính sách và biện pháp đồng bộ để khơi tăng
nguồn vốn NH
- NH sử dụng các đòn bẩy kinh tế (lãi suất và các công cụ khác) giúp NH có thể
khai thác, huy động các nguồn vốn cần thiết. Biện pháp này linh hoạt, nhạy bén có thể
giúp NH đáp ứng được nhu cầu vốn trong những trường hợp cần thiết và cấp bách.
Tuy nhiên nếu sử dụng chính sách lãi suất và các công cụ khác không đúng sẽ gây ra
những tổn hại cho NH, gia tăng chi phí, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh
của NH.
- Cải tiến, nâng cấp các thiết bị, phương tiện trong công tác huy động vốn
nhằm đảm bảo cho việc thanh toán được nhanh chóng, chính xác, thuận tiện hơn.
- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, phải tạo ra và cung ứng cho
khách hàng nhiều loại hình dịch vụ tiền gửi nhằm thu hút nguồn tiền gửi trên thị
trường.
- Hoàn thiện và phát triển mạng lưới huy động vốn gồm mạng lưới truyền thống
(CN, phòng giao dịch,…) và các mạng lưới hiện đại (ATM, thẻ tín dụng,…).
- Tạo lập, củng cố, duy trì, phát triển mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài, bền vững
giữa khách hàng và NH. NH cần tổ chức có hiệu quả hoạt động tuyên truyền, quảng
cáo để cộng đồng hiểu rõ hơn về thanh thế, uy tín, chất lượng cũng như tính ưu việt,
độc đáo của dịch vụ của NH nhằm thu hút khách hàng.
- NH cần tạo lập và phát triển đội ngũ cán bộ NH vừa nắm vững chuyên môn,
vừa nắm vững chủ trương, chính sách, vừa có khả năng giao tiếp ứng xử để tạo ra hình
ảnh đẹp về NH cả nội dung và hình thức.
1.1.3.2 Sử dụng các công cụ cơ bản để tìm kiếm nguồn vốn
Khi nhu cầu vốn phát sinh vượt quá khả năng thanh khoản, NH vay theo thứ tự:
- Vay qua đêm: thực hiện trong trường hợp sang ngày tiếp theo NH sẽ có
được nguồn thu tương ứng.
- Vay tái cấp vốn của NHNN
- Sử dụng hợp đồng mua lại, phát hành chứng chỉ tiền gửi mệnh giá lớn để
huy
động vốn, vay nước ngoài,…

1.1.3.3 Đa dạng hóa các nguồn vốn huy động và tạo cơ cấu nguồn vốn sao
cho phù hợp với những đặc điểm hoạt động của NH
Đối với các NH bán lẻ chủ yếu là cho vay ngắn hạn để bổ sung nhu cầu tiêu
dùng, nhu cầu vốn lưu động của cá nhân và doanh nghiệp nên trong tổng nguồn vốn,
tiền gửi không kỳ hạn phải chiếm tỷ trọng cao để đảm bảo chi phí huy động vốn thấp.
Đối với NH bán buôn thì chủ yếu cho vay trung dài hạn nên đòi hỏi nguồn vốn chiếm
tỷ trọng cao là các loại tiền gửi định kỳ, tiền gửi có kỳ hạn.
1.1.3.4 Tận dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn
Căn cứ Thông tư số 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009 của NHNN quy định:
- Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn của tổ chức tín dụng như sau:
 Ngân hàng thương mại: 40%
 Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính: 30%
 Quỹ tín dụng nhân dân: 30%
- Nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung hạn, dài hạn của TCTD (Phụ lục
1).
1.3 Chiến lược quản lý tài sản nợ
1.3.1 Chiến lược quản lý tài sản
- Không phải lúc nào NH cũng có thể đánh giá tổng thể và toàn diện về danh
mục TSN của mình. Bởi vậy, đã có một thời gian dài trong lịch sử NH chỉ dùng các
nguồn vốn, bao gồm nợ (vốn huy động) và vốn chủ sở hữu, cơ bản để cho vay. Đây là
quan điểm quản lý tài sản. Lý thuyết này cho rằng khách hàng là yếu tố chính
quyết định quy mô và loại hình của các nguồn vốn mà NH có thể huy động.
- Những quyết định then chốt của NH chỉ giới hạn trong lĩnh vực quản lý tài
sản, không gồm lĩnh vực quản lý nguồn tiền gửi và các khoản vay mượn khác. NH chỉ
tiến hành quản lý quá trình phân bổ các nguồn vốn huy động thông qua việc quyết
định khách hàng nào sẽ được vay vốn và hợp đồng vay vốn gồm những điều khoản
nào.
- Chiến lược này phù hợp với giai đoạn chưa nới lỏng các quy định quản lý
ngành NH, khi NH còn hạn chế trong khả năng tái cấu trúc nguồn vốn của mình.

1.3.2 Chiến lược quản lý nợ
Để đương đầu với xu hướng gia tăng lãi suất và cạnh tranh gay gắt về nguồn
vốn, các NH bắt đầu quan tâm tới khơi mở những nguồn vốn mới, quản lý cấu trúc và
chi phí của tiền gửi cũng như của các nguồn vốn phi tiền gửi.
- Yếu tố theo chốt cần được quản lý chặt chẽ là giá cả của nguồn vốn hay lãi suất mà
NH phải thanh toán đối với các khoản tiền gửi và các khoản vốn vay nhằm đạt
được mục tiêu về chi phí, quy mô và cấu trúc của nguồn vốn.
- Chiến lược quản lý TSN đối với hầu hết các NH là phát triển vững chắc thị
trường bán lẻ. Những khoản tiền gửi bán lẻ là nguồn vốn chiến lược chính hình thành
sức mạnh của NH. Về mặt kỳ hạn, nguồn vốn bán lẻ có đặc trưng là ngắn hạn, nhưng
những nghiên cứu khảo sát thực tế cho thấy phần lớn số dư của nguồn vốn bán lẻ lại
ổn định thường xuyên giống như những nguồn vốn dài hạn. Để lấy được niềm
tin của khách hàng, NH phải chuẩn bị mạng lưới bán lẻ rộng khắp như triển khai
hệ thống phòng giao dịch, hệ thống chi nhánh và các kênh phân phối điện tử để duy trì
và phát triển ổn định hoạt động bán lẻ; đồng thời NH cũng phải có phương án khả thi
để tồn tại trong cuộc cạnh tranh về lãi suất trên thị trường bán lẻ.
- Đa dạng hóa nguồn vốn nhằm giảm sự phụ thuộc vào bất kỳ một thị trường nào, khu
vực địa lý nào, công cụ huy động vốn nào, kỳ hạn nào, cơ sở khách hàng đầu tư nào
và đồng tiền nào. Khi nguồn vốn là đa dạng cao, thì NH được đảm bảo tốt hơn về
thanh khoản trong mọi điều kiện của thị trường.
- Danh mục TSN của hầu hết các NH thường có xu hướng thâm hụt các nguồn vốn
dài hạn có lãi suất cố định. Kết quả là NH phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ
cho TSC dài hạn. Nhận rõ độ lệch về kỳ hạn giữa TSN và TSC, các nhà quản lý cần
tìm kiếm các phương án để có được một danh mục TSN có kỳ hạn dài hơn. Điều này
sẽ giúp NH tránh được sự không chắc chắn về nguồn vốn trong tương lai, giảm được
tài sản dự trữ có thu nhập thấp và giảm được chi phí có liên quan đến việc phải tuần
hoàn thường xuyên các nguồn vốn ngắn hạn, và cho phép NH cho vay với lãi suất cố
định và tránh được rủi ro lãi suất.
1.3.3 Chiến lược quản lý hỗn hợp
Đây là chiến lược được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, là sự dung hòa

giữa chiến lược quản lý tài sản và chiến lược quản lý nợ với những điểm chính sau:
- Hoạt động quản lý NH cần chú trọng kiểm soát quy mô, cấu trúc, chi phí và thu nhập
của cả hai bên tài sản và nợ.
- Quản lý tài sản và nợ phải là một quá trình thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau nhằm tối đa hóa
thu nhập và kiểm soát chặt chẽ chi phí.
- Thu nhập và chi phí có thể phát sinh từ cả hai phía của bảng cân đối. Do vậy
chính sách của NH cần được điều chỉnh phù hợp nhằm tối đa hóa thu nhập, tối thiểu
hóa chi phí trong mọi hoạt động của NH dù hoạt động đó xuất phát từ phía tài sản hay
nguồn vốn.
1.4 Sơ lược về các công cụ phái sinh
Có hai vấn đề quan trọng ở đây đã thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý là:
sự ổn định trong thu nhập từ lãi - chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi; sự an
toàn đối với giá trị ròng của NH – giá vốn chủ sở hữu. Theo đó, các kỹ thuật và
công cụ quản trị TSN được đưa ra nhằm giúp NH hạn chế những rủi ro trong hoạt
động mà đặc biệt là rủi ro lãi suất. Một số công cụ phái sinh được sử dụng phổ biến
nhằm quản trị rủi ro lãi suất trong hoạt động NH, gồm hợp đồng kỳ hạn (forwards),
hợp đồng tương lai (futures), hợp đồng quyền chọn (options) và hợp đồng hoán đổi
(swaps). Nghiệp vụ phái sinh có thể được sử dụng để phòng ngừa rủi ro lãi suất đối với
một danh mục TSN hay TSC, hay được sử dụng một cách chọn lọc đối với một
bộ phận tài sản nhất định. Việc sử dụng các hợp đồng phái sinh nhằm giúp cố định giá
trị của tài sản, dù lãi suất thị trường có thay đổi như thế nào.
1.4.1 Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán tại thời điểm t
= 0 rằng người mua sẽ thanh toán cho người bán theo giá kỳ hạn đã được thỏa thuận
và người bán sẽ trao hàng cho người mua tại thời điểm hợp đồng đáo hạn.
1.4.2 Hợp đồng tương lai
- Khi hợp đồng kỳ hạn soạn thảo theo các yếu tố được chuẩn hóa như bên dưới thì
được gọi là hợp đồng tương lai, gồm:
 Tài sản ký quỹ đảm bảo ban đầu;
 Ký quỹ bổ sung định kỳ được điều chỉnh theo giá thị trường

 Một bên thứ ba, đáp ứng được các quy định của tổ chức quản lý thị trường,
được chỉ định là đối tác cho tất cả các giao dịch khớp lệnh, cho phép việc cấn trừ
các trạng thái đối lập.
1.4.3 Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là một hợp đồng trong đó người bán chuyển đổi cho
người mua một quyền, nhưng không bắt buộc, để mua hoặc bán một số lượng tài sản
tại một mức giá xác định vào hoặc trước một ngày xác định trong tương lai.Các chiến
lược cơ bản trong giao dịch quyền chọn: mua quyền chọn mua; bán quyền chọn mua;
mua quyền chọn bán; bán quyền chọn bán.
1.4.4 Hợp đồng hoán đổi
1.4.4.1 Giao dịch hoán đổi lãi suất (Interest Rate Swap)
Là việc các bên giao kết hợp đồng với nhau, theo đó mỗi bên cam kết thanh toán
cho bên kia khoản tiền lãi tính theo một loại lãi suất hoán đổi đã cam kết trên cùng một
khoản vốn gốc nhất định (cùng loại tiền) trong cùng một khoảng thời gian nhất định.
Sản phẩm này cho phép người sử dụng thay đổi mức lãi suất của một loại TSN
hoặc TSC để phòng ngừa rủi ro lãi suất nhưng không thay đổi những đặc tính vốn có
của TSN hoặc TSC dùng để hoán đổi lãi suất.
Người thanh toán lãi suất cố định nhìn chung là NH có lợi thế so sánh trong việc
thanh toán lãi suất cố định đối với vốn huy động; trong khi đó, người thanh toán lãi
suất thả nổi nhìn chung là NH có lợi thế so sánh trong việc thanh toán lãi suất thả nổi.
Thông qua giao dịch hoán đổi lãi suất, NH mua nhằm mục đích chuyển việc
thanh toán lãi cho vốn huy động từ hình thức lãi suất thả nổi sang hình thức cố định để
phù hợp với tính chất cố định của nguồn thu từ TSC. Trong khi đó, NH bán nhằm
mục đích chuyển việc thanh toán lãi cho vốn huy động từ hình thức lãi suất cố định
sang hình thức thả nổi để phù hợp với tính chất thả nổi của nguồn thu từ TSC.
1.4.4.2 Hoán đổi lãi suất tiền tệ chéo (Cross Currency Swap)
Là một dạng hợp đồng liên quan đến việc trao đổi vốn và lãi một loại tiền để lấy
vốn và lãi của một loại tiền khác. Vốn được trao đổi vào lúc bắt đầu (tùy chọn) và vào
lúc kết thúc của việc hoán đổi. Hai bên xác định trước tỷ giá hoán đổi nhằm loại trừ
biến động của tỷ giá. Sản phẩm này cho phép khách hàng hoán chuyển hiệu quả TSC

hay TSN từ một loại tiền này thành một loại tiền khác.
1.5 Những yêu cầu đối với quản trị tài sản nợ dựa trên các nguyên tắc của
Basel
Trong nội dung của Basel II, Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel đã nhấn mạnh đến nhu
cầu về những phương pháp và công cụ tinh vi trong lĩnh vực quản lý TSN. Những
yêu cầu mới của Basel đặt ra những thách thức trong việc thiết lập hệ thống quản
trị rủi ro lãi suất. Một hệ thống quản trị TSN đầy đủ cần có những vấn đề dưới đây:
 Phân tích dãy tái định giá về tình huống thực tế của rủi ro tái định giá. Phân
tích đầy đủ hơn trong việc này là dữ liệu trong kỳ của lãi suất chủ chốt, tính toán lại
bảng cân đối kế toán sau khi chuyển dịch mỗi loại lãi suất cơ bản 1 điểm %. Như vậy
sẽ cho thấy độ nhạy của vốn kinh tế theo những thay đổi của mỗi loại lãi suất trên
đường lợi suất. Do vậy, nhà quản trị có thể quyết định những chiến thuật phòng thủ để
hạn chế sự biến động của vốn kinh tế.
 Để bao hàm rủi ro đường lợi suất, hệ thống cần phải định giá lại bảng cân đối
kế toán theo những kịch bản đường lợi suất phức hợp khác nhau. Điều này giúp
người quyết định tạo bảng báo cáo với tình huống xấu nhất có thể.
 Trong kỳ vọng giá trị kinh tế, rủi ro tái định giá phản ánh giá trị thị trường trong
suốt kỳ đầu tiên đến khi tái định giá. Ngược lại, kỳ vọng lợi nhuận xem xét thu
nhập/chi phí trong cả quá trình mô phỏng và không chỉ dừng lại trong khoảng thời
gian đến khi tái định giá hoặc đáo hạn sản phẩm. Do vậy hệ thống quản trị TSN cần
thiết phải có thể mô phỏng hoạt động mới tiềm năng mới theo sau mô hình hành vi
tương tự (ví dụ: thả nổi có điều kiện, trả dần) giống như hoạt động có kỳ hạn. Kết
quả chỉ ra những tác động tái định giá trên khía cạnh thu nhập theo những kịch bản lãi
suất khác nhau.
 Đối với mô hình rủi ro đường lợi suất, chúng ta cần phải đưa nhiều kịch bản đường
lợi suất khác nhau vào hệ thống. Sử dụng những dịch chuyển đường lợi suất phức
hợp, nhà quản trị TSN có thể đánh giá tác động của những dịch chuyển đối với thu
nhập và chi phí của ngân hàng trong khoảng thời gian xác định.
 Hệ thống quản trị TSN - TSC phải cho phép mô hình hóa sản phẩm trả trước và
dịch chuyển cấu trúc giữa các sản phẩm có kỳ hạn xác định và các sản phẩm tái

định giá. Riêng đối với quá trình quản lý rủi ro lãi suất yêu cầu của Basel phải dựa trên
quy trình ba bước từ trên xuống. Đầu tiên, ban giám đốc phê duyệt những chính sách
rủi ro tổng thể và những nguyên tắc để quản lý rủi ro lãi suất. Thứ hai, các quản lý cao
cấp phải thiết lập những chính sách phù hợp và quy trình giám sát, hạn chế rủi ro lãi
suất. Thứ ba, trách nhiệm thi hành những chính sách và định hướng đã được xác định
phải được giao cho một bộ phận hoạt động độc lập. Một sự kiểm soát toàn bộ bên
trong phải được thực hiện để kiểm tra sự chính xác và tuân thủ của quá trình nêu trên.
- Một hệ thống thang đo phải phản ánh hết các nguồn gốc vật chất của rủi ro lãi
suất và đánh giá tác động của những thay đổi lãi suất đối với giá trị thị trường của
vốn kinh tế và lợi nhuận. Về cơ bản, có hai phương pháp nên được thực hiện để phân
tích ảnh hưởng của các nguồn gây rủi ro lãi suất: kỳ vọng giá trị kinh tế và kỳ
vọng lợi nhuận. Phương pháp thứ nhất được biết như là phương pháp tính giá trị hiện
tại bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai bằng suất chiết khấu phù hợp. Phương
pháp thứ hai tập trung vào giá trị danh nghĩa của thu nhập lãi ròng trong tương lai
gần.
- Quản lý rủi ro lãi suất hiện không chỉ còn là yêu cầu pháp lý. Nó cung cấp khả năng
quản lý chủ động rủi ro lãi suất và tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề nền tảng là một hệ
thống quản lý rủi ro có thể cung cấp nhiều lựa chọn chức năng. Nó không chỉ cho
phép nhà quản lý rủi ro phân tích bảng cân đối kế toán tại một thời điểm xác định mà
còn cho phép mô phỏng thu nhập lãi ròng trong những giai đoạn thời gian khác nhau
với những kịch bản về lãi suất, tỷ giá, khối lượng, điều kiện, kỳ hạn khác nhau. Trên
hết, hệ thống cần phải cung cấp được các giải pháp đối với các sản phẩm không kỳ
hạn và bao hàm được các quyền chọn sản phẩm.
Kết luận chương 1
Hoạt động quản trị TSN đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NH, và càng quan trọng hơn khi mức độ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu rộng, yêu cầu về chuẩn mực quản trị, điều hành phải thích ứng, phù hợp với chuẩn
mực quốc tế. Hoạt động quản trị TSN phản ánh được tính hiệu quả trong điều hành,
cân đối giữa nguồn vốn. Trong chương này tập trung tóm lượt một số lý thuyết cơ bản
trong quản trị TSN như chi tiết các khoản mục TSN, các yêu cầu và phương pháp quản

trị TSN, các công cụ phái sinh để từ đó làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng hoạt
động quản trị TSN trong chương 2.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ TÀI SẢN NỢ – TÀI SẢN CÓ TẠI SACOMBANK
2.1 Sơ lược cơ chế điều hành quản trị tài sản nợ – tài sản có của Sacombank
2.1.1 Ủy ban Quản trị tài sản nợ – tài sản có (ALCO)
Nhận biết được tầm quan trọng của hoạt động quảntrị TSN - TSC, ngày
24/02/2005 Hội đồng quản trị đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Ủy ban
quản trị TSN - TSC. Hiện tại Ban lãnh đạo đang phối hợp với các phòng ban liên quan
để điều chỉnh lại quy chế tổ chức và hoạt động của ALCO đề phù hợp hơn với cơ cấu
tổ chức mới của NH cũng như tình hình thị trường và các quy định mới của ngành NH.
Sơ lược một số nội dung về tổ chức; nguyên tắc; nhiệm vụ; cơ chế hoạt
động của ALCO như sau:
2.1.1.1 Tổ chức của Ủy ban quản trị tài sản nợ – tài sản có
Ủy ban do Hội đồng Quản trị của NH quyết định thành lập và trực thuộc Ban điều
hành của NH, bao gồm các thành viên chính thức:
Tổng Giám đốc Chủ tịch Ủy ban
Các Phó Tổng Thành viên Ủy ban
Giám đốc phụ trách các mảng: tiền tệ, tài
chính, quản lý rủi ro, cá nhân, doanh
nghiệp.
Thành viên Ủy ban
Trưởng phòng: Kinh doanh vốn, Tài
chính - Kế toán, Kế hoạch, Quản lý rủi ro,
bộ phận quản trị TSN – TSC.
Cán bộ quản trị TSN - TSC thuộc bộ phận
quản trị TSN - TSC đóng vai trò thư ký
các phiên họp.
2.1.1.2 Các yêu cầu trong điều hành và quản trị tài sản nợ – tài sản có
- Nhận định, theo dõi, kiểm soát rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá.

- Chủ động xác định, kiểm soát biến động bảng cân đối TSN - TSC.
- Chủ động phòng ngừa các rủi ro trên.
- Đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
2.1.1.3 Nhiệm vụ của Ủy ban quản trị tài sản nợ – tài sản có
Với chức năng là vạch ra chiến lược thích hợp nhất cho NH thông qua việc quản
trị danh mục TSN – TSC, Ủy ban ALCO có các nhiệm vụ đề ra chiến lược cũng như
định lượng mục tiêu và triển khai, giám sát đến các bộ phận thực hiện; đánh giá chiến
lược đồng thời dự phóng các chiến lược theo thời gian. Trên cơ sở đó, một cách
chi tiết, Ủy ban ALCO có nhiệm vụ theo dõi, thảo luận, đề ra quyết định của Ủy ban
và đánh giá công tác triển khai các hoạt động sau:
- Hoạt động quản trị rủi ro lãi suất
- Hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản
- Hoạt động quản trị rủi ro ngoại hối/tỷ giá
- Hoạt động huy động vốn của Sacombank
- Hoạt động sử dụng vốn của Sacombank
- Hoạt động quản trị rủi ro khác: bao gồm đánh giá tác động của rủi ro đến cơ
cấu TSN - TSC; và chiến lược phòng ngừa rủi ro khác.
Tính tuân thủ về các chính sách của Sacombank và các chỉ số tài chính theo quy
định của ngành NH cũng như những cam kết với đối tác. Ngoài ra, Ủy ban ALCO
còn thực hiện các nhiệm vụ khác mà Ủy ban ALCO được yêu cầu thực hiện trong
từng thời kỳ.
2.1.1.4 Cơ chế hoạt động của Ủy ban quản trị tài sản nợ – tài sản có
Ủy ban tổ chức họp định kỳ hàng tháng, hàng quý. Các phiên họp bất thường sẽ được
Chủ tịch Ủy ban triệu tập khi cần thiết.
- Ủy ban xem xét và tham mưu các vấn đề nằm trong phạm vi chức
năng và nhiệm vụ thông qua việc biểu quyết công khai theo nguyên tắc đa
số.
- Các kết luận của Ủy ban trong Biên bản cuộc họp là cơ sở để các Phòng
Nghiệp vụ NH triển khai, thực hiện.
2.1.2 Bộ phận đảm trách trực tiếp quản trị tài sản nợ – tài sản có

Hiện tại hoạt động quản trị TSN - TSC đang được Bộ phận quản trị TSN - TSC
thực hiện. Theo cơ cấu tổ chức mới của NH thì bộ phận này trực thuộc khối Tài chính
cùng với Phòng Kế hoạch và Phòng Tài chính Kế toán thay vì trực thuộc phòng Kinh
doanh vốn – khối Tiền tệ như trước đây.
Một số nhiệm vụ chính yếu của bộ phận này bao gồm:
- Quản trị cơ cấu TSN - TSC của NH.
 Phân tích sự phù hợp giữa cơ cấu TSN - TSC và chiến lược kinh doanh của
NH từng thời kỳ.
 Tham mưu giải pháp tái cấu trúc cơ cấu TSN - TSC hiệu quả nhất, nhằm tối
đa hóa dòng tiền. Đánh giá các rủi ro ảnh hưởng đến cơ cấu TSN - TSC của NH.
 Phân tích, đánh giá các rủi ro liên quan đến thanh khoản, lãi suất, tỷ giá, độ
lệch kỳ hạn,… của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
 Đề xuất giải pháp phòng ngừa rủi ro ảnh hưởng đến cơ cấu TSN - TSC.
Lập báo cáo phân tích thường xuyên các rủi ro ảnh hưởng đến cơ cấu TSN -
TSC và các báo cáo cho các buổi họp của Ủy ban ALCO, và là thư ký cho Ủy
ban ALCO. Nhìn chung bộ máy tổ chức điều hành hoạt động quản trị TSN - TSC
của Sacombank có hệ thống, minh bạch, chi tiết trong nội dung hoạt động. Đồng thời
các nhiệm vụ của Ủy Ban cũng đáp ứng được các yêu cầu cần thiết của lý thuyết quản
trị TSN – TSC, cũng như hoàn toàn phù hợp với mục tiêu chung của NH là đảm bảo
“hiệu quả - an toàn – bền vững” trong kinh doanh.
Trong cơ cấu tổ chức của Sacombank, bên cạnh Ủy Ban quản lý TSN – TSC,
còn có các Hội đồng và Ủy ban khác góp phần vào hoạt động quản trị TSN – TSC
cũng như điều hành hoạt động kinh doanh của NH như Hội đồng tín dụng, Hội đồng
đầu tư tài chính, Ủy ban quản lý rủi ro, Ủy ban chiến lược và các chính sách phát
triển, Ủy ban nhân sự, Ban chỉ đạo và xử lý khủng hoảng, Ban ngăn chặn và xử lý nợ
quá hạn. Các Hội đồng và Ủy ban này sẽ tham mưu cho Hội đồng quản trị các vấn đề
liên quan đến hoạt động quản trị TSN – TSC và các hoạt động khác của NH, mỗi
thành viên Hội đồng quản trị được phân công phụ trách một Hội đồng hoặc một Ủy
ban/Ban. Bên cạnh đó, Sacombank đã xây dựng và luôn quan tâm hoàn thiện hệ
thống kiểm soát nội bộ đáp ứng với yêu cầu phát triển ngày càng lớn mạnh của NH.

Hệ thống và các thủ tục kiểm soát bao gồm xây dựng quy trình quy chế, phân quyền
ủy quyền và hệ thống công nghệ thông tin, cải tiến và thực thi chính sách kiểm
tra kiểm soát và kiểm toán nội bộ - chính sách và công cụ quản trị rủi ro. Như vậy với
cơ cấu tổ chức trên có thể giúp hoạt động điều hành quản trị TSN - TSC của NH hiệu
quả.
2.2 Hoạt động quản trị tài sản nợ của Sacombank
2.2.1 Phân tích cơ cấu tài sản nợ của Sacombank
Trước khi thực hiện phân tích các khoản mục chính yếu trong cơ cấu TSN
cần thiết phải xem xét bảng cân đối kế toán với từng khoản mục cũng như tỷ trọng
của các khoản mục này trong bảng cân đối, chi tiết nêu tại phụ lục 2.
2.2.1.1 Cơ cấu tài sản nợ
Trong cơ cấu TSN, một số khoản mục chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu TSN
cũng như có sự tăng trưởng đáng kể trong khoảng thời gian 2010 – 2012 cần kể đến là
tiền gửi của khách hàng bao gồm tiền đồng, ngoại tệ và vàng; giấy tờ có giá, cụ thể:
Bảng 1. Số dư huy động tiền gửi của khách hàng giai đoạn 2010 – 2012
Đơn vị tính: tỷ đồng, %
Khoản mục
Năm
2010
Năm 2011 Năm 2012
Giá trị
Tăng trưởng
Giá trị
Tăng trưởng
Giá trị % Giá trị %
Tiền gửi không kỳ
hạn bằng VND
10.827 10.379 -448 -4,14 14.853 4.474 43,11
Tiền gửi không kỳ
hạn bằng ngoại tệ,

vàng
1.485 1.424 -61 -4,11 2.037 613 43,05
Tiền gửi có kỳ hạn
bằng VND
56.524 54.185 -2.339 -4,14 77.539 23.354 43,10
Tiền gửi có kỳ hạn
bằng ngoại tệ,
vàng
9.499 9.105 -394 -4,15 13.030 3.925 43,11
Tổng cộng 78.335 75.093 -3.242 -4,14 107.45
9
32.366 43,10
“Nguồn: Báo cáo tài chính Sacombank”
Theo số liệu thống kê trên cho thấy trong khoảng thời gian 3 năm qua tình hình
huy động tiền gửi của NH có nhiều biến động tăng giảm không ổn định do tình hình
thị trường tài chính có nhiều biến động. Trong đó huy động tiền gửi có kỳ hạn có suy
giảm không đáng kể ở năm 2011 so với 2010 với tỷ lệ giảm bình quân 4,14%, nhưng
sau đó có tăng trưởng đáng kể ở giai đoạn 2011-2012 theo tỷ lệ tăng bình quân là
43,10%. Tương tự việc tăng giảm của việc huy động vàng và ngoại tệ cũng tương
tự như tiền đồng Việt Nam, tỷ lệ giảm bình quân không đáng kể của năm 2011 so với
2010 là 4,14%, và năm 2012 so với 2011 con số tăng trưởng theo tỷ lệ bình quân là
43,10%. Với tính chất không ổn định của tiền gửi này, khó khăn khi sử dụng cho
vay đến khách hàng các nhân và tổ chức kinh tế thì có thể tận dụng triệt để nguồn tiền
này cho hoạt động kinh doanh trên liên ngân hàng với kỳ hạn ngắn để tối đa hóa lợi
nhuận cho NH. Trong giai đoạn này, Sacombank đã thực hiện tốt hoạt động kinh
doanh trên thị trường vốn, mang lại lợi nhuận đáng kể cho NH. Trong hệ thống NH
thời gian qua với sự ra đời hàng loạt các NH trong nước cũng như chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài, như vậy thị phần bị san sẻ,
nhưng tình hình huy động của Sacombank giai đoạn 2010 – 2012 vẫn tăng trưởng
khá tốt. Để giữ được thị phần, công tác huy động của Sacombank đã liên tục có

những điều chỉnh để phù hợp với tình hình thị trường, sản phẩm huy động ngày
càng phong phú hơn với sự linh hoạt về kỳ hạn cũng như các mức lãi suất, công tác
bán hàng cũng được xây dựng thành khung quản lý chất lượng chuẩn mực để có thể
phục vụ tốt hơn và làm hài lòng khách hàng. Tiền gửi của khách hàng là khoản mục
giữ vai trò rất quan trọng trong cơ cấu TSN của các NH, thường chiếm tỷ trọng
trên 50% trong tổng nợ phải trả. Nó vừa là nguồn cung thanh khoản quan trọng
của NH nhưng cũng lại là một thành tố lớn trong cầu thanh khoản, rất khó dự đoán và
có thể dẫn đến các vần đề về thanh khoản trong trường hợp khách hàng rút tiền hàng
loạt. Do vậy khoản mục tiền gửi kỳ hạn dài chiếm tỷ trọng ít hơn so với kỳ hạn ngắn
trong tổng số dư huy động, trong khi đó cho vay khách hàng lại ở kỳ hạn trung dài hạn
lại có xu hướng tăng dần qua các năm. Như vậy để có thể xây dựng được cơ cấu TSN
đa dạng, đáp ứng các tiêu chí an toàn thanh khoản, thì việc gia tăng số dư huy động có
kỳ hạn dài, ổn định là cần thiết, theo đó công tác phát hành giấy tờ có giá được
Sacombank chú trọng với số dư nhìn chung tăng qua các năm. Năm 2012 đạt được sự
tăng trưởng cao nhất cho cả giấy tờ có giá ngắn hạn và trung hạn. Còn đối với giấy tờ
có giá ngắn hạn và trung hạn có phần giảm sút do ảnh hưởng khủng hoảng bất động
sản của Việt Nam do đó 2011 giảm bình quân so với năm 2010 là 38,35%, và tỷ lệ này
tỉếp tục giảm sâu vào năm 2012 so với 2011 là 55,85%. Chi tiết về giá trị giấy tờ có
giá tương ứng từng kỳ hạn cũng như tỷ lệ tăng trưởng qua các năm nêu trong bảng sau:
Bảng 2. Giá trị huy động giấy tờ có giá
Đơn vị tính: tỷ đồng, %
Kỳ hạn
Năm
2010
Năm 2011 Năm 2012
Giá trị
Tăng trưởng
Giá trị
Tăng trưởng
Giá trị % Giá trị %

Ngắn hạn 22.132 13.644 -8.488 -38,35 6.023 -7.621 -55,85
Trung hạn 6.445 3.973 -2.472 -38,36 1.754 -2.219 -55,85
Tổng cộng 28.577 17.617 -10.960 -38,35 7.777 -9.840 -55,85
“Nguồn: Báo cáo tài chính Sacombank”
2.2.2 Rủi ro lãi suất trong quản trị tài sản nợ
2.2.2.1 Rủi ro lãi suất xuất phát từ thị trường tài chính và chính sách tiền tệ
của NHNN
Nền kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn 2010 – 2012 có nhiều biến động
phức tạp và khó lường do bởi những nguyên nhân nội tại cũng như những tác động từ
bên ngoài. Để ứng phó với những biến động đó, duy trì sự phát triển ổn định, Chính
phủ đã ban hành, thực thi nhiều biện pháp, chính sách thông qua các công cụ điều tiết
vĩ mô, trong đó quan trọng nhất là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Dấu
ấn điều hành của Chính phủ trong giai đoạn 2010 – 2012 thể hiện rõ nhất trên
phương diện chính sách tiền tệ, cụ thể hơn là điều hành hoạt động của ngành ngân
hàng trong nước, theo đó rủi ro lãi suất cũng đã được thấy rõ trong hoạt động ngành
NH giai đoạn này. Chính vì vậy trong khoản mục này sẽ tập trung phân tích rủi ro lãi
suất xuất phát từ thị trường tài chính tiền tệ cho giai đoạn 2010 – 2012.
a. Giai đoạn nửa cuối 2010 đến cuối năm 2011
Từ nửa cuối năm 2010, đã có những dấu hiệu rõ ràng về nguy cơ suy thoái kinh tế.
Đến đầu năm 2011, do ảnh hưởng của việc kiềm chế lạm phát ở những gia đoạn 2008
– 2009 nên dẫn đến dấu hiệu suy thoái kinh tế vì vậy việc, ổn định an sinh xã hội, gây
nên “cú sốc” đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động của ngành NH nói riêng,
trong đó có Sacombank. Bám sát mục tiêu vĩ mô, chính sách tiền tệ trong giai đoạn
này là mở rộng tiền tệ, bằng các công cụ tỷ lệ DTBB, lãi suất, tín phiếu bắt buộc, tín
dụng, tỷ giá. Công cụ tỷ lệ DTBB, lãi suất. Theo số liệu thống kê chỉ số giá tiêu dùng
tháng 12/2010 so với tháng 12/2009 tăng 11,75%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm
2010 tăng 9,19% so với bình quân năm 2009 biểu hiện cho dấu hiệu lượng cung tiền
mặt sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những tháng cuối năm. Tiền đồng bị mất giá tổng cộng
11,17% từ tháng 11/2009. Nguyên nhân chủ yếu là tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn,
lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng.

Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một vấn đề nóng của nền kinh tế. Tỷ giá
USD/VND từ mức khoảng 16.500 vào cuối năm 2006 đã tăng vọt lên mức 21.500
VND/USD vào những tháng cuối năm 2010. Cũng trong khoảng gian này, gần như
luôn có sự chênh lệch khá lớn giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá giao dịch thực tế.
Chỉ trong vòng 10 tháng tính đến ngày 18/8/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
đã phải 3 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, tăng tổng cộng 11,17% lên mức 18.932
VND/USD. Tỷ giá trần được niêm yết ngày 18/8/2010 là 19.500 VND/USD, nhưng tỷ
giá trên thị trường tự do lại lên đến 21.500 VND/USD.
So với các nước trong khu vực, tiền đồng đang bị mất giá mạnh ngay cả khi tính
theo tỷ giá chính thức. Cụ thể, VND mất giá hơn 20% so với đồng Yên của Nhật Bản,
hơn 17% so với đồng tiền của Thái Lan và Malaysia, gần 8% so với đồng Nhân dân tệ
của Trung Quốc.
Tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 có thể đạt 27%, tăng trưởng cung tiền ở mức
25%. Đáng lưu ý là tăng trưởng tín dụng ngoại tệ cao hơn nhiều so với nội tệ. Hệ
thống ngân hàng khó huy động vốn, nhưng điểm tích cực là tốc độ tăng trưởng tiền gửi
vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng
Tín dụng tăng trưởng bùng nổ vào năm 2009 cùng với gói hỗ trợ 4% lãi suất và
chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN đã làm cho lãi suất trong nền kinh tế xuống
mức khá thấp. Kết thúc năm 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây
áp lực mạnh lên lạm phát.
Sang năm 2010, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng dưới 25%. Tăng
trưởng tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2010 đã đạt 22,5%, thấp hơn nhiều so với
mức 33,29% cùng kỳ năm trước nhưng cũng là mức rất cao. Đáng chú ý là tín dụng
bằng ngoại tệ tăng 52,6%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 14,6%. Dự kiến tăng trưởng cả năm
sẽ đạt mức 27%, và tăng trưởng cung tiền cũng dự kiến đạt 25%, vượt mục tiêu đặt ra
đầu năm.
Tăng trưởng tín dụng, cung tiền năm 2010 đã giảm so với những năm trước,
nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các nước khác. Tăng trưởng cung tiền cao đã tạo áp
lực lớn lên lạm phát và tính ổn định của hệ thống ngân hàng.
Trong khi đó, tăng trưởng tiền gửi đã chậm lại trong những tháng gần đây. Trong

10 tháng đầu năm 2010, dư nợ tiền gửi tăng mới chỉ đạt 22,8%. Tuy vậy, mức tăng này
vẫn cao hơn tăng trưởng tín dụng, và là một diễn biến khá tích cực vì trong 3 năm gần
đây tăng trưởng huy động thường thấp hơn so với cho vay.
Hiện tại, các ngân hàng đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn dù
lãi suất huy động đã lên rất cao. Do vậy, các ngân hàng sẽ tiếp tục gặp nhiều trở ngại
để đảm bảo những quy định của Thông tư 13.
b. Giai đoạn cuối 2011 – 2012
Trong giai đoạn này Chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng,
linh hoạt phải hướng tới kiềm chế lạm phát cao, góp phần ổn định giá trị tiền đồng
Việt Nam, tăng dần dự trữ ngoại hối. Nhanh chóng xây dựng các cơ chế, chính sách
tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ (đô la) và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ
tích trữ, buôn bán trái phép. Có lộ trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm
bảo lợi ích hợp pháp của người có tài sản này; quan tâm đúng mức nhu cầu chính đáng
của doanh nghiệp và nhân dân, tránh tạo ra các "cú sốc" về tâm lý gây bất ổn xã hội;
khuyến khích, không gây trở ngại cho việc thu hút các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài
về nước, tổ chức lại thị trường kinh doanh vàng. Tăng cường quản lý hoạt động các
ngân hàng thương mại, tránh rủi ro về nợ xấu, bảo đảm tính thanh khoản; khắc phục
những bất hợp lý về lợi nhuận và thu nhập trong lĩnh vực này. Chính sách tiền tệ được
NHNN điều hành linh hoạt, thận trọng để đảm bảo góp phần thực hiện hài hoà các
mục tiêu: ngăn ngừa suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế
hợp lý; kiềm chế lạm phát; ổn định tỷ giá. Các công cụ lãi suất, tỷ lệ dự trữ, khối lượng
tiền cung ứng, tỷ giá tiếp tục được NHNN điều hành linh hoạt, thận trọng. Điều chỉnh
giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 6%
xuống còn 5%, rồi 3%; Giảm lãi suất tiền gửi DTBB bằng VND từ 8,5% đến 3,6%,
1,2%/năm; giảm lãi suất đối với tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại tệ của TCTD tại
NHNN từ 1% đến 0,5% đến 0,1%/năm.
Cung ứng tiền tệ
Nhằm thực hiện chính sách kích cầu của Chính phủ, NHNN đã yêu cầu các NHTM
phải đáp ứng đủ yêu cầu vay vốn hỗ trợ lãi suất (mức lãi suất được hỗ trợ là 4%).
Nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt với kỳ hạn, lãi suất hợp lý để kiểm

soát chặt chẽ khối lượng vốn khả dụng, tiền cung ứng, ổn định lãi suất và bảo đảm
an toàn thanh khoản của các TCTD. Đến hết năm 2011, số vốn hỗ trợ lãi suất được
giải ngân đạt 10.000 tỷ đồng.
Tỷ giá
Trong năm 2011, lượng ngoại tệ trên thị trường trở nên khan hiếm, tỷ giá
USD/VND trên thị trường chợ đen luôn cao hơn thị trường chính thức. Nguyên nhân
của tình trạng này là do ba mất cân đối lớn nêu trên làm cho người dân và doanh
nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ. Một nguyên nhân quan trọng nữa là với gói chính
sách cho vay hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp chuyển sang vay VND để mua USD
làm cho thị trường tiền tệ càng thêm mất cân đối. Để giải quyết vấn đề trên, trong
năm 2011, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh tăng tỷ giá và nới rộng biên độ tỷ giá +/-3%
lên +/-5%, kết hợp với các chính sách khác như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu
các mặt hàng thiết yếu, nhằm giải quyết cung – cầu ngoại tệ:
- Trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ
phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu
lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay ngoại tệ.
- Áp dụng các biện pháp hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp,
người dân như yêu cầu NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng
ngoại tệ (lãi suất cho vay từ 6-6,5%/năm xuống mức không quá 3%/năm từ ngày
01/6/2011, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày
01/6/2011).
Tóm lại, giai đoạn nửa cuối 2011 – 2012, đặc biệt là năm 2011, thị trường NH
trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá. Với sự chuyển
hướng mục tiêu vĩ mô quá nhanh và mạnh vào đầu năm 2008, thị trường NH bị
“cú sốc” do chính sách siết chặt tiền tệ. Hệ thống NH bị căng thẳng về thanh khoản,
làm cho lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay tăng quá cao, vượt quá khả năng
chịu đựng của nền kinh tế, doanh nghiệp phải “lay lất” chịu đựng lãi suất cho vay quá
cao của các NHTM. Cùng với hệ thống NH, Sacombank cũng đã gánh chịu những tác
động khách quan từ thị trường tài chính tiền tệ, ít nhiều đã ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của NH, thanh khoản chịu ảnh hưởng một phần và chi phí huy

động cũng gia tăng thêm nhằm giữ chân khách hàng tiết kiệm khi mà các NH nhỏ
đang gặp phải khó khăn về thanh khoản không ngừng điều chỉnh tăng lãi suất huy
động để thu hút các nguồn tiền gửi. Mặc dù chịu tác động từ thị trường tài chính tiền
tệ, mà cụ thể là rủi ro lãi suất, nhưng Sacombank đã đi qua được các đợt sóng tiền tệ
một cách an toàn dựa trên tiềm lực tài chính cũng như cơ chế quản trị điều hành
của NH nhìn chung hiệu quả, có khả năng ứng phó trước những biến động của thị
trường tài chính tiền tệ. Trong bối cảnh ngột ngạt do vòng kim cô tiền tệ đó, cuộc
khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới xảy ra vào cuối 2008 cũng
ảnh hưởng đến Việt Nam. Chính sách vĩ mô nước ta chuyển từ giảm lạm phát sang
kích thích kinh tế; chính sách tiền tệ chuyển từ thắt chặt sang nới lỏng được thể hiện
trong năm 2009.
2.2.2.2 Rủi ro lãi suất xuất phát từ phía Ngân hàng
Mặc dù Sacombank đã xây dựng một cơ cấu tổ chức quản trị TSN khá hoàn
chỉnh, hệ thống các báo cáo quản trị tương đối đầy đủ cùng với cơ chế quản trị thanh
khoản, điều chuyển vốn nội bộ nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản trị TSN, nhưng rủi ro
lãi suất luôn tiềm ẩn trong hoạt động NH bởi khoản mục tiền gửi tiết kiệm và cho vay
khách hàng vẫn luôn là kênh kinh doanh truyền thốngkhông chỉ với Sacombank mà
hầu hết với các NH. Vì vậy việc dự báo sự tăng giảm của dòng vốn huy động cũng như
khả năng thu hồi nợ đến hạn của khách hàng là rất khó khăn. Bên cạnh đó một số
TSN, TSC khác nhạy cảm với lãi suất như chứng khoán kinh doanh, giấy tờ có giá
cũng góp phần tạo nên những rủi ro lãi suất tiềm ẩn khi mà thị trường có sự biến động
về lãi suất. Mặc dù Sacombank đã xây dựng cơ chế điều hành lãi suất, tuy nhiên
chính sách lãi suất vẫn rất dễ bị thị trường dẫn dắt. Điều này được thấy rõ khi mà các
kỳ điều chỉnh lãi suất cho vay đã được rút ngắn từ 6 tháng còn 3 tháng rồi 1 tháng để
cập nhật liên tục theo tình hình lãi suất thị trường ngày một biến động. Còn đối với
huy động xuất hiện tình trạng khách hàng gửi tiền lại đưa ra mức giá và một số điều
kiện khác cho NH chứ không phải chấp nhận giá cả các dịch vụ do NH cung cấp, điều
này làm giảm lợi nhuận của NH. Trong cơ cấu TSN của Sacombank cho thấy tình
trạng phụ thuộc vào nguồn tiền gửi liên ngân hàng có xu hướng tăng theo thời gian,
điều này có thể tạo ra rủi ro thanh khoản lớn khi mà nguồn cung tiền giảm đi. Mặc dù

NH có thể bù đắp nguồn vốn liên ngân hàng phải trả khi đến hạn bằng huy động
nguồn vốn huy động từ TCKT&DC, tuy nhiên khả năng NH sẽ gặp phải rủi ro lãi
suất trong tình thế khẩn cấp phải chấp nhận mức lãi suất thị trường. Trong hoạt động
quản trị rủi ro lãi suất của NH, công cụ giúp NH hạn chế được rủi ro là công cụ
phái sinh, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại vai trò của công cụ này trong hoạt động
quản trị rủi ro vẫn còn mờ nhạt hay nói cách khác là NH chưa đẩy mạnh công tác
nghiên cứu, áp dụng công cụ này trong hoạt động quản trị rủi ro NH.
2.2.3 Cơ chế điều hòa vốn nội bộ
2.2.3.1 Phương pháp tính lãi điều hòa vốn nội bộ trước đây
Với phương pháp tính lãi điều hòa vốn cũ, các CN sau khi cân đối nguồn vốn và
sử dụng vốn tại CN thì sẽ thực hiện điều chuyển với Hội sở phần vốn chênh lệch giữa
nguồn vốn và sử dụng vốn, nếu số dư điều hòa vốn bình quân dương tức CN điều vốn
về Hội sở, và ngược lại nếu số dư điều hòa vốn bình quân âm tức CN nhận vốn từ Hội
sở. Tương ứng với từng trường hợp điều vốn thì có lãi suất điều hòa vốn đến và điều
hòa vốn đi. Trong đó lãi suất điều hòa vốn đi được tính trên cơ sở lãi suất tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn, lãi suất điều hòa vốn đến được tính trên cơ sở lãi suất tiền gửi bình
quân.
Lãi suất điều hòa
vốn đi
=
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn bình quân/x%
+ Biên độ y% (2.1)
Lãi suất điều hòa
vốn đến
=
Lãi suất tiền gửi bình
quân/x%
+ Biên độ y% (2.2)
Trong đó:

(2.3)
Lãi suất tiền gửi
tiết kiệm có kỳ
hạn bình quân
=
Chi trả lãi tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn trong
tháng
:
Số dư tiền gửi tiết
kiệm có kỳ hạn
bình quân trong
tháng
(2.4)
Lãi suất tiền
gửi bình quân
=
Chi trả lãi tiền
gửi trong tháng
:
Số dư tiền gửi
bìnhquân trong
tháng

x = 87% áp dụng tiền gửi VND và vàng; 84% áp dụng cho tiền gửi ngoại tệ
y : do Tổng giám đốc quy định trong từng thời kỳ.
Với phương pháp tính lãi điều hòa vốn trên thì các CN luôn nhận được lãi suất
điều hòa vốn đi cao hơn lãi điều hòa vốn đến vì lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
bình quân cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân. Như vậy sẽ tạo tính ỷ lại của CN, không
phát huy hết khả năng hoạt động khi mà kết quả kinh doanh của CN được bảo

đảm theo phương pháp tính toán trên. Do đó Sacombank đã điều chỉnh phương pháp
tính, trong đó các CN cùng trong một khu vực sẽ có chung một mức lãi suất điều hòa
vốn, và chỉ có một mức lãi suất được áp dụng cho cả trường hợp điều vốn đến và điều
vốn đi. Mức lãi suất được tính trên cơ sở bình quân lãi suất huy động và lãi suất cho
vay. Đồng thời trong tính toán số dư điều hòa vốn còn bổ sung thêm phần định mức
thanh khoản thay vì chỉ có các thông tin về nguồn vốn, sử dụng vốn và thanh khoản
như trước.
2.2.3.2 Phương pháp tính lãi điều hòa vốn nội bộ hiện hữu
Qua thời gian thực tế áp dụng phương pháp trên, Sacombank nhận ra được rằng không
đánh giá được hiệu quả của huy động và cho vay tại chi nhánh, đồng thời chi nhánh
không thể sử dụng giá điều hòa vốn này để làm cơ sở đưa ra mức giá huy động và cho
vay phù hợp với tình hình thực tế tại chi nhánh vì chi nhánh bị phụ thuộc vào giá điều
hòa vốn chung của khu vực.
Với mong muốn các CN có thể phát huy hết khả năng của mình đồng thời tập trung
quản lý rủi ro về một trung tâm mà đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, cũng
như đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NH, tối ưu hóa chi phí huy
động vốn và sử dụng vốn, Sacombank đã xây dựng phương pháp điều hòa vốn mới -
cơ chế quản lý vốn tập trung. Trong đó, Hội sở sẽ đóng vài trò trung tâm cân đối,
điều chuyển vốn. Các CN đóng vai trò đơn vị kinh doanh thực hiện mua bán vốn với
Hội sở, thu nhập và chi phí của từng CN sẽ được xác định dựa trên phương pháp tính
lãi điều hòa vốn.
- Định kỳ hàng tháng, Hội sở sẽ xác định và thông báo giá mua bán vốn cho các
đơn vị, các đơn vị căn cứ trên giá điều chuyển vốn và các chỉ tiêu kinh doanh
được phân bổ để thực hiện các hoạt động tại đơn vị mình.
- Mỗi nhóm khoản huy động, cho vay sẽ có một mức giá điều hòa vốn khác nhau.
Tất cả các khoản huy động tại từng CN được bán về Hội sở theo giá quy định, các
khoản cho vay và thanh khoản tại CN cũng được mua từ Hội sở theo giá quy định.
- Trong trường hợp CN bán vốn về Hội sở: phần lợi nhuận thu được sẽ được tính trên cở
sơ tích số của số dư huy động với chênh lệch giữa giá bán vốn và lãi suất huy động.
Trong đó có sự tách biệt về số dư huy động không kỳ hạn và có kỳ hạn cũng như các

mức giá bán vốn tương ứng cho từng kỳ hạn.
- Trường hợp CN mua vốn từ Hội sở: phần lợi nhuận thu được tính trên cơ sở tích số
của số dư cho vay phân loại theo kỳ điều chỉnh lãi suất cho vay và theo thời gian cho
vay với chênh lệch giữa lãi suất cho vay và giá mua vốn tương ứng với kỳ
điềuchỉnh lãi suất cho vay, trong đó có phân biệt phần số dư cho vay sử dụng nguồn
vốn ủy thác cũng như giá mua vốn ủy thác từ Hội sở và lãi suất cho vay nguồn vốn
ủy thác. Trong phần tính toán lợi nhuận mua vốn từ Hội sở còn có cộng thêm phần chi
phí mua vốn thanh khoản.
- Về phương thức xác định giá bán vốn và mua vốn thì căn cứ trên các yếu tố sau.
 Đối với giá bán vốn
 Giá bán vốn không kỳ hạn xác định dựa vào lãi suất VIBOR qua đêm
 Giá bán vốn có kỳ hạn = LSHĐCKHt + biên độ giá bán vốn (2.5)
Trong đó,
SHĐCKHt: Lãi suất huy động cơ bản có kỳ hạn của NH
Biên độ giá bán vốn: do Ủy ban ALCO xác định
 Đối với giá mua vốn
Giá mua vốn = GBV
BQ
+ Chi phí
TK
+ Chi phíDTBB (2.6)
Trong đó,
GBVBQ: chi phí tạo vốn là bình quân gia quyền số dư huy động và giá bán vốn
nguồn tiền gửi có kỳ hạn.
Chi phí
TK
: chi phí thanh khoản
Chi phíDTBB : chi phí dự trữ bắt buộc
Như vậy, cơ chế này sẽ giúp tính toán thu nhập một cách chi tiết hơn bằng cách tách
biệt lợi nhuận của các danh mục TSN và TSC khác nhau. Từ đó đánh giá được

hiệu quả hoạt động kinh doanh của CN và toàn NH bằng cách ấn định những khoản

×