BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LÊ THỊ HỒI VY
HỊA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận “Hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân” là
cơng trình nghiên cứu của tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS.
Xa Kiều Oanh. Kết quả nghiên cứu trong Khóa luận là tìm hiểu của tôi về quy định
của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Những tài liệu tham khảo
LÊ THỊ HỒI VY
được trích dẫn, ghi rõ nguồn và liệt kê tại danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
HỊA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2023
Tác giả
Lê Thị
Hồi Vy
GVHD: ThS. XA KIỀU
OANH
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan Khóa luận “Hịa giải vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân” là
cơng trình nghiên cứu của tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS.
Xa Kiều Oanh. Kết quả nghiên cứu trong Khóa luận là tìm hiểu của tơi về quy định
của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật. Những tài liệu tham khảo
được trích dẫn, ghi rõ nguồn và liệt kê tại danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu
trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 6 năm 2023
Tác giả
Lê Thị Hoài Vy
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Số thứ tự
Viết thường
Viết tắt
1
Bộ luật Dân sự năm 2015
BLDS năm 2015
2
Bộ luật Tố tụng dân sự
BLTTDS
3
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa BLTTDS năm 2004
đổi, bổ sung năm 2011
4
Bộ luật Tố tụng dân sự Cộng Hòa BLTTDS Pháp
Pháp năm 1806
5
Bộ luật Tố tụng dân sự Liên Bang BLTTDS Liên Bang Nga
Nga năm 2003
6
Nghị quyết số 326/2016/NQ- Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về mức thu, UBTVQH14
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tịa án
7
8
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP Nghị quyết số 05/2012/NQngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội HĐTP
đồng Thẩm phán TANDTC hướng
dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật
Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
Tố tụng dân sự
TTDS
9
Tòa án nhân dân
TAND
10
Tòa án nhân dân tối cao
TANDTC
11
Vụ án dân sự
VADS
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN ............................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, ý nghĩa hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ....................6
1.1.1. Khái niệm về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ............................. 6
1.1.2. Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ............................... 9
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân ............................................................................................................................ 10
1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .............10
1.2.2. Phạm vi, nội dung hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ..................13
1.2.3. Thủ tục hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ....................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................31
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT ................................................................................................ 33
2.1. Về phạm vi hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân ............................... 33
2.1.1. Vụ án dân sự không được hịa giải ............................................................... 33
2.1.2. Vụ án dân sự khơng tiến hành hòa giải được ..............................................38
2.2. Về nội dung hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .............................. 43
2.2.1. Điều kiện phải thỏa thuận toàn bộ nội dung vụ án ......................................43
2.2.2. Thỏa thuận về án phí .....................................................................................45
2.3. Về thủ tục hòa giải vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân .................................49
2.3.1. Thủ tục cơng nhận sự thỏa thuận khi có đương sự vắng mặt tại phiên hòa
giải ............................................................................................................................ 49
2.3.2. Về việc đương sự thay đổi ý kiến thỏa thuận sau khi Tòa án đã lập biên bản
hịa giải thành ...........................................................................................................53
2.3.3. Hiệu lực của quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự........54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................59
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hòa giải xuất hiện khi mà con người bắt đầu có những mâu thuẫn, với vai trị
như một biện pháp giải quyết tranh chấp trong đời sống. Đến nay, hòa giải đã khẳng
định được vị thế trong xã hội và đặc biệt nó đã trở thành một thủ tục vô cùng quan
trọng trong hệ thống tư pháp. Sở dĩ phương thức này có vị trí như vậy là xuất phát từ
tính ưu việt của nó như: Thủ tục hịa giải được tiến hành dưới hình thức thỏa thuận
trực tiếp giữa các bên nhằm giải quyết tranh chấp một cách hịa bình và hiệu quả nhất,
là một giải pháp thay thế cho kiện tụng, vốn có thể gây căng thẳng, tốn thời gian và
chi phí. Do đó, đây là một công cụ quan trọng để thúc đẩy tiếp cận công lý, đặc biệt
là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ và dân tộc thiểu số.
Ngồi vai trị thúc đẩy tiếp cận cơng lý, thủ tục hịa giải cịn đóng vai trị quan trọng
trong việc thúc đẩy pháp quyền tại Việt Nam. Với việc cung cấp cơ chế để các bên
giải quyết tranh chấp một cách hịa bình, thủ tục hịa giải giúp phát huy tinh thần tự
nguyện, thỏa thuận và tuân thủ pháp luật giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Thủ tục
hòa giải giúp giảm gánh nặng cho hệ thống Tòa án bằng cách giải quyết tranh chấp
mà không cần mở phiên tòa để xét xử.
Hiện nay, chế định hòa giải vụ án dân sự đã được quy định tương đối đầy đủ
trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, là nguyên tắc đặc thù trong pháp luật tố tụng
dân sự nhằm bảo đảm quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong giải quyết
tranh chấp. Do đó trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, Tịa án có
trách nhiệm hịa giải đối với hầu hết các vụ án dân sự để giúp các đương sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án. Thực tiễn cơng tác hịa giải vụ án dân sự tại Tòa
án trong những năm gần đây cho thấy, chế định hòa giải vẫn chưa phát huy hết giá trị
của nó. Bởi lẽ, một số quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 còn chung
chung, chưa đầy đủ và chưa được hướng dẫn rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu quả của chế định hòa giải vụ án dân sự trong thực tiễn tư pháp. Đặc biệt, đại dịch
COVID-19 vừa qua đã tác động nghiêm trọng đến hệ thống tư pháp, dẫn đến việc tạm
ngừng xét xử tại các Tịa án, trì hỗn và tồn đọng các vụ án cho đến nay. Lúc này, thủ
tục hịa giải càng có ý nghĩa hơn khi có thể giúp giảm bớt một số áp lực cho hệ thống
Tòa án bằng cách giải quyết các tranh chấp hiệu quả mà không cần mở phiên tịa để
xét xử. Do đó, nhu cầu cấp thiết là cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu nhằm
luận giải cả lý luận và thực tiễn, từ đó đề xuất, gợi mở những giải pháp tháo gỡ khó
2
khăn, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thủ tục hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân.
Với nhận thức như vậy, tác giả đã chọn đề tài “Hòa giải vụ án dân sự tại Tòa
án nhân dân” để làm Khóa luận tốt nghiệp. Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả
mong muốn kết quả của việc nghiên cứu sẽ góp phần hồn thiện hơn quy định pháp
luật tố tụng dân sự về hòa giải vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân là một đề tài mặc dù không quá mới
lạ nhưng những vấn đề pháp lý được đặt ra từ đề tài này đã và đang được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Qua khảo sát, tác giả nhận thấy đã có các cơng trình nghiên
cứu về vấn đề này như sau:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Tố tụng
dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ
Chí Minh. Trong cơng trình này, các tác giả phân tích tồn bộ quy định của pháp luật
tố tụng dân sự, trong đó có đề cập đến quy định về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân. Tuy nhiên, mức độ nghiên cứu về hịa giải vụ án dân sự ở góc độ chung,
chưa nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề về hòa giải vụ án dân sự.
Lưu Tiến Dũng, Đặng Thanh Hoa (đồng chủ biên) (2020), Lý giải một số vấn
đề của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 từ thực tiễn xét xử, Nhà xuất bản Hồng Đức,
Thành phố Hồ Chí Minh. Cơng trình này các tác giả có phân tích, bình luận quy định
pháp lý xung quanh hịa giải và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử. Cụ thể, nhóm tác giả phân tích vướng mắc trong quy định, thực
tiễn xét và kiến nghị hồn thiện pháp luật về vấn đề có được tiến hành hòa giải đối
với những vụ án dân sự khơng được tiến hành hịa giải hay khơng. Tuy nhiên, cơng
trình này các tác giả chỉ đưa ra phân tích về những vụ án dân sự khơng được hịa giải
mà chưa phân tích tồn diện những vấn đề về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân, cụ thể như: Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, nguyên tắc, nội
dung và thủ tục tiến hành hịa giải. Do đó, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu những vấn
đề mà cơng trình này chưa đề cập đến để góp phần hồn thiện chế định hòa giải vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Đặng Thanh Hoa (2020), Pháp luật tố tụng dân sự (phần thủ tục giải quyết vụ
án dân sự) tình huống và phân tích, Nhà xuất bản Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí
Minh. Cơng trình đã có những phân tích về vấn đề quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự có thể được tái thẩm hay khơng. Tuy nhiên, cơng trình này
3
tác giả chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề khả năng tái thẩm
của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà chưa nghiên cứu về các
khía cạnh khác của thủ tục hòa giải như: Nguyên tắc, phạm vi, thủ tục tiến hành hịa
giải vụ án dân sự. Vì vậy, ở Khóa luận này, tác giả sẽ đi sâu vào phân tích thêm những
vấn đề trên mà cơng trình chưa làm rõ.
Bùi Thị Huyền (2016), “Quy định về hòa giải vụ án dân sự trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 và những nội dung cần làm rõ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số 12. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản về hòa giải vụ án
dân sự tại Tòa án nhân dân như phạm vi hòa giải, về phiên hòa giải và thời hạn ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong trường hợp có đương sự
vắng mặt khi hòa giải. Tuy nhiên, do phạm vi bài viết tạp chí nên tác giả chưa nghiên
cứu nhiều về các nội dung khác của hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Đặng Thanh Hoa (2017), “Bàn về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ và hòa giải vụ án dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 10. Bài viết
chỉ trình bày những bất cập về khía cạnh hịa giải vụ án dân sự khi có đương sự vắng
mặt trong phiên họp hịa giải mà khơng phân tích tồn diện quy định về hòa giải vụ
án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Phạm Thị Thúy (2020), “Kháng nghị tái thẩm đối với quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8. Trong bài viết, tác
giả của bài viết phân tích vấn đề có được kháng nghị tái thẩm đối với quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự hay không thông qua những quan điểm khác
nhau và thực tiễn giải quyết. Đây cũng là một nội dung mà tác giả sẽ nghiên cứu
chuyên sâu trong Khóa luận này.
Dương Tấn Thanh (2018), “Biên bản hịa giải thành có gửi cho đương sự vắng
mặt khơng”, Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử. Trong bài viết, tác giả đã nêu và phân
tích những quy định về vấn đề biên bản hòa giải thành có gửi cho đương sự vắng mặt
khơng, đồng thời đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. Tuy nhiên, tác giả chỉ
đề cập một vấn đề về biên bản hịa giải có nên gửi cho đương sự vắng mặt khơng mà
khơng nghiên cứu tồn diện về vấn đề hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Nhìn chung, những cơng trình nghiên cứu này đều có giá trị tham khảo đối với
tác giả. Tuy nhiên, đa số những cơng trình trên chỉ nghiên cứu ở khía cạnh hẹp, các
tác giả chỉ đi vào phân tích một vài vấn đề của hòa giải vụ án dân sự, chưa có sự tổng
hợp mang tính khái qt cao. Đề tài Khóa luận “Hịa giải vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân” này, tác giả mong muốn sẽ là một cơng trình nghiên cứu có giá trị bổ sung,
4
đóng góp và tổng hợp khái quát trong việc nghiên hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân cùng với các cơng trình nghiên cứu ở trên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Khóa luận tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải
vụ án dân sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử tại Tòa án nhân dân, thực tiễn áp dụng
các quy định này nhằm phân tích những bất cập và kiến nghị, gợi mở giải pháp hoàn
thiện. Ngoài ra, Khóa luận có đề cập đến việc hịa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới, so sánh và rút ra bài học kinh
nghiệm cho pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng một số phương pháp sau để thực hiện đề tài: Phương pháp
phân tích; phương pháp bình luận án; phương pháp đánh giá, tổng hợp; phương pháp
so sánh.
Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng xuyên suốt trong nội dung Khóa
luận. Chương 1 sử dụng để phân tích những vấn đề mang tính lý luận, khái niệm, ý
nghĩa, còn trong Chương 2 phương pháp này được sử dụng để phân tích tình hình
thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân, các quan
điểm pháp lý từ đó đánh giá vấn đề dưới góc nhìn khoa học.
Phương pháp bình luận án được tác giả sử dụng chủ yếu tại Chương 2, để dẫn
chứng và bình luận các vấn đề trong thực tiễn xét xử của Tịa án, từ đó đánh giá và
đưa ra quan điểm cá nhân đối với các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
Phương pháp đánh giá, tổng hợp cũng được sử dụng thường xuyên trong Khóa
luận. Sau khi đã phân tích các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn, phương pháp này
được sử dụng để tổng kết lại các vấn đề pháp lý, kết quả nghiên cứu của từng chương
cũng như toàn bộ Khóa luận. Đặc biệt đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng
trong q trình tác giả hồn thiện kết luận Chương 1, Chương 2 và kết luận chung.
Phương pháp so sánh được sử dụng lồng ghép với các phương pháp trên trong
suốt Khóa luận. Cụ thể, phương pháp so sánh được sử dụng khi nghiên cứu quy định
về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân theo pháp luật Việt Nam
cũng như pháp luật một số quốc gia khác để tìm ra điểm giống, khác và những điểm
tiến bộ trong pháp luật các nước nhằm học tập để hoàn thiện các quy định của pháp
luật trong nước. Từ kết quả so sánh, tác giả nhận định và củng cố những kiến nghị đề
xuất nhằm hoàn thiện cơ chế áp dụng pháp luật nước nhà.
5. Kết cấu của Khóa luận
5
Ngoài Lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải vụ án dân sự tại Tịa án
nhân dân và kiến nghị hồn thiện quy định pháp luật.
6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.
Khái niệm, ý nghĩa hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển, các mối quan hệ pháp luật dân sự
ngày càng đa dạng và phức tạp. Khi các chủ thể tham gia vào các mối quan hệ pháp
luật đó, họ khó có thể tránh khỏi các tranh chấp phát sinh. Nếu các mâu thuẫn này
không được giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các bên tham gia vào quan
hệ pháp luật cũng như toàn xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn trong các mối quan hệ
pháp luật nói trên, các chủ thể có thể lựa chọn giải quyết bằng phương thức thương
lượng, hòa giải.
Hòa giải ở đây có thể là hịa giải ngồi Tịa án, hoàn toàn độc lập với thủ tục
tố tụng, bên thứ ba đứng ra hòa giải sẽ do các bên tranh chấp lựa chọn có thể là cá
nhân, tổ chức hành nghề Luật sư hoặc các cá nhân, tổ chức khác. Hịa giải cũng có
thể là hịa giải tại Tịa án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020, hòa giải
được bắt đầu khi người khởi kiện nộp đơn đến Tòa án nhưng Tòa án chưa thụ lý như
quy định của BLTTDS năm 2015 mà phải xem xét để hòa giải theo Luật Hòa giải,
đối thoại tại Tòa án năm 2020 trước1, do Hòa giải viên tiến hành theo quy định của
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020. Một hoạt động hòa giải khác với hai
loại hình hịa giải trên, và cũng là phạm vi nghiên cứu của Khóa luận, đó là hịa giải
VADS tại TAND. Đây là trường hợp các bên khởi kiện để u cầu Tịa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, hịa giải sẽ do Tịa án tiến hành sau khi Tòa án
thụ lý, cụ thể là ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VADS, hòa giải trong trường
hợp này là một thủ tục bắt buộc đối với hầu hết các VADS2.
Về khái niệm hòa giải, trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Black’s Law Dictionary: “Hòa giải là sự can thiệp, sự làm trung gian
hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm
thuyết phục họ hoặc dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ. Việc giải quyết
1
Đặng Thanh Hoa, Nguyễn Đức Nam, “Một số vấn đề về Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án”,
truy cập ngày 10/5/2023.
2
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hịa giải hoặc khơng hịa giải được quy định tại Điều 206
và Điều 207 BLTTDS năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn (khoản 1 Điều 205 BLTTDS
năm 2015).
7
tranh chấp thơng qua người trung gian hịa giải (bên trung lập)” 3. Trong Từ điển
Luật học Anh - Mỹ của Black định nghĩa: “Hịa giải là một q trình giải quyết tranh
chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, hòa giải viên là người thứ ba trung lập giúp
các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận”4. Theo các khái niệm này, hòa giải được
hiểu là việc các bên tranh chấp tự thỏa thuận giải quyết các mâu thuẫn phù hợp với
quy định của pháp luật thông qua sự giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập, tuy nhiên,
theo các định nghĩa như trên lại không xác định được cơ sở phát sinh của bên thứ ba
trung lập. Khái niệm hòa giải được đề cập trong Từ điển pháp lý của Rothenberg:
“Hòa giải là hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng
bộ một ít”5. Định nghĩa này đã nêu được bản chất của hòa giải là sự thỏa hiệp, nhượng
bộ nhưng chưa nêu được hành vi, vai trò của người thứ ba làm trung gian trong hịa
giải và gần như khơng có sự khác biệt so với phương thức thương lượng.
Ở Việt Nam, trong Từ điển Tiếng Việt, hòa giải được định nghĩa như sau:
“Hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hay xích mích một
cách ổn thỏa”6 hay “Là thu xếp để chấm dứt một cuộc xung đột, một mối bất hòa”7.
Khái niệm ngầm chỉ sự tham gia của một bên thứ ba nào đó để “thuyết phục” các bên,
qua đó cho thấy hành động và mục đích của hịa giải nhưng chưa nêu được các yếu
tố về nội dung, chủ thể của hòa giải cũng như vai trò của bên thứ ba. Từ điển Luật
học cũng đề cập: “Hòa giải là tự chấm dứt việc xích mích, tranh chấp giữa các bên
bằng sự thương lượng với nhau hoặc qua trung gian của một người khác” 8. Từ điển
này đã đưa ra định nghĩa về hịa giải bao gồm các yếu tố: Có sự tranh chấp giữa các
bên, có sự tham gia của bên trung lập để đưa ra ý kiến tư vấn và có sự thống nhất ý
chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hịa giải. Có
quan điểm cho rằng: “Hòa giải là một chế định quan trọng của luật tố tụng dân sự,
là phương pháp giải quyết vụ án bằng chính sự thỏa thuận thương lượng của các
3
Pryan A. Gamer (2004), Black’s Law Dictionary, NXB West, Thomson, tr. 30.
4
Henry Campbell (1990), Từ điển Luật học Anh - Mỹ Black, NXB West, Thomson, tr. 152.
Rothenberg (1996), Plain Language Dictionary of Law, Signet, tr. 410.
5
6
7
8
Từ điển Tiếng Việt (1992), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 350.
Từ điển Tiếng Việt (1999 - 2000), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 372.
Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách Khoa, tr. 208.
8
đương sự”9. Ngồi ra cũng có quan điểm khác như: “Hòa giải là việc tự thân các bên
trong quan hệ hòa giải với nhau để đạt được thỏa thuận về mọi mặt của tranh chấp
hoặc là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân với tư cách là trung gian thuyết phục, hướng
dẫn các bên đạt được thỏa thuận mang tính thỏa đáng nhất trong việc giải quyết vụ
kiện”10. Quan điểm này đã nhìn nhận hịa giải là một phương thức giải quyết tranh
chấp, được giúp đỡ bởi bên thứ ba để các bên tranh chấp tìm ra hướng giải quyết xung
đột.
Nhìn chung, các khái niệm về hịa giải có những điểm khác nhau nhưng tựu
chung, khái niệm hòa giải được hiểu: Hòa giải là biện pháp, phương thức giải quyết
tranh chấp, với sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp và sự tác
động của bên thứ ba đóng vai trị là trung gian hịa giải hỗ trợ các bên tự do thỏa
thuận và quyết định phương án giải quyết thuận lợi, thích hợp.
Dưới góc độ xem xét hòa giải ở một giai đoạn trong giải quyết VADS tại
TAND, pháp luật chưa có khái niệm về hịa giải VADS11.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Kiểm sát
Hà Nội, hòa giải VADS tại TAND được hiểu: “Hòa giải vụ án dân sự là một thủ tục
tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết các vấn đề của vụ án dân sự”12. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
của Trường Đại học Kinh tế - Luật cũng đưa ra khái niệm: “Hòa giải vụ án dân sự là
hoạt động mà Tịa án có trách nhiệm phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự nhằm giúp các đương sự thỏa thuận với nhau trong việc giải quyết quan hệ
tranh chấp”13. Quan điểm khác cũng cho rằng: “Hòa giải vụ án dân sự là một hoạt
động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án dân sự”14. Theo góc nhìn này, có thể nhận thấy hòa giải
9
Đặng Quang Huy (2017), “Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hịa giải vụ án dân sự”,
Tạp chí Nghề Luật, số 06, tr. 55.
10
Nguyễn Thị Thanh Vân (2019), “Thể chế hòa giải tại Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 4, tr. 32.
Hòa giải vụ án dân sự ở đây là hòa giải vụ án dân sự sau khi Tòa án đã thụ lý, khác với hòa giải trước khi
Tòa án thụ lý theo Luật Hòa giải đối thoại tại Tòa án năm 2020.
11
12
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia
Sự thật, tr. 339.
13
Trường Đại học Kinh tế - Luật (2016), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 211.
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr.
261.
9
VADS tại TAND là một khái niệm mà nội hàm của nó bao gồm dấu hiệu cơ bản đó
là hoạt động do Tòa án chủ động tổ chức và trực tiếp tiến hành với vai trò hướng dẫn,
giúp đỡ các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp.
Từ những phân tích trên, tác giả có thể khái qt: Hịa giải vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân là một thủ tục bắt buộc được diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm (trừ những vụ án không được hịa giải hoặc khơng tiến hành hịa giải
được quy định tại Điều 206 và Điều 207 BLTTDS năm 2015 hoặc vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 205 BLTTDS năm 2015). Đây
là hoạt động tố tụng do Tòa án trực tiếp tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật tố
tụng dân sự quy định nhằm giúp các bên đương sự hiểu rõ quyền, nghĩa vụ của mình,
tạo điều kiện thuận lợi để các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án phù hợp với quy định của pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Qua nghiên cứu, hòa giải VADS tại TAND có những ý nghĩa cơ bản sau:
Thứ nhất, ý nghĩa về mặt tố tụng. Chế định hòa giải là cơ sở pháp lý, là những
chuẩn mực pháp luật mà Tòa án áp dụng để bảo đảm thực hiện đúng đắn và nghiêm
chỉnh pháp luật. Khi hòa giải thành sẽ giúp Tòa án giải quyết vụ án mà khơng phải
mở phiên tịa, tránh được việc khiếu nại, kháng cáo... Ngoài ra, mỗi bên đương sự
đều thỏa thuận trên cơ sở ý chí tự nguyện và phù hợp với lợi ích của mình, nên họ tự
nguyện trong việc thực hiện quyết định của Tòa án. Việc thi hành án khơng cần sự
tác động nào của Tịa án và trở nên đơn giản, dễ dàng hơn, ít để lại hậu quả xấu. Bên
cạnh đó, trong trường hợp hịa giải khơng thành thì phiên hịa giải cũng giúp Thẩm
phán nắm vững hơn về vụ án, hiểu rõ hơn tâm tư tình cảm và những vướng mắc của
đương sự, từ đó có thể định hướng giải quyết vụ án đúng đắn hơn.
Thứ hai, ý nghĩa đối với các bên tranh chấp. Hịa giải thành giúp các đương
sự ít tốn kém về án phí cho những u cầu của mình. Bởi lẽ, trước khi mở phiên tòa,
Tòa án tiến hành hòa giải, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án thì họ chỉ chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm (khoản 3 Điều 147
BLTTDS năm 2015). Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án thì họ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nếu u cầu của
họ khơng được Tịa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc khơng phải chịu
án phí sơ thẩm (khoản 1 Điều 147 BLTTDS năm 2015).
Bên cạnh đó, chế định hịa giải giúp các đương sự có tranh chấp hiểu biết pháp
luật hơn, nắm vững các quyền và nghĩa vụ của bản thân cũng như sự việc đang tranh
10
chấp để có những thái độ, hành vi đúng mực, chuẩn bị chu đáo hơn cho việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong phiên tịa xét xử tranh chấp dân sự. Thơng
qua việc tiến hành hịa giải VADS giúp các đương sự thông cảm với nhau, giúp họ
giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở, giảm bớt mâu thuẫn, ngăn ngừa tội phạm
có nguồn gốc từ tranh chấp dân sự phát sinh.
Thứ ba, ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội.
Về mặt kinh tế: Hòa giải thành sẽ giúp cho Tòa án kết thúc sớm việc giải quyết
VADS, tiết kiệm được thời gian, công sức, chi phí tố tụng. Đối với đương sự, hịa
giải thành VADS sẽ tiết kiệm thời gian, án phí và những chi phí khơng cần thiết, nhất
là đối với những đương sự ở xa trụ sở Tòa án, việc đi lại có khó khăn và tốn kém.
Về mặt xã hội: Nếu như tranh chấp bị xem như là biểu hiện tiêu cực, là sự phá
vỡ hịa thuận, bình n trong quan hệ giữa các bên thì hịa giải lại được xem là biểu
hiện của sự tích cực, là giữ gìn, củng cố mối quan hệ và đảm bảo trật tự cơng cộng.
Trong q trình giải quyết VADS bằng hịa giải, với sự giúp đỡ của Tòa án, mỗi bên
đương sự đều đưa ra những yêu cầu, nhượng bộ trên cơ sở cân nhắc những lợi ích thu
được cũng như những thiệt hại có thể xảy ra đối với mỗi bên cho từng phương án giải
quyết. Trên cơ sở đó, các bên sẽ có được kết quả hịa giải thường là khơng có bên
thắng thua mà là giải pháp có lợi cho cả hai bên, giữ được thể diện, uy tín cho nhau.
Bên cạnh đó, việc hịa giải giúp Tịa án giải quyết VADS thấu tình, đạt lý, củng
cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử Tòa án. Hịa giải góp phần nâng cao
nhận thức và hiểu biết về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, giáo dục nếp
sống và làm theo pháp luật trong nhân dân. Hòa giải thành còn giúp cho việc thi hành
án thuận lợi, mà khơng cần phải có sự cưỡng chế của cơ quan Nhà nước, tạo một môi
trường pháp lý an toàn, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh
lệnh mà là bằng sự thương lượng, thuyết phục của các thành viên trong xã hội 15.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân
1.2.1. Nguyên tắc tiến hành hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Để việc hòa giải đạt kết quả, hòa giải phải được thực hiện theo những nguyên
tắc luật định.
Ngun tắc hịa giải dựa trên cơ sở tơn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của
các đương sự.
15
Đặng Quang Huy, tlđd (9), tr. 55.
11
Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, các bên bình đẳng với nhau, được
tự do cam kết, xác lập các quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ sở không vi phạm điều cấm
của luật và không trái đạo đức xã hội. Đồng thời, bản chất thỏa thuận của đương sự
về giải quyết vụ án là một dạng giao dịch dân sự, nên khi hòa giải, Tòa án phải tôn
trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự16. Vì thế, điểm a khoản 2 Điều 205
BLTTDS năm 2015 quy định: “Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương
sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải
thỏa thuận khơng phù hợp với ý chí của mình”. Theo nguyên tắc này, sự tự nguyện
của đương sự về hòa giải là tự lựa chọn, tự quyết định tham gia hòa giải và tự nguyện
thỏa thuận về giải quyết vụ án, đây là một nguyên tắc cơ bản về hòa giải các VADS17.
Thứ nhất, tự nguyện tham gia hòa giải. Hịa giải khơng chỉ là trách nhiệm của
Tịa án mà trước hết là quyền của đương sự. Bởi cơ sở pháp lý của hòa giải xuất phát
từ nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5 BLTTDS năm
2015). Theo đó, đương sự được quyền tự do lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong q trình giải quyết VADS và
trách nhiệm của Tịa án trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện được quyền quyết
định và tự định đoạt của họ trong TTDS. Cụ thể tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS năm
2015, trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Tịa án phải đưa vụ án ra ra xét xử
sơ thẩm, điều này thể hiện sự tôn trọng tự nguyện tham gia xét xử, không được cưỡng
ép hay ép buộc đối với họ.
Thứ hai, tự nguyện thỏa thuận nội dung hòa giải. Sự tự nguyện thỏa thuận nội
dung hịa giải có nghĩa là trong q trình hịa giải, phải do chính đương sự hoặc người
đại diện của đương sự thực hiện, thảo luận và đi đến thống nhất phương án giải quyết
bằng ý chí của mình. Nếu sự thỏa thuận của đương sự có được là do có hành vi dùng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực của người khác tác động lên ý chí chủ quan của đương
sự làm cho họ buộc phải thỏa thuận để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của mình thì thỏa thuận đó khơng được coi là tự nguyện thỏa thuận.
Ngoài ra, để đảm bảo sự tự nguyện thỏa thuận, trong q trình hịa giải, Tịa án chỉ
16
Bùi Thị Huyền (2016), “Điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về hòa giải vụ án dân sự và những
nội dung cần hướng dẫn”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 8, tr. 17.
17
Lữ Cẩm Nhung (2021), Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 8.
12
có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về các vấn đề của
VADS, giúp các đương sự hiểu về quyền và nghĩa vụ liên quan tới các tranh chấp, tự
nguyện thỏa thuận với nhau mà không để các đương sự biết trước về phương hướng
giải quyết vụ án nếu phải đưa ra xét xử nhằm đảm bảo cho các đương sự thực sự tự
nguyện khi hòa giải.
Nguyên tắc nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Sự tuân thủ pháp luật là yêu cầu bắt buộc trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội
nên sự thỏa thuận của các bên trong hòa giải cũng không phải là ngoại lệ. Nhà nước
bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự trên cơ sở quyền tự do thỏa thuận, nhưng nếu
thỏa thuận này vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội đều khơng có giá trị
pháp lý.
Với ngun tắc này, BLTTDS năm 2015 có sự thay đổi so với BLTTDS năm
2004. Theo điểm a khoản 2 Điều 180 BLTTDS năm 2004: “Nội dung thỏa thuận
giữa các đương sự không được trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội”. Với quy
định này đã gây ra cách hiểu là chỉ cần đáp ứng một trong hai điều kiện không trái
pháp luật hoặc không trái đạo đức xã hội thì sẽ được coi là thỏa thuận hợp pháp. Để
khắc phục sự không phù hợp này, điểm b khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 đã
sửa đổi thành “Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội”. Theo đó, nội dung thỏa thuận giữa các đương sự
phải đáp ứng cả hai điều kiện là không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo
đức xã hội thì mới được coi là thỏa thuận hợp pháp. Ngồi ra, BLTTDS năm 2015
cịn có sự thay đổi từ thuật ngữ “không được trái pháp luật” ở BLTTDS năm 2004
thành “không vi phạm điều cấm của luật”. Sự thay đổi này đã giúp mở rộng phạm vi
thỏa thuận của các đương sự. “Không được trái pháp luật” có thể là việc chủ thể
khơng thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện hay chủ thể sử
dụng quyền hạn vượt quá giới hạn cho phép hoặc chủ thể thực hiện những hành vi bị
pháp luật cấm. Như vậy, có thể thấy điều cấm của luật là một phần của việc trái pháp
luật. Việc sửa đổi như quy định tại BLTTDS năm 2015 là hợp lý bởi về cơ bản, cơng
dân có quyền làm những điều mà pháp luật không cấm.
Sự thay đổi tại điểm b khoản 2 Điều 205 BLTTDS năm 2015 là phù hợp và
nhất quán với Điều 117 BLDS năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự khơng vi phạm điều cấm của luật,
13
không trái đạo đức xã hội”. Điều này một mặt sẽ mở rộng các quyền tố tụng của
đương sự, một mặt tạo ra sự phù hợp giữa pháp luật TTDS và pháp luật dân sự18.
1.2.2. Phạm vi, nội dung hòa giải vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
1.2.2.1. Phạm vi hòa giải vụ án dân sự
Phạm vi hòa giải VADS là giới hạn những nội dung mà Tòa án tiến hành hòa
giải trước khi giải quyết VADS. Theo khoản 1 Điều 205 BLTTDS năm 2015, “Trong
thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án khơng được hịa giải
hoặc khơng tiến hành hịa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật
này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”. Như vậy, khi giải quyết VADS,
Tòa án phải tiến hành hòa giải như một thủ tục bắt buộc, trừ những vụ án khơng được
hịa giải, vụ án khơng tiến hành hòa giải được hoặc vụ án được giải quyết theo thủ
tục rút gọn.
Những vụ án khơng được hịa giải
Hiện nay, BLTTDS năm 2015 không đưa ra khái niệm như thế nào là những
vụ án khơng được hịa giải mà chỉ liệt kê các trường hợp Tịa án khơng được hịa giải.
Tuy nhiên, có thể hiểu một cách khái qt những vụ án khơng được hịa giải là những
VADS pháp luật cấm khơng cho phép hịa giải19, vì vậy cho dù các bên đương sự tự
nguyện thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì Tịa
án cũng khơng được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Theo
Điều 206 BLTTDS năm 2015, những VADS khơng được hịa giải bao gồm hai trường
hợp đó là u cầu địi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và
những vụ án phát sinh từ giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã
hội.
Thứ nhất, vụ án dân sự yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài
sản của Nhà nước.
Theo khoản 1 Điều 206 của BLTTDS năm 2015, u cầu địi bồi thường vì lý
do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, Tịa án khơng được hòa giải mà phải giải
quyết bằng việc mở phiên tịa xét xử. Pháp luật khơng cho phép các bên thỏa thuận
vì tính chất của của loại tài sản này thuộc sở hữu tồn dân, khơng thể tiến hành hịa
giải để quyết định về mức hay nội dung giá trị bồi thường. Quy định này nhằm hạn
18
Bùi Thị Huyền, tlđd (16), tr. 18.
19
Bùi Thị Huyền, tlđd (16), tr. 18.
14
chế sự lạm dụng của những người được giao quyền quản lý tài sản, gây thiệt hại, thất
thoát tài sản của Nhà nước20. Ngun nhân lạm dụng có thể vì thiếu trách nhiệm hoặc
vì động cơ vụ lợi mà thương lượng với bên gây thiệt hại dẫn đến không khắc phục
hoặc khắc phục không đầy đủ những thiệt hại đã xảy ra.
Vậy hiểu thế nào là tài sản của Nhà nước. Theo quy định tại Điều 197, Điều
205, Điều 207 BLDS năm 2015, chỉ quy định ba hình thức sở hữu, đó là sở hữu tồn
dân, sở hữu riêng và sở hữu chung, khơng cịn hình thức sở hữu Nhà nước. Như vậy
quy định của BLTTDS năm 2015 không tương thích với quy định của BLDS năm
2015 về hình thức sở hữu nên Điều 206 BLTTDS năm 2015 cần được hướng dẫn cho
phù hợp với quy định của BLDS năm 2015.
Mặc dù hiện nay chưa có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn cụ thể về hòa giải đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản thuộc
sở hữu toàn dân. Song, trước đây Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP có hướng dẫn cụ
thể tại Điều 15 Nghị quyết này như sau:
(i) Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị
vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thực
hiện quyền sở hữu thơng qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có u cầu địi bồi
thường thiệt hại đến loại tài sản này, Tịa án khơng được hịa giải để các bên đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
(ii) Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở
hữu khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà doanh nghiệp được
quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước
Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có u cầu
địi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Tịa án tiến hành hịa giải để các bên đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Có quan điểm cho rằng, có thể dẫn chiếu đến Điều 15 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP, mặc dù vào thời điểm hiện nay văn bản này đã hết hiệu lực
nhưng vẫn chưa có văn bản nào giải thích chi tiết về vấn đề này và nhận thấy vẫn có
20
Đặng Quang Huy, tlđd (9), tr. 56.
15
ý nghĩa trong việc tham khảo tinh thần của Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQHĐTP21.
Tác giả cũng đồng tình với quan điểm như trên. Mặc dù Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP hiện nay đã hết hiệu lực thi hành, nhưng hướng dẫn này rất hợp
lý và nên áp dụng tinh thần của văn bản này để giải quyết trong trường hợp chưa có
văn bản hướng dẫn mới. Sở dĩ khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến tài
sản của Nhà nước góp vốn tại các loại hình doanh nghiệp thì Tịa án vẫn tiến hành
hịa giải trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bởi lẽ tài sản Nhà nước góp vốn theo Luật
Doanh nghiệp vào các cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm hữu hạn thì các doanh
nghiệp này phải có quyền tự chủ, tự quyết đối với tài sản của doanh nghiệp mình. Do
đó việc hịa giải khi có tranh chấp xảy ra trong trường hợp này là phù hợp với quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Thứ hai, những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật
hoặc trái đạo đức xã hội.
Pháp luật cho phép các chủ thể được tự do xác lập về thực hiện giao dịch dân
sự. Tự do thực hiện giao dịch dân sự chỉ được thừa nhận nếu giao dịch đó khơng vi
phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội. Thông thường các quy định của
pháp luật trong đó đã hàm chứa những nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Tuy
nhiên, có một số giao dịch khơng có quy định của pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn
vơ hiệu vì xâm phạm đến đạo đức xã hội.
Theo quy định tại Điều 123 BLDS năm 2015, giao dịch dân sự có mục đích,
nội dung vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội thì đó là giao dịch vơ
hiệu. Điều 123 BLDS năm 2015 quy định: “Điều cấm của luật là những quy định
của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”, “đạo đức xã
hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa
nhận và tôn trọng”. Như vậy, so với điều cấm của luật, đạo đức xã hội có điểm khác
biệt cơ bản, nó khơng phải là quy định của luật mà là chuẩn mực trong đời sống xã
hội. Đạo đức xã hội khác với điều cấm của luật ở nơi nó hình thành, điều cấm hình
thành trong văn bản pháp luật cịn đạo đức hình thành trong đời sống xã hội. Nội dung
của đạo đức xã hội không nằm trong văn bản mà trong đời sống. Do đó, tìm đạo đức
xã hội là tìm trong đời sống nên rất khó về mặt nội hàm, đời sống thay đổi thì mức
21
Nguyễn Thị Thùy Linh (2018), Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn
tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 34.
16
ứng xử cũng khác nhau và quan niệm về đạo đức xã hội cũng từ đó mà thay đổi. Hậu
quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 131 BLDS năm
2015 cụ thể như sau: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khơi phục
lại tình trạng ban đầu, hồn trả lại cho nhau những gì đã nhận”. Vì vậy, các bên
tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật của mình.
Tuy nhiên có thể tham khảo tinh thần khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP, trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả
của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tịa án vẫn tiến
hành hịa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết giao dịch dân
sự vơ hiệu đó. Ví dụ: A và B tranh chấp về hợp đồng mua bán đất nhưng lô đất đó
chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Tịa án khơng thể hịa giải
nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch, nhưng có thể tiến hành hịa
giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô
hiệu, thống nhất việc “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả lại cho
nhau những gì đã nhận” một cách hợp lý nhất22.
Vụ án khơng tiến hành hịa giải được
Khơng giống với vụ án khơng được hịa giải, những vụ án khơng tiến hành hịa
giải được về bản chất là những vụ án pháp luật quy định cần phải tiến hành hòa giải
giữa các bên đương sự khi giải quyết vụ án. Song việc hòa giải những vụ án này
không thực hiện được là do trở ngại khách quan dẫn đến việc không tiến hành hòa
giải được23, thuộc những trường hợp pháp luật quy định khơng cần tiến hành hịa giải
giữa các đương sự và tiếp tục thực hiện giải quyết vụ án ở những giai đoạn tiếp theo.
Những VADS khơng được hịa giải khác với những VADS khơng tiến hành hịa giải
được. Bởi lẽ, những VADS khơng tiến hành hịa giải được thì trong hồ sơ vụ án phải
chứng minh đầy đủ lý do cho từng trường hợp mà Tịa án khơng thể tiến hành hòa
giải được.
Theo quy định tại Điều 207 BLTTDS năm 2015, những VADS khơng tiến
hành hịa giải được bao gồm bốn trường hợp đó là: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt;
22
Đặng Quang Huy, tlđd (9), tr. 57.
23
Bùi Thị Huyền, tlđd (16), tr. 19.
17
đương sự khơng thể tham gia hịa giải được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ
hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; một trong các
đương sự đề nghị khơng tiến hành hịa giải.
Thứ nhất, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
Trường hợp bị đơn vắng mặt được kế thừa khoản 1 Điều 182 BLTTDS năm
2004. Bị đơn là chủ thể bị động và bất lợi khi tham gia tố tụng và thường có ý thức
trốn tránh. Đối với chủ thể này, chỉ cần có dấu hiệu cố tình vắng mặt khơng tham gia
hịa giải trong lần triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà không cần xét tới lý do vắng mặt thì
pháp luật cho phép Tịa án tiếp tục tiến hành giải quyết vụ án và không cần tiến hành
hịa giải. Việc khơng tiến hành hịa giải được trong trường hợp này là do ý chí chủ
quan của bị đơn.
So với BLTTDS năm 2004, BLTTDS năm 2015 bổ sung thêm trường hợp
VADS khơng tiến hành hịa giải được trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. Việc
bổ sung này là cần thiết, phù hợp với thực tế bởi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là người khơng khởi kiện, khơng bị kiện nhưng họ có quyền, nghĩa vụ liên quan
đến VADS. Có thể nhận thấy một điểm chung giữa vị thế của bị đơn và vị thế của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là đa phần họ đều ở thế bị động trong VADS.
Do đó, khi Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt có nghĩa là
họ khơng có thiện chí muốn hịa giải và việc tiếp tục triệu tập hịa giải cho đến khi có
mặt đầy đủ của các đương sự chỉ làm lãng phí thời gian, dẫn đến kéo dài thời gian
giải quyết vụ án mà khơng đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, trong trường
hợp này, Tòa án lập biên bản về vụ án khơng tiến hành hịa giải được và có quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Thứ hai, đương sự không thể tham gia hịa giải được vì có lý do chính đáng.
Hịa giải là sự thỏa thuận của các đương sự về giải quyết VADS do đó cần
phải có mặt các đương sự. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 207 BLTTDS năm 2015,
khi các đương sự có lý do chính đáng để từ chối tham gia phiên hịa giải thì Tịa án
xác định đây là trường hợp VADS khơng tiến hành hòa giải được. Đương sự ở đây
được hiểu là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (khoản 1
Điều 68 BLTTDS năm 2015).
Lý do chính đáng là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác
xảy ra như: Do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện; một bên
18
đương sự đang ở trong trại cải tạo hoặc ở nước ngoài hoặc do nơi cư trú của các
đương sự ở các nơi có khoảng cách địa lý xa nhau đi lại khó khăn… khiến đương sự
khơng thể có mặt tham gia phiên hòa giải được24. Việc gặp trở ngại khách quan hay
lý do bất khả kháng có thể xảy ra đối với bất kỳ ai, dù là nguyên đơn, bị đơn hay
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do vậy, quy định đương sự khơng thể tham
gia hịa giải được vì lý do chính đáng thì đều thuộc trường hợp khơng tiến hành hịa
giải được. Tuy nhiên, vì khơng có hướng dẫn cụ thể về lý do chính đáng nên việc áp
dụng quy định này trên thực tế là tùy thuộc vào quan điểm của Thẩm phán xem xét
lý do mà đương sự đưa ra có chính đáng hay khơng. Do đó, khi áp dụng pháp luật về
quy định này thiếu sự thống nhất, TANDTC cần có hướng dẫn hiểu như thế nào là
“lý do chính đáng”.
Thứ ba, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực
hành vi dân sự.
Vụ án ly hôn là vụ án giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền nhân thân của
đương sự. Chỉ có bản thân vợ, chồng mới có quyền định đoạt, thỏa thuận các vấn đề
liên quan đến quyền nhân thân của mình mà khơng thể chuyển giao cho người khác.
Theo quy định tại Điều 22 BLDS năm 2015: “Khi một người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo u cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án
ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận giám định pháp y tâm thần”. Do vậy, trong trường hợp đương sự là vợ hoặc
chồng là người mất năng lực hành vi dân sự tức là họ khơng có khả năng nhận thức
và làm chủ hành vi, khơng có khả năng thể hiện đúng ý chí của mình thì họ khơng
thể thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án ly hôn nên trong trường hợp vợ hoặc
chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự thì thuộc trường hợp
Tịa án khơng tiến hành hịa giải được.
Ví dụ, vụ án ly hơn giữa ngun đơn chị Hoàng Thị T với bị đơn anh Hà Văn
C, là người mất năng lực hành vi dân sự, người giám hộ của anh là anh Hà Văn P (em
trai ruột). Chị Hoàng Thị T và anh Hà Văn C đăng ký kết hôn và trước khi cưới, anh
Hà Văn C khơng có biểu hiện bị bệnh thần kinh. Về sau, TAND huyện Bình Gia, tỉnh
Lạng Sơn đã tuyên bố anh Hà Văn C là người mất năng lực hành vi dân sự. Nay chị
24
Lê Thị Bích (2013), Hịa giải vụ việc dân sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 49.
19
Hồng Thị T u cầu Tịa án giải quyết được ly hôn với anh Hà Văn C. Bị đơn trong
vụ án là người mất năng lực hành vi dân sự, do đó Tịa án khơng tiến hành hịa giải
vụ án25.
Tuy nhiên, ở đây có sự thiếu tương thích với BLDS năm 2015. Khi giao dịch
với người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự xác lập thì giao dịch này sẽ bị tuyên là giao dịch dân sự vô hiệu (khoản 1
Điều 125 BLDS năm 2015). Trong khi đó, BLTTDS năm 2015 chỉ đặt ra việc khơng
tiến hành hịa giải được với đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người
mất năng lực hành vi dân sự. Vấn đề đặt ra, trường hợp vợ hoặc chồng trong vụ án ly
hơn là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất
năng lực hành vi dân sự, việc hòa giải trong trường hợp này cũng khơng thể hiện được
ý chí của họ, mục đích và kết quả của hịa giải cũng khơng đạt được. Do đó, trong
trường hợp vợ hoặc chồng trong vụ án ly hơn là người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi thì cũng nên hướng dẫn thuộc trường hợp khơng thể tiến hành hịa
giải được để đảm bảo tốt nhất quyền, lợi ích của đương sự.
Thứ tư, một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải26.
Bản án số 02/2019/HNGĐ-ST ngày 22/03/2019 của Tịa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn về việc
“Ly hôn”.
25
26
Liên quan đến trường hợp trong vụ án có nhiều đương sự, nếu có một đương sự là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đề nghị khơng tiến hành hịa giải thì có thuộc trường hợp vụ án dân sự khơng hịa giải được theo
quy định tại khoản 4 Điều 207 BLTTDS năm 2015 không, tại mục 5 Giải đáp thắc mắc của TANDTC số
01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ hướng dẫn rằng:
“Khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định một trong các trường hợp vụ án dân sự khơng
tiến hành hịa giải được là: “Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hịa giải”. Như vậy, trường hợp
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đề nghị không tiến hành hịa giải là trường hợp vụ án dân
sự khơng tiến hành hòa giải được.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 209 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu trong vụ án có nhiều
đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc tiến
hành hịa giải khơng ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hịa giải
giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hỗn phiên hịa giải để có mặt tất cả các đương sự trong
vụ án thì Thẩm phán phải hỗn phiên hịa giải. Thẩm phán phải thơng báo việc hỗn phiên hịa giải và việc
mở lại phiên hịa giải cho đương sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nếu các đương sự có mặt tại phiên hịa
giải thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó có giá trị đối với những người có mặt
và được Thẩm phán ra quyết định cơng nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng
mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận
này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải
đồng ý bằng văn bản”.
20
Đây là trường hợp VADS khơng tiến hành hịa giải được, quy định hoàn toàn
mới trong BLTTDS năm 2015, xuất phát từ quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự, một loại quyền rất đặc trưng và có thể nói là quan trọng nhất trong TTDS27.
Quy định này đã tạo sự linh hoạt trong thủ tục hòa giải, đương sự khơng muốn hịa
giải thì Tịa án khơng thể tiến hành hòa giải được, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án
khi đương sự đề nghị khơng hịa giải ngay từ đầu. Bởi trên thực tế, có rất nhiều VADS
mà mâu thuẫn giữa các bên đã trở nên trầm trọng, khơng thể khắc phục được, hoặc
có những vụ án tính chất phức tạp mà các đương sự không thể tự giải quyết hoặc
không thỏa thuận được với nhau.
Về vấn đề này có hai quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, nếu một trong các đương sự đề nghị Tịa án
khơng tiến hành hịa giải là hồn tồn hợp lý theo quy định của nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, Tịa án phải tơn trọng quyền đó của đương
sự28. Hơn nữa, hịa giải là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp các đương sự
thỏa thuận được với nhau. Do đó, hịa giải là quyền của đương sự, nếu một trong các
đương sự đã khơng có ý muốn hịa giải, khơng có thiện chí thì khơng nên kéo dài thời
gian như trước đây, phải đợi đến khi Tòa án triệu tập hợp lệ đương sự lần thứ hai mà
đương sự cố tình vắng mặt mới lập biên bản khơng hịa giải được rồi mới đưa vụ án
ra xét xử.
Quan điểm thứ hai cho rằng nếu một trong các đương sự đề nghị không tiến
hành hịa giải thì Tịa án sẽ khơng tiến hành hòa giải và đưa vụ án ra xét xử là khơng
hợp lý. Bởi lẽ xuất phát từ vai trị của hòa giải trong TTDS là một biện pháp giải
quyết tranh chấp được coi trọng, có ý nghĩa đối với cả đương sự và Tịa án. Chính vì
thế, nếu một trong các đương sự đề nghị khơng tiến hành hịa giải, Tịa án khơng tiến
hành hịa giải thì khơng có cơ hội cho Tòa án giúp đỡ các đương sự hòa giải. Như vậy
đã vơ hình trung làm cho các đương sự khác khơng thực hiện được quyền hịa giải
của họ29.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất bởi xuất phát từ quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự, họ có quyền tự quyết định và định đoạt đối với yêu cầu
27
Đặng Quang Huy, tlđd (9), tr. 58.
28
Bùi Thị Huyền (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự, NXB Lao Động, Hà Nội, tr. 272.
Đặng Quang Huy (2018), Nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn Thạc
29
sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 40.