Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Thực trạng và giải pháp đối phó với tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại công ty bảo hiểm toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.75 KB, 61 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GIC Công ty Bảo hiểm Toàn cầu
TNDS Trách nhiệm dân sự
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với nước ta hiện nay thì xe cơ giới là phương tiện chủ yếu khi tham gia
giao thông. Mặc dù cũng với sự phát triển của đất nước thì cũng có rất nhiều loại
hình phương tiện song với ưu thế cơ động của mình, và giá cả hợp túi tiền người
dân thì xe cơ giới vẫn là phương tiện được ưa chuộng hơn cả. Nhưng cũng chính vì
lượng xe cơ giới đang ngày càng tăng cộng với nhiều nguyên nhân khác như hệ
thống giao thông chưa tốt,…dẫn đến việc tai nạn giao thông xảy ra cũng theo chiều
hướng gia tăng. Vì vậy việc quan tâm đến bảo hiểm cho xe cơ giới nhằm bảo vệ và
hạn chế, khắc phục những tổn thất xảy ra với người tham gia giao thông bằng xe cơ
giới cần phải tăng cường hơn nữa thông qua nhiều cách trong đó có cách tham gia
bảo hiểm cho xe cơ giới. Hiện nay thị trường bảo hiểm nước ta cũng phát triển rất
đa dạng nhiều sản phẩm bảo vệ cũng như còn nhiều tiềm năng chưa khai thác. Điều
này tạo điều kiện cho người dân có thể vừa tham gia các loại hình bắt buộc, vừa có
thể lựa chọn thêm cho mình những sản phẩm tự nguyện khác để bảo vệ bản thân và
gia đình. Đối với loại hình bảo hiểm xe cơ giới thuộc bảo hiểm phi nhân thọ đã phát
triển từ lâu nhưng với thị trường bảo hiểm hiện nay thì đây vẫn là một mảng thị
trường tiềm năng khai thác. Song không phải lúc nào việc khai thác thị trường giữa
các công ty cũng lành mạnh, đồng thời người dân không phải lúc nào cũng tham gia
đầy đủ và có ý thức đối với loại hình bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc. Vì vậy đã xảy ra
tình trạng trục lợi bảo hiểm, là một hành vi gian lận của khách hàng nhằm lấy được


số tiền bồi thường từ bảo hiểm một cách không chính đáng. Để hiểu hơn về tình
trạng này và có thể đưa ra giải pháp hạn chế bớt tình trạng trục lợi này thì em đã
chọn lựa đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình là: “Thực trạng và giải
pháp đối phó với tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Bảo hiểm
Toàn cầu”. Việc nghiên cứu đề tài này tại một công ty cụ thể là Công ty Bảo hiểm
Toàn cầu sẽ giúp em có được số liệu tốt hơn, đánh giá được tình hình trục lợi hiện
tại ở công ty, sau đó sẽ hiểu được một phần thực tế thị trường bảo hiểm của nước ta.
Sau một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo của
giảng viên hướng dẫn Th.S Phan Anh Tuấn, em đã tìm hiểu được cơ sở lí thuyết
cũng như một số nét về tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm
Toàn cầu. Từ đó, em đưa ra một số kiến nghị của cá nhân với các đối tượng liên
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
quan, hi vọng có thể góp phần nào vào việc hạn chế và phòng chống trục lợi bảo
hiểm ở nước ta.
Nội dung chuyên đề của em gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm xe cơ giới và vấn đề trục lợi bảo hiểm
xe cơ giới.
Chương II: Tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm Toàn
cầu giai đoạn 2008-2012.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế tình hình trục lợi
bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Bảo hiểm Toàn cầu GIC.
Em xin chân thành cảm ơn trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện
cho em học tập tốt và cung cấp nguồn tài liệu quý giá để em tìm hiểu, cảm ơn các
thầy cô trong Khoa Bảo hiểm đã cung cấp cơ sở lí thuyết cơ bản cho em có thể học
tập. Và đặc biệt cảm ơn Th.S Phan Anh Tuấn đã hướng dẫn tận tình để em có thể
hoàn thành tốt đề tài của mình. Do nhận thức còn thiếu, cũng như nguồn tài liệu
chưa đầy đủ, nên bài làm của em còn thiếu sót, mong các thầy cô thông cảm!
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A

2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI VÀ
VẤN ĐỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI.
I. Nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới
Theo nghị định 103/2008/NĐ-CP thì xe cơ giới bao gồm xe ô tô, máy kéo,
xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử
dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo
bởi xe ô tô hoặc máy kéo), xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các
loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) có tham gia giao
thông.
Còn hiểu một cách đơn giản thì xe cơ giới là tất cả các loại xe tham gia giao
thông trên đường bộ bằng động cơ của chính chiếc xe đó, bao gồm ô tô, mô tô và xe
máy.
1. Phân loại và một số quy định chung về bảo hiểm xe cơ giới
• Phân loại:
Hiện nay trên thế giới cách phân loại bảo hiểm xe cơ giới phổ biến nhất là
bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
- Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc:
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe.
- Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện:
+ Bảo hiểm vật chất xe.
+ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hóa vận chuyển trên xe.
+ Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe và lái phụ xe.
• Một số quy định chung:
- Đối tượng bảo hiểm: là những đối tượng mà các công ty chọn và chấp nhận
bảo hiểm, chịu trách nhiệm bồi thường khi có các rủi ro thuộc đối tượng bảo hiểm
xảy ra.
- Phạm vi bảo hiểm: Là những quy định về những rủi ro được bảo hiểm và

những rủi ro sẽ bị loại trừ của công ty bảo hiểm.
- Giá trị bảo hiểm: là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người
tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
- Số tiền bảo hiểm: là số tiền ghi trong đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận
bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của nhà bảo hiểm trong trường hợp phải
bồi thường.
- Phí bảo hiểm: là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải đóng cho nhà
bảo hiểm để được nhà bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho mình. Phí bảo hiểm có thể
đóng một lần hoặc nhiều lần, theo tháng, quý hoặc năm.
- Hợp đồng bảo hiểm: là một thỏa thuận giữa người tham gia bảo hiểm và
nhà bảo hiểm thông qua các điều khoản. Theo đó thì người tham gia bảo hiểm phải
nộp phí cho bên bảo hiểm, còn bên bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho bên
tham gia khi có tổn thất xảy ra.
- Giấy chứng nhận bảo hiểm: là bằng chứng ký kết hợp đồng bảo hiểm giữa
công ty bảo hiểm và chủ xe cơ giới. Các yêu cầu sửa đổi bổ sung của chủ xe được
công ty bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản cũng là một bộ phận của hợp đồng bảo
hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa công ty bảo hiểm và chủ xe.
- Hiệu lực bảo hiểm bắt đầu và kết thúc được ghi trên Giấy chứng nhận bảo
hiểm.
2. Nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ bảo hiểm cho xe cơ giới
2.1. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
2.1.1. Đối tượng bảo hiểm.
Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại
diện cho môt tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm
dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như
vậy, đối tượng được bảo hiểm ở đây là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối
với người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là

trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho
người thứ ba khi xe lưu hành gây tai nạn. Người thứ ba là những người bị thiệt hại
về thân thể và tài sản do xe cơ giới gây ra loại trừ người trên xe, lái phụ xe và hành
khách trên chính chiếc xe đó.
Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu
hành xe gây ra tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ
ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể.
Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với người thứ ba
bao gồm:
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
- Điều kiện thứ nhất: có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên
thứ ba.
- Điều kiện thứ hai: chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do
vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy
định khác của Nhà nước,…
- Điều kiện thứ ba: phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba.
- Điều kiện thứ tư: chủ xe (lái xe) phải có lỗi.
Thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai, và thứ ba là
phát sinh trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu
một trong ba điều kiện đó, trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh và do
đó không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc
không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà không hoàn
toàn do lỗi của chủ xe (lái xe).
2.1.2. Phạm vi bảo hiểm.
• Các thiệt hại nằm trong phạm vi bảo hiểm: công ty bảo hiểm nhận đảm
bảo cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh
trách nhiệm dân sự của chủ xe. Bao gồm:

- Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khỏe của bên thứ ba.
- Thiệt hại về tài sản, hàng hóa,…của bên thứ ba.
- Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu
nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lí để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn
chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
biện pháp không mang lại hiệu quả).
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của những người tham gia cứu
chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
• Các điều khoản loại trừ: công ty không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự trong các trường hợp
sau:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông
theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ.
- Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường
bộ như :
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ
thuật và môi trường.
+ Lái xe không có bằng lái xe hoặc bằng bị tịch thu, bằng không hợp lệ.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: rượu, bia, ma túy,…
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa
chữa.
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
+ Xe không có hệ thống lái bên phải.
- Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.

- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh.
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, công ty cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như
vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
2.1.3. Số tiền bảo hiểm
Trong loại hình bảo hiểm TNDS nói chung thì số tiền bảo hiểm bao giờ cũng
biểu hiện hạn mức trách nhiệm của nghiệp vụ. Hạn mức này cao hay thấp hoàn toàn
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong mỗi thời kì nếu như cơ
quan quản lý nhà nước về bảo hiểm quản lý tập trung thống nhất vấn đề này. Bởi vì,
hạn mức trách nhiệm cao thì mức phí sẽ cao. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới các
vấn đề kinh tế xã hội.
Hạn mức trách nhiệm là số tiền tối đa mà các DNBH phải trả cho những thiệt
hại về người và tài sản trong mỗi vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự. Hiện
nay, mức bồi thường trong bảo hiểm TNDS bắt buộc đối với người thứ ba được thể
hiện trong Thông tư 151/2012/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/11/2012 sửa đổi, bổ
sung Thông tư số 126/2008/TT-BTC ngày 22/12/2008 của Bộ Tài chính quy định
Quy tắc, điều khoản, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm
dân sự của chủ xe cơ giới và Thông tư số 103/2009/TT-BTC ngày 25/5/2009 của
Bộ Tài chính quy định việc quản lý, sử dụng, thanh toán và quyết toán Quỹ bảo
hiểm xe cơ giới. Theo quy định mới thì số tiền bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới
với người thứ ba của xe máy được giới hạn ở mức 70 triệu đồng/người/vụ và 40
triệu đồng về tài sản của một vụ tai nạn, còn đối với ô tô là 70 triệu đồng/người/vụ
và 10 triệu đồng về tài sản của một vụ tai nạn.
2.1.4. Phí bảo hiểm.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
- Phí bảo hiểm TNDS được nộp theo mỗi đầu phương tiện, các phương tiện

khác nhau thì sẽ có mức phí khác nhau (do nó phụ thuộc vào xác suất xảy ra tai nạn
giao thông, các loại xe khác nhau thì xác suất xảy ra tai nạn cũng khác nhau)
- Công thức tính phí:
P = f + d
Trong đó,
f là phí thuần
d là phụ phí, bằng một tỷ lệ phần trăm nào đó so với tổng mức phí thu.
Với:
Trong đó,
+ Si: số vụ tai nạn giao thông xảy ra năm thứ i có phát sinh TNDS.
+ Ti: thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn giao thông có phát sinh TNDS.
+ Ci: số xe tham gia bảo hiểm TNDS năm thứ i.
+ n: thứ tự các năm lấy số liệu tính toán.
- Với công thức nói trên, nhà bảo hiểm hoặc quản lý nhà nước về bảo hiểm
phải xác định riêng cho từng loại xe hoặc nhóm xe, thậm chí phái xác định riêng
cho từng hạn mức, số tiền bảo hiểm.
2.2. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới
2.2.1. Đối tượng bảo hiểm
Khác với bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được áp
dụng bắt buộc bằng pháp luật đối với các chủ xe, bảo hiểm vật chất xe cơ giới là
loại hình bảo hiểm bảo hiểm tài sản và hiện tại thì đang được triển khai dưới hình
thức bảo hiểm tự nguyện.
Đối với xe mô tô và xe máy thì chủ xe thường tham gia bảo hiểm toàn bộ vật
chất thân xe. Còn đối với ô tô thì các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm toàn bộ thân
xe hoặc cũng có thể chỉ bảo hiểm theo bộ phận như tổng thành thân vỏ hay động cơ,

2.2.2. Phạm vi bảo hiểm.
Trong hợp đồng bảo hiểm vật chất thân xe, các rủi ro được bảo hiểm thông
thường gồm:
- Tai nạn do đâm va, lật đổ.

- Cháy, nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá.
- Mất cắp toàn bộ xe.
- Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
* Ngoài việc được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra cho chiếc xe
được bảo hiểm trong những trường hợp trên, các công ty bảo hiểm còn thanh toán
cho chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý phát sinh( như sửa
chữa xe, thay thế bộ phận bị hỏng,…) nhằm:
- Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi
ro được bảo hiểm.
- Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất.
- Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp thì tổng số tiền bồi thưởng của công ty bảo
hiểm sẽ không được vượt quá số tiền bảo hiểm ghi trên đơn hay giấy chứng nhận
bảo hiểm.
Đồng thời công ty sẽ không bồi thường những thiệt hại vật chất gây ra bởi:
- Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật
hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu
hao và thường được tính theo tháng.
- Hư hỏng về điện hoặc bộ phận máy móc, thiết bị, săm lốp bị hư hỏng mà
không do tai nạn gây ra.
- Mất cắp bộ phận của xe.
* Ngoài ra để tránh trục lợi bảo hiểm thì nhà bảo hiểm còn quy định các
điểm loại trừ không được bồi thường như:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy
định của Luật giao thông đường bộ.
- Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ

như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành;
+ Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ;
+ Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma túy hoặc các chất kích thích tương tự
khác khi điều khiển xe;
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép;
+ Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định;
+ Xe đi vào đường cấm;
+ Xe đi đêm không đèn;
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa;
-Những thiệt hại gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất
kinh doanh;
- Thiệt hại do chiến tranh.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
2.2.3. Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm vật chất xe cơ giới được xác định căn cứ vào giá trị ban
đầu của chủ xe ghi trên hóa đơn, tính đến khấu hao nếu có. Việc xác định số tiền
bảo hiểm còn liên quan đến cơ cấu giá trị của mỗi tổng thành nếu như chủ xe không
tham gia bảo hiểm toàn bộ. Khi nhân viên bảo hiểm tiếp xúc với khách hàng cần
phải thống nhất và xác định chính xác số tiền bảo hiểm vì đây là số tiền làm căn cứ
để xét bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
2.2.4. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới được xác định theo công thức sau:
P= S(b) * R
Trong đó:
S(b) là số tiền bảo hiểm
R là tỷ lệ phí bảo hiểm.
- R phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: chủng loại xe, tình trạng thực tế của

chiếc xe, thời gian tham gia bảo hiểm (nhà bảo hiểm có thể xác định phí cả năm và
tỷ lệ phí bảo hiểm theo số tháng tham gia bảo hiểm trong năm). Tỷ lệ phí bảo hiểm
được các nhà bảo hiểm lập thành một bảng để các nhân viên khai thác dễ dàng tính
toán khi tra cứu.
- Trong nội tình mỗi công ty bảo hiểm thì việc xác định phí bảo hiểm đôi khi
rất linh hoạt:
+ Người ta có thể lợi dụng biểu phí bảo hiểm của công ty khác để tham khảo
và từ đó đưa ra biểu phí riêng của mình.
+ Có thể tự công ty tiến hành điều tra về tình hình tai nạn giao thông và mức
độ thiệt hại. Từ đó phân tích và thiết kế bảng phí.
+ Nếu công ty đã tiến hành kinh doanh được nhiều năm, nhà bảo hiểm sẵn có
một tài liệu thống kê lịch sử để phục vụ tính phí. Đây là cách tốt nhất và chính xác
nhất để xác định tỷ lệ phí. Nếu xác định theo cách này , tỷ lệ phí sẽ bao gồm 2 phần:
R = R1+ R2
Trong đó:
R1 là tỷ lệ phí thuần;
R2 là tỷ lệ phụ phí.
R2 thường được kế hoạch hóa từ trước nếu công ty kinh doanh được nhiều
năm và thường được quy định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng tỷ lệ
phí.
R1 bằng tổng số tiền bồi thường trong một số năm chia cho tổng số xe tham
gia bảo hiểm vật chất trong những năm đó.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
- Nếu chủ xe tham gia bảo hiểm đã nộp phí cả năm, nhưng trong năm vì một
lý do nào đó có một số tháng xe không hoạt động thì nhà bảo hiểm phải có trách
nhiệm hoàn lại phí trong những tháng đó. Nhưng về phía chủ xe thì phải báo trước
bằng văn bản để nhà bảo hiểm biết và xác minh:
Phí hoàn lại= (Phí cả năm * Số tháng xe không hoạt động) /12

II. Vấn đề trục lợi bảo hiểm trong bảo hiểm xe cơ giới
Lĩnh vực nào cũng có hai mặt của nó. Bảo hiểm cũng như vậy, có phát triển
thì tình trạng trục lợi cũng xảy ra càng nhiều và ngày càng tinh vi hơn, nhiều hình
thức trục lợi hơn. Tình trạng trục lợi xảy ra nhiều tới mức đáng báo động và mỗi
công ty bảo hiểm cần trang bị cho mình những phương thức riêng, cũng như học hỏi
phương thức từ các công ty bảo hiểm khác nhằm hạn chế tình trạng trục lợi xảy ra,
giảm chi phí không đáng có của công ty xuống thấp hơn.
1. Khái niệm trục lợi bảo hiểm xe cơ giới.
Theo Hiệp hội bảo hiểm Canada: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian
dối, lừa đảo có thể có chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi
đã xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh
nghiệp bảo hiểm mà đáng lý ra họ không được hưởng”.
Trục lợi bảo hiểm còn được quan niệm là gian lận trong bảo hiểm. Trên thế
giới, hiện tượng này được biết đến như là một vấn đề nhức nhối đối với các doanh
nghiệp bảo hiểm. Nhiều DNBH đã phải bỏ ra khá nhiều tiền để khắc phục vấn đề
trục lợi bảo hiểm, song số vụ gian lận vẫn tăng theo thời gian và hình thức ngày
càng tinh vi, thủ đoạn ngày càng sắc sảo. Nhất là đối với nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới thì tình trạng trục lợi là nhiều nhất do dễ dàng trục lợi nhất và trục lợi không
chỉ từ phía khách hàng mà còn từ những người thuộc bên bảo hiểm.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
2. Các hình thức trục lợi bảo hiểm xe cơ giới
Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm triển khai đều có những hành vi trục lợi bảo hiểm
và mối nghiệp vụ lại có những cách trục lợi khác nhau. Dưới đây là một số hình
thức trục lợi bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, đặc biệt là bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và bảo hiểm vật chất xe.
2.1. Hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm
Giấy chứng nhận bảo hiểm được coi là một hợp đồng kinh tế và hiệu lực sẽ
được ghi trên đó. Giấy chứng nhận bảo hiểm được cấp cho người tham gia bảo hiểm

như một lời cam kết và đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm. Khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra, công ty sẽ dựa vào giấy chứng nhận này để xác định xem sự kiện có
xảy ra trong thời gian bảo hiểm có hiệu lực hay không, từ đó tiến hành giám định và
bồi thường. Hiệu lực bảo hiểm thường do địa lý khai nhân viên khai thác viết trên
giấy chứng nhận cho khách hàng. Ở đây có thể có hai trường hợp để trục lợi:
- Ghi lại ngày có hiệu lực của hợp đồng: nhờ vào mối quen biết thì khi xảy ra
tai nạn mà khách hàng chưa tham gia bảo hiểm hoặc đã tham gia bảo hiểm nhưng
lúc đó hiệu lực bảo hiểm đó đã hết hạn mà chưa mua mới, họ có thể nhờ người hoặc
mua chuộc để ghi lại ngày giấy chứng nhận bảo hiểm mới có hiệu lực trước khi tai
nạn xảy ra nhằm lấy tiền bồi thường.
- Ghi lại ngày tai nạn: tương tự như trường hợp trên nhưng khi bảo hiểm đã
hết hiệu lực, tai nạn xảy ra thì khách hàng có thể mua chuộc các cơ quan chức năng
làm công tác giám định để ghi sai lệch về thời gian xảy ra tai nạn trước khi hết hạn
hiệu lực bảo hiểm. Như vậy có thể trực lợi được.
2.2. Thay đổi tình tiết vụ án
Trường hợp này thường xảy ra khi chủ xe vi phạm các điều khoản loại trừ
của công ty bảo hiểm như:
- Giấy phép lưu hành quá hạn hoặc không hợp lệ.
- Lái xe không có bằng, bằng hết hiệu lực hoặc không phù hợp với xe được lái.
- Xe đi vào đường cấm, đường một chiều,…
- Xe chở hàng quá tải, chở nhiều hơn số khách cho phép.

Khi tham gia giao thông mà vi phạm những điều này, gây ra tai nạn thì có
những trường hợp chủ xe (lái xe) đã cố tình thay đổi tình tiết vụ án nhằm trục lợi.
Do có thể tai nạn xảy ra ở nơi hoang vắng không có người kiểm chứng nên họ dễ
dàng dàn dựng hiện trường để nhà bảo hiểm không phát hiện ra họ mắc lỗi, dẫn đến
họ nhận được tiền bồi thường không xứng đáng. Hoặc cũng có thể họ thay đổi hồ
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn

sơ, giấy tờ bảo hiểm nhằm hợp lý hóa các tình tiết của vụ tai nạn, cấu kết với các
lực lượng giám định hiện trường để dàn xếp các tình tiết của vụ tai nạn.
2.3. Tạo hiện trường giả
Khách hàng có thể tạo hiện trường giả để trục lợi, nhất là đối với những
người am hiểu về kỹ thuật và xe cơ giới. Ví dụ như họ vô tình hoặc cố ý tự đâm vào
tường nhưng lại dàn dựng như mình bị đâm để nhà bảo hiểm bồi thường. Hoặc họ
có thể thay đổi biển số xe của xe đã mua bảo hiểm vào xe bị tai nạn chưa mua bảo
hiểm để chụp ảnh, khám nghiệm, lập biên bản. Những hành vi này được dàn dựng
vô cùng tinh vi, nên có thể qua mắt được các cơ quan chức năng, giám định.
2.4. Khai tăng số tiền tổn thất
Đây là những trường hợp tai nạn có thật và thuộc phạm vi được bồi thường.
Nhưng khi lập hồ sơ bồi thường thì bằng cách nào đó họ đã thay đổi hồ sơ và khai
tăng số tiền tổn thất lên nhằm kiếm lợi.
- Đối với xe sửa chữa sau khi tai nạn xảy ra:
+ Khách hàng có thể cấu kết với cơ sở sữa chữa để khai tăng số tiền sửa
chữa của xe lên.
+ Sửa chữa, thay thế mới cả các bộ phận hư hỏng không do tai nạn.
+ Khai tăng số tiền vận chuyển tới nơi sửa chữa.
- Đối với xe đã sửa trước tai nạn:
+ Khai báo tăng chất lượng thực tế của hạng mục tổn thất trước khi tai nạn.
+ Kê khai những phụ tùng, thiết bị đã bị hư hỏng từ trước khi tai nạn.
+ Lấy bớt phụ tùng, hàng hóa, tài sản chở trên xe; thay đồ đã hỏng vào xe
trước khi nhân viên giám định hiện trường tới.

Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
2.5. Lập hồ sơ khiếu nại nhiều lần
Trường hợp này phổ biến nhất xảy ra là khi khách hàng tham gia bảo hiểm ở
nhiều công ty cùng lúc với cùng một loại hình bảo hiểm. Theo nguyên tắc, thì khách

hàng được tham gia bảo hiểm trùng nhưng khi tai nạn xảy ra, người tham gia bảo
hiểm phải đồng thời thông báo cho các nhà bảo hiểm để họ tiến hành giám định và
phân chia tỷ lệ bồi thường. Song ở đây, họ có ý định trục lợi nên sẽ khi tai nạn xảy
ra sẽ không thông báo đồng thời cho các nhà bảo hiểm. Mà họ sẽ thông báo tới từng
bên một, qua nhiều lần, để có thể nhận được số tiền bồi thường lớn nhất từ cả hai
công ty bảo hiểm.
2.6. Cố ý gây tai nạn
Hành vi này là một hành vi trục lợi nguy hiểm và có liên quan tới pháp luật
nhất. Do khách hàng muốn trục lợi theo cách này sẽ có ý định từ trước, và sẽ dàn
dựng một cách tinh vi nhất để qua mắt lực lượng chức năng. Có thể như đốt xe, thấy
xe cũ có thể tự phá hủy xe nhưng làm như xe bị tai nạn ngẫu nhiên, cho xe lao
xuống vực ở nơi có ít người qua lại,…Thường thì những xe này giá trị còn lại
không cao, nhưng sau khi cố ý gây tai nạn thì người có hành vi trục lợi sẽ đòi nhà
bảo hiểm bồi thường với giá trị cao hơn thực tế rất nhiều.
2.7. Gian lận đối với người thứ ba
Hành vi này thường chỉ xảy ra trong bảo hiểm TNDS. Họ có thể trục lợi
bằng nhiều cách như không bồi thường cho người thứ ba, mặc dù đã nhận được tiền
bảo hiểm. Hoặc đã đòi người thứ ba có liên đới bồi thường song không khai báo với
DNBH nhằm kiếm thêm tiền bồi thường từ DNBH.
3. Nguyên nhân của hành vi trục lợi bảo hiểm
3.1. Nguyên nhân khách quan
a, Nguyên nhân xuất phát từ hành lang pháp lý của Nhà nước.
Sự thiếu chặt chẽ trong các quy định của hành lang pháp lý đã tạo điều kiện
cho các hành vi trục lợi, gian lận bảo hiểm xảy ra. Do chủ xe (lái xe) biết được rằng
họ sẽ phải chịu sự trừng phạt của pháp luật khi công ty bảo hiểm phát hiện ra hành
vi gian dối của mình, nên hành động này dường như được khuyến khích và xảy ra
ngày càng nhiều với mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Hơn nữa, sự quản lí lỏng lẻo của các cơ quan chức năng, cũng như thiếu đi
sự kiểm tra, kiểm soát nên càng tạo cơ hội cho trục lợi phát triển. Theo nguyên tắc
thì các xe đang lưu hành bắt buộc phải có giấy bảo hiểm TNDS đối với người thứ

ba. Nhưng khi lực lượng cảnh sát giao thông kiểm tra giấy tờ của các phương tiện
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
cơ giới, họ thường không kiểm tra giấy tờ bảo hiểm này. Do vậy, các chủ xe yên
thấy yên tâm khi không tham gia loại hình bảo hiểm này.
b, Nguyên nhân từ thị trường bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm ngày càng phát triển, luôn sôi động song cũng đầy sự
phức tạp. Hơn nữa, càng phát triển thì sự cạnh tranh lại càng gay gắt khốc liệt hơn,
do không chỉ còn là sự cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước mà còn có
sự tham gia của không ít các công ty bảo hiểm nước ngoài. Và vì vậy các công ty
luôn giữ bí mật về thông tin, đặc biệt là thông tin của khách hàng. Việc trao đổi
thông tin cần thiết về khách hàng như tiểu sử trục lợi bảo hiểm, hay đã từng tham
gia bảo hiểm của công ty nào, có đang tham gia bảo hiểm của công ty khác hay
không,…là hầu như không có. Do đó, một đối tượng có thể tham gia bảo hiểm của
nhiều công ty cùng lúc; hoặc trục lợi của công ty này, rồi tiếp tục tham gia bảo hiểm
ở công ty khác để có thể thực hiện hành vi trục lợi của mình thêm các lần khác,…
Khi xảy ra tổn thất, thì khách hàng sẽ nhận được tiền bồi thường ở tất cả các công ty
mà mình tham gia bảo hiểm.
c, Nguyên nhân từ ý thức người dân.
Hiện nay, nhận thức của người dân về pháp luật còn nhiều yếu kém, nhất là
về những quy định của pháp luật. Nhiều người dân nhận thức rất mơ hồ về bảo
hiểm nói chung và về bảo hiểm xe cơ giới nói riêng. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm
đối với xe cơ giới thường là tham gia theo hình thức bắt buộc và thường cũng chỉ
với mục đích để đối phó với lực lượng cảnh sát giao thông khi bị kiểm tra, chứ ít
khi tham gia vì sự an toàn của chính bản thân mình. Khi tai nạn xảy ra thì những
chủ xe chưa tham gia bảo hiểm sẽ nghĩ ra mọi cách thức để trục lợi bảo hiểm, nhằm
làm giảm bớt khó khăn tài chính từ những thiệt hại mình gặp phải như nhờ mối
quen biết để có thể mua bảo hiểm sau nhưng thời gian bảo hiểm lại trước khi xảy ra
tai nạn.

Nguyên nhân khác nữa là do những người dân chứng kiến tai nạn có thể do
vô tình hoặc cố ý khai sai tình tiết vụ tai nạn nhằm giúp đỡ cho người trục lợi bảo
hiểm. Điều này xảy ra có thể do những người làm chứng này bị mua chuộc hoặc
cũng có thể do nhận thức về bảo hiểm chưa tốt. Họ chưa hiểu được tác dụng của
bảo hiểm cũng như tác hại của việc khai sai của mình. Họ chỉ nghĩ rằng khai như
vậy sẽ giúp người gặp nạn nhận được tiền bồi thường, giảm bớt khó khăn mà tiền
thì lại do Nhà nước chi trả.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
Ngoài ra, người gặp thiệt hại không chỉ có thể mua chuộc được người dân
chứng kiến mà còn có thể nhờ các mối quan hệ mà mua chuộc các cơ quan chức
năng có liên quan. Khi tai nạn xảy ra, thì cảnh sát giao thông sẽ là những người làm
nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường, xác định lỗi của các bên và lập biên bản vụ tai
nạn. Nhân viên bảo hiểm thường phải dựa vào biên bản này để giám định lại, xác
định tổn thất và số tiền bồi thường cho khách hàng, chứ ít khi nhà bảo hiểm có thể
giám định trực tiếp, đặc biệt là các tai nạn ở xa. Vì vậy nên có thể có trường hợp
khách hàng nhờ mối quan hệ của mình để có thể mua chuộc các nhân viên cảnh sát,
làm họ ghi sai biên bản giám định, nhằm trục lợi cho mình. Ngoài ra, họ còn có thể
mua chuộc các y bác sỹ tại các cơ sở khám chữa bệnh nhằm lập hồ sơ bệnh án giả
hay tăng nặng tình trạng bệnh, kê đơn thuốc đắt tiền để trục lợi. Tuy đó chỉ là một
bộ phận nhỏ thoái hóa về đạo đức nên mới tiếp tay cho các hành động gian lận sai
trái, song cũng đã góp một phần không nhỏ trong việc trục lợi của chủ xe (lái xe).
Còn có một nguyên nhân khác xuất phát từ ý thức đó là ý thức người điều
khiển phương tiện xe cơ giới. Do kinh nghiệm của lái xe thường khá cao, am hiểu
về xe cũng như kỹ thuật, nguyên nhân tai nạn, vì vậy họ có thể dễ dàng dàn dựng
hiện trường cũng như tìm được lý do chính hợp lý để trục lợi bảo hiểm mà không
làm nhà bảo hiểm nghi ngờ.
d, Nguyên nhân xuất phát từ không gian địa lý.
Như ta đã biết thì xe cơ giới là loại xe có tính cơ động cao, có thể hoạt động

trên nhiều địa bàn và nhiều khu vực khác nhau trên cả nước. Và nhà bảo hiểm nào
cũng muốn mở rộng thị trường của mình nên loại hình bảo hiểm xe cơ giới của mỗi
công ty cũng thường được triển khai khá rộng trên nhiều khu vực. Song tai nạn xảy
ra bất ngờ và có thể xảy ra ở bất cứ đâu, nên thường thì nhà bảo hiểm không thể
trực tiếp giám định được mà phải nhờ vào biên bản giám định của cảnh sát. Do vậy,
vì khoảng cách địa lý mà có những lúc kết quả giám định không được khách quan,
trung thực. Nhà bảo hiểm không thể trực tiếp kiểm soát hay tìm kiếm được nhân
chứng xác thực, nên rất dễ tạo cơ hội cho trục lợi xảy ra.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
a, Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm.
Do sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt nên công ty nào cũng
muốn tăng thị phần của mình bằng mọi cách. Như việc giảm thủ tục tham gia bảo
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
hiểm dẫn đến sơ hở trong khâu quản lý hoặc giảm phí tham gia bảo hiểm nhằm lôi
kéo khách hàng. Do đó khi có tai nạn xảy ra, gặp phải vướng mắc trong khâu thủ
tục như bảo hiểm trùng thì hai công ty bảo hiểm thường không phối hợp với nhau
nên không phát hiện ra. Dẫn đến tình trạng khách hàng đòi bồi thường nhiều lần với
cùng một tai nạn. Hơn nữa, khi phát hiện ra gian lận thường thì chỉ công ty bị gian
lận lập hồ sơ của khách hàng, mà không có hệ thống cơ sở khách hàng giữa tất cả
các công ty bảo hiểm, cho nên khách hàng lại càng dễ dàng trục lợi ở nhiều công ty
bảo hiểm khác nhau với cùng một thủ đoạn.
Thêm vào đó những hành vi gian lận trục lợi bị công ty phát hiện lại không
được xử lý thích đáng, chỉ dừng lại ở việc từ chối bồi thường chứ ít khi có biện
pháp xử lí đối tượng gian lận. Nên điều này càng tạo tâm lý an tâm cho người có
hành vi trục lợi. Sở dĩ việc xử lý có vẻ lỏng tay như vậy là do công ty bảo hiểm
đánh giá việc không bồi thường đã là không mất chi phí. Còn nếu kiện khách hàng
về hành vi gian lận thì vừa mất thêm phí theo đuổi khiếu kiện dù mình đúng hay sai,
cộng thêm cả nguy cơ mất khách hàng của công ty là rất lớn. Mà hiện nay thì công

ty nào cũng muốn giữ thị phần của mình nên lại càng dễ dàng nhẹ tay với các đối
tượng này. Ngoài ra, khách hàng còn có thể có quen biết với công ty nên việc xử lý
không được triệt để.
b, Nguyên nhân từ các nhân viên bảo hiểm.
Trong cả quá trình bảo hiểm thì khâu khai thác và khâu giám định là hai
khâu quan trọng nhất để phát hiện ra trục lợi. Song công ty bảo hiểm thường không
có sự khuyến khích thích đáng cho những nhân viên thuộc bộ phận này để họ tích
cực phát hiện ra các hành vi gian lận. Ngược lại, ở khâu khai thác, thường các công
ty bảo hiểm phi nhân thọ chú trọng tới doanh thu hơn, nên càng tạo sức ép cho nhân
viên khiến họ thường bỏ qua một số điều kiện hay thông tin của khách hàng trong
thủ tục tham gia bảo hiểm.
Ngoài ra, nguyên nhân cũng có thể do trình độ của các nhân viên bảo hiểm
chưa cao. Do vậy, nhân viên khai thác thì có thể ghi sai thông tin, hoặc bỏ sót
những thông tin cần thiết khi khách hàng tham gia bảo hiểm. Vậy nên càng tạo kẽ
hở cho khách hàng gian lận. Đối với các nhân viên giám định thì họ lại có thể
không có chuyên môn cần thiết. Ngoài kiến thức chuyên môn cơ bản về bảo hiểm,
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
họ còn cần phải có kiến thức về kỹ thuật xe cơ giới mới có thể đánh giá về hiện
trường, cũng như xem xét giám định các vụ tai nạn, từ đó phát hiện gian dối. Song
họ lại thiếu chuyên môn kỹ thuật hoặc chuyên môn còn yếu nên bỏ qua, hoặc bị che
mắt bởi những hành vi dàn dựng hiện trường của khách hàng.
Hơn nữa, còn có một số thành phần nhân viên bảo hiểm còn tiếp tay cho gian
lận. Do đại lý khai thác không phải nhân viên chính thức của công ty, nên việc gì có
lợi cho họ nhất thì họ sẽ làm. Nếu như bị phát hiện có cấu kết với khách hàng thì họ
cũng có thể dễ dàng đi làm đại lý cho các công ty bảo hiểm khác. Do vậy, họ có thể
vì phần lợi ích được hưởng từ việc cấu kết để giúp khách hàng trục lợi từ công ty
bảo hiểm.
4. Hậu quả của trục lợi bảo hiểm

Với những hình thức trục lợi ngày càng tinh vi và mật độ diễn ra ngày càng
phổ biến như hiện nay thì hậu quả của nó để lại chắc chắn sẽ không hề nhỏ và mức
độ lại ngày càng nặng nề trầm trọng hơn rất nhiều. Hậu quả của nó không chỉ đơn
giản ảnh hưởng tới lợi ích của các công ty bảo hiểm mà còn ảnh hưởng tới chính
khách hàng cũng như toàn xã hội.
a, Hậu quả đối với công ty bảo hiểm:
Đối với công ty bảo hiểm thì hậu quả do trục lợi có thể dễ dàng nhìn thấy
được. Như ta đã biết, lợi nhuận của bất cứ công ty kinh doanh nào cũng bằng với
doanh thu thu được trừ đi chi phí bỏ ra. Mà đối với công ty bảo hiểm thì trục lợi gây
ra một phần chi phí không nhỏ, và tất nhiên sẽ làm giảm đi phần lợi nhuận thu được
của công ty, đồng thời còn làm hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. Hơn nữa, khi khách
hàng trục lợi còn có thể mua chuộc nhân viên của công ty, làm tha hóa đội ngũ nhân
viên dẫn đến những thiệt hại vô hình và về lâu dài sẽ ảnh hưởng và gây thiệt hại rất
lớn cho công ty.
Khi xảy ra trục lợi thì công ty phải tăng cường giám định, kiểm tra và kiểm
soát nên thời gian để bồi thường thiệt hại cho khách hàng vì đó bị kéo dài hơn mong
muốn khiến cho khách hàng thất vọng, có thể dẫn đến việc giảm uy tín của công ty
trên thương trường, làm giảm sức cạnh tranh khiến công ty có thể lâm vào tình
trạng kinh doanh thua lỗ.
b, Hậu quả đối với khách hàng
Hậu quả của hành vi trục lợi sẽ ảnh hưởng, tác động xấu tới khách hàng, mà
ở đây là những khách hàng trung thực. Họ hành động đúng nhưng lại chịu thiệt thòi
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
về quyền lợi. Bởi vì, khi tham gia bảo hiểm là số tiền của người tham gia sẽ giống
như một quỹ lớn cho nhiều người nhưng chỉ dùng để giúp đỡ, chi trả cho một số ít
người gặp phải tai nạn không may gây thiệt hại. Song hành vi trục lợi lại khiến cho
những khách hàng trung thực đóng một khoản tiền của mình để chi trả cho cả
những khoản tiền gian lận không được phát hiện ra. Do vậy, những DNBH nào có

nhiều vụ gian lận sẽ có mức phí bảo hiểm cao hơn những doanh nghiệp kiên quyết
chống và loại trừ những kẻ trục lợi bảo hiểm.
Điều này ảnh hưởng tới việc tham gia bảo hiểm của những người trung
thực, khiến họ nghi ngờ về tác dụng của bảo hiểm, tăng sự lo lắng về việc quyền lợi
của mình không được bảo đảm nên sẽ có thể giảm tỷ lệ tham gia bảo hiểm.
c, Hậu quả đối với xã hội
Bảo hiểm về bản chất là đảm bảo an sinh cho toàn xã hội, lấy số đông để
chia sẻ rủi ro với số ít. Điều đó mang một ý nghĩa rất tốt đẹp, ai tham gia bảo hiểm
cũng nhận được sự bảo vệ. Song tình trạng trục lợi xảy ra khiến một số thành phần
nhận được lợi ích từ sự đóng góp của cộng đồng một cách không xứng đáng. Điều
này vô hình chung tạo nên sự bất công giữa những người tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, gian lận bảo hiểm còn là một nguy cơ về đạo đức, làm tha hóa,
biến chất cán bộ Nhà nước như lực lượng cảnh sát làm nhiệm vụ giám định hiện
trường, đội ngũ y bác sĩ, …làm cho môi trường kinh doanh thiếu sự cạnh tranh lành
mạnh, thiếu công bằng, dần dần sẽ có tác động xấu gây ảnh hưởng tới nền kinh tế cả
nước. Hơn nữa, còn dẫn đến tình trạng coi thường luật pháp, gây rối trật tự an ninh
xã hội.
Như vậy, một hành vi trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tưởng chừng như nhỏ bé
nhưng lại có thể ảnh hưởng rất lớn không chỉ nói riêng tới các công ty bảo hiểm,
ngành bảo hiểm mà còn ảnh hưởng xấu tới toàn xã hội. Và với tình trạng trục lợi
ngày càng gia tăng như hiện nay thì hậu quả của nó cũng đáng để báo động.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH TRỤC LỢI BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM TOÀN CẦU GIAI ĐOẠN 2008-2012.
I. Giới thiệu sơ lược lịch sử ra đời và quá trình phát triển của Công ty Bảo
hiểm toàn cầu GIC.
Tên doanh nghiệp: Công ty cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu.
Tên tiếng anh: Global Insurance Company.

Tên viết tắt: GIC
Website: www.gic.com.vn
Email:
Trụ sở chính: Lầu 2 tòa nhà ITAXA House, 126 Nguyễn Thị Minh
Khai, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Điện thoại: 083 3933 0113 – 114 – 115
Fax: 0839330116
Hội sở phía Bắc: Tầng 4 số 141 Lê Duẩn, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Điện thoại: 0439429136
Fax: 0429429123
Công ty cổ phần bảo hiểm Toàn Cầu, viết tắt là GIC được thành lập vào ngày
19/06/2006 với giấy phép TL số: 37/GP/KDBH do Bộ Tài chính cấp. Vốn điều lệ
khi thành lập là 400.000.000.000 VNĐ. Khi mới thành lập thì chỉ có trụ sở chính ở
Thành phố Hồ Chí Minh
1. Lĩnh vực hoạt động, tầm nhìn, sứ mệnh:
Công ty hoạt động trong các lĩnh vực như kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm
phi nhân thọ và đầu tư tài chính.
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm: đây là hoạt động chủ yếu của công ty,
cung cấp hơn 20 nhóm sản phẩm bảo hiểm thương mại từ bảo hiểm con người, tài
sản, kỹ thuật, xe cơ giới,
- Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm phi nhân thọ: đây là một công cụ quản
lý rủi ro đảm bảo khả năng tài chính cho các hợp đồng có giá trị bảo hiểm lớn và
tăng doanh thu từ phí nhận tái bảo hiểm và hoa hồng từ nhượng tái bảo hiểm. GIC
đã xây dựng được cho mình mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với Tổng công ty Tái bảo
hiểm Quốc gia Việt Nam (Vinare) và hơn nữa là mở rộng mối quan hệ với các đối
tác nước ngoài nổi tiếng về lĩnh vực tái bảo hiểm như Swiss Re, Munich Re,
- Đầu tư tài chính: là một kênh đầu tư chủ yếu tạo lợi nhuận cho công ty,
điều hòa nguồn vốn sử dụng và tận dụng tối đa hợp lý nguồn vốn nhàn rỗi nhằm
nâng cao năng lực tài chính, hỗ trợ khả năng khai thác.
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A

19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
Với tầm nhìn: “Cung cấp những sản phẩm bảo hiểm tốt nhất và trở thành
Công ty bảo hiểm Phi nhân thọ lớn thứ 5 tại Việt Nam”.
Sứ mệnh của công ty đó là: “ Trở thành một trong những Công ty bảo hiểm
Phi nhân thọ hàng đầu Việt Nam, hoạt động đa ngành trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính, có thương hiệu, uy tín và chiếm thị phần lớn về kinh doanh bảo hiểm”.
Phương châm hoạt động: Vì quyền lợi khách hàng để phát triển.
2. Các cổ đông chính:
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nắm giữ 30% vốn điều lệ.
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á (DONGA BANK)
- Công ty dịch vụ bay miền Nam (SFC)
- Tổng công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE)
- Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà
(SUDICO)
3. Các sản phẩm chính:
Bảo hiểm con người
- Bảo hiểm sức khỏe toàn diện
- Bảo hiểm học sinh
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm trách nhiệm người sử dụng lao động
- Bảo hiểm tai nạn người sử dụng điện
- Bảo hiểm tai nạn con người
- Bảo hiểm nằm viện phẫu thuật
- Bảo hiểm sức khỏe gia đình
Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm mọi rủi ro tài sản
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
- Bảo hiểm trộm cắp

- Bảo hiểm tiền
- Bảo hiểm lòng trung thành
- Bảo hiểm đèn quảng cáo
- Bảo hiểm mọi rủi ro văn phòng
- Bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân
Bảo hiểm xe cơ giới
- Bảo hiểm vật chất xe ô tô
- Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe
cơ giới
Bảo hiểm hàng hải
- Bảo hiểm tàu biển
- Bảo hiểm tàu ven biển, tàu sông, tàu cá
- Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu và vận
chuyển nội địa
Bảo hiểm kỹ thuật - Bảo hiểm xây dựng, lắp đặt
- Bảo hiểm đổ vỡ máy móc
- Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh do đổ vỡ máy
móc
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
- Bảo hiểm thiết bị điện tử
- Bảo hiểm mồi hơi
- Bảo hiểm hư hỏng hàng hóa trong kho lạnh
Bảo hiểm trách nhiệm
- Bảo hiểm trách nhiệm chung (trách nhiệm công
cộng)
- Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
Bảo hiểm hàng không

- Bảo hiểm thân máy bay, hành khách, hành lý,
phi hành đoàn
- Bảo hiểm trách nhiệm hàng không
Bảo hiểm hộ gia đình
Bảo hiểm cháy nổ
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
21
CÔNG TY CP BẢO HIỂM TOÀN CẦU
TRỤ
SỞ
CHÍNH
HỘI
SỞ
PHÍA
BẮC
Bộ phận NV Hàng hải
Bộ phận NV Phi Hàng hải
Ban TSKT
Ban Tái bảo hiểm
Bộ phận NV Phi Hàng hảiBan Tài chính - Kế toán
Ban BH hàng hải
Ban Bảo hiểm xe cơ giới
và con người
Ban TSKT
Ban Tái bảo hiểm
Ban Tổ chức Hành chính
Ban Tài chính - Kế toán
Ban Kiểm tra nội bộ
Chi nhánh các khu vực
phía Nam ( Đà Nẵng, Bình

Dương, Đồng Nai…)
Chi nhánh các khu vực
phía Bắc ( Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh…)
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
4. Cơ cấu tổ chức:
Nguồn: GIC
5. Mạng lưới chi nhánh:
Hiện nay, GIC đã xây dựng được mạng lưới gồm: 1 Trụ sở chính, 1 Hội sở
phía Bắc, 1 Sở giao dịch phía Nam, 15 chi nhánh và 63 phòng kinh doanh trên toàn
quốc:
- Miền Bắc: Hội sở phía Bắc, chi nhánh Tây Bắc, chi nhánh Hải Phòng, chi
nhánh Quảng Ninh với 31 phòng kinh doanh bảo hiểm.
- Miền Trung và Tây Nguyên: chi nhánh Bắc miền Trung, chi nhánh Đà
Nẵng, chi nhánh Đà Nẵng, chi nhánh ĐăkLăk, chi nhánh Thừa Thiên Huế, chi
nhánh Bình Định, chi nhánh Gia Lai với 11 phòng kinh doanh bảo hiểm.
- Miền Nam: chi nhánh Đồng Nai, chi nhánh Cần Thơ, chi nhánh Bình
Dương, chi nhánh Bà Rịa Vũng Tàu với 13 phòng kinh doanh bảo hiểm.
6. Những thế mạnh của công ty :
Mặc dù công ty mới thành lập cũng chưa lâu nhưng công ty cũng có những
thế mạnh riêng của mình:
- Ban lãnh đạo GIC là những cán bộ có bề dày kinh nghiệm, công tác lâu
năm trong ngành bảo hiểm phi nhân thọ, có mối quan hệ rộng với các ban ngành
quản lý Nhà nước và các khách hàng lớn.
- Sự hợp tác chiến lược giữa GIC và ERGO- một trong những tập đoàn bảo
hiểm lớn nhất Châu Âu vào tháng 3/2011 đã mang lại cho GIC cơ hội nâng cao hơn
nữa chất lượng sản phẩm và dịch vụ đến với khách hàng.
- Mạng lưới hoạt động trải dài gần 60 tỉnh thành trên toàn quốc với hơn 500
cán bộ nhân viên có năng lực chuyên môn cao, GIC đã và đang phục vụ hơn 30.000
khách hàng doanh nghiệp và trên 1.000.000 khách hàng cá nhân.

Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: Th.S Phan Anh Tuấn
II. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới tại GIC
1. Công tác triển khai và tình hình phát triển nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ
giới
Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới của Công ty Bảo hiểm toàn cầu GIC được
triển khai ngay từ khi bắt đầu thành lập. Do GIC là một công ty bảo hiểm phi nhân
thọ nên không thể thiếu được nghiệp vụ này. Song công ty ra đời khá muộn so với
các công ty bảo hiểm phi nhân thọ lớn khác như Bảo Việt, Pjico, Bảo Minh,…nên
để có được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt
như hiện nay thì cần phải tích cực phát triển thị trường, biết tận dụng cũng như khai
thác những khu vực thị trường mà những công ty khác chưa nhắm tới.
Hiện nay công ty Bảo hiểm Toàn cầu đang triển khai nghiệp vụ bảo hiểm
xe cơ giới với loại hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba và bảo hiểm vật chất xe ô tô.
Để đánh giá được tình hình phát triển của công ty thì ta cần phải xem xét
thông qua doanh thu ở bảng sau:
Phạm Thị Hải Vân Lớp: Kinh tế bảo hiểm 52A
23

×