Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................3
NỘI DUNG.................................................................................................4
I – Lý luận chung về hòa giải vụ án dân sự.............................................4
1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự (VADS)......................................4
2. Phạm vi hòa giải VADS..................................................................4
3. Thành phần và thủ tục hòa giải.......................................................7
a. Thành phần phiên hòa giải..........................................................7
b. Thủ tục tiến hành hòa giải...........................................................8
4. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự..................9
II - Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ án
dân sự trong BLTTDS.....................................................................................10
1. Ưu điểm của những quy định pháp luật về hòa giải trong BLTTDS
.....................................................................................................................10
a. Những vụ án dân sự không được hòa giải, những vụ án dân sự
không tiến hành hòa giải được................................................................10
b. Thành phần phiên hòa giải........................................................11
c. Thủ tục Hòa giải........................................................................12
2. Một số ý kiến về sự hạn chế của các quy định pháp luật về hòa giải
và định hướng hoàn thiện pháp luật trong tố tụng dân sự...........................13
a. Về nguyên tắc tiến hành hòa giải..............................................13
b. Về hình thức tiến hành hòa giải................................................13
c. Về thành phần phiên tòa............................................................14
d. Về tiến hành hòa giải ở cấp phúc thẩm.....................................15
KẾT LUẬN...............................................................................................16
Tài liệu tham khảo:................................................................................17
2
LỜI MỞ ĐẦU
Hòa giải là một chế định rất quan trọng trong TTDS. Hòa giải là hoạt
động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án dân sự. Việc hòa giải thường có ý nghĩa hết sức quan trọng
vừa đảm bảo tiết kiện chi phí và tiền của cho Nhà nước, cho người dân, giảm
bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa các đương
sự, góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân. Do đó, nếu chế định hòa giải không được quan tâm đúng mức trong
việc giải quyết vụ án dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của cac bên đương sự sẽ
không được đảm bảo triệt để.
Tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, chế định hòa giải mới chỉ
được giải quyết tại 2 điều luật (Điều 43,44). Theo đó, khái niệm cũng như thủ
tục tiến hành hòa giải được nêu ra ở mức độ khái quát. Nội dung này được quy
định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn như: Nghị quyết 03/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự; Công văn
86/KHXX ngày 14/12/1996 của Tòa án nhân dân tối cao trả lời về Thủ tục hòa
giải trong Tố tụng dân sự… Chế định hòa giải vì thế mà chưa được thống nhất
quy định tại một văn bản có giá trị pháp lý cao. Kế thừa và phát triển từ những
quy định mang tính hệ thống và những quy định mang tính hướng dẫn thi hành
như đã nói trên. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, chế định hòa giải được
dành một vị trí tương đối quan trọng, với số lượng các điều luật nhiều hơn (9
Điều) và các vấn đề đã được quy định chi tiết. Ngoài ra, một số nội dung được
quy định mới trong BLTTDS như nguyên tắc tiến hành hòa giải, biên bản hòa
giài… những quy định hòa giải trong BLTTDS thực sự đã góp phần vào việc
giải quyết vụ án dân sự được thích đáng và đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bên đương sự.
3
NỘI DUNG
I – Lý luận chung về hòa giải vụ án dân sự
1. Khái niệm hòa giải vụ án dân sự (VADS)
Sau khi thụ lý vụ án, để giải quyết vụ án tòa án tiến hành giải thích pháp
luật, giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết các vấn đề của VADS có tranh chấp. Hoạt động này của tòa án được
gọi là hòa giải VADS. Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do tòa án tiến
hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự.
Cơ sở của hòa giản VADS là quyền tự định đoạt của các đương sự. Để
giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tòa án
không chỉ xét xử mà còn hòa giải vụ án dân sự. Điều 10 Bộ luật Tố tụng Dân sự
(BLTTDS) quy định, tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện
thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự
theo quy định của Bộ luật này
Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm VADS. Tuy
vậy, theo các điều 220, 270 BLTTDS thì tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa
án cũng hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VADS
không? Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VADS
thì toán án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Như vậy,
việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ những việc không
hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Quy định này xuất
phát từ tầm quan trọng của hòa giải. Nếu hòa giải thành cũng có nghĩa là tòa án
đã hoàn thành việc giải quyết vụ án mà không cần mở phiên tòa.
2. Phạm vi hòa giải VADS
Tại khoản 1 Điều 180 BLTTDS quy định trách nhiệm hòa giải của tòa án:
“Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các
đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không
được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều
4
182 của Bộ luật này”. Do vậy, hòa giải tiến hành với việc giải quyết hầu hết
VADS, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định
không được hòa giải. Theo Điều 181 LTTDS, tòa án không hòa giải đối với
những yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước; những
VADS phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Đối với yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tòa
án không tiến hành hòa giải vì tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Bất
cứ hành vi nào gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều là trái pháp luật và
phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây thiệt hại không có quyền điều
đình, thương lượng hay thỏa thuận với Nhà nước về trách nhiệm bồi thường của
mình. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2 mục II Nghị quyết 02/2005/NQ-
HĐTP thì
“a. Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn
vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà
nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Toà án không được hoà giải để
các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
b. Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của
các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc
định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến
tài sản đó, Toà án tiến hành hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.”
Tức là những trường hợp tài sản của Nhà nước giao cho cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp sử dụng mà những đối tượng này có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt thì tòa án vẫn tiến hành hòa giải; còn trường hợp Tài sản của Nhà
nước giao cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhưng Nhà nước thực
5
hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án không được hòa
giải.
Đối với những VADS phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2 mục II Nghị quyết 02/2005/NQ-
HĐTP thì tòa án không được hòa giải nếu việc hoà giải nhằm mục đích để các
bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về
việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức
xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với
nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó.
Về nguyên tắc, tòa án phải hòa giải vụ án dân sự trước khi đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm. Tuy vậy, theo quy định tại Điều 182 BLTTDS đối với những vụ
án không tiến hành hòa giải được thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Những vụ án không tiến hành hòa giải được bao gồm:
- Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình
vắng mặt.
- Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.
- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực
hành vi dân sự.
Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn cố tình vắng mặt, thì theo hướng dẫn tại tiểu mục 3 mục II Nghị quyết
02/2005/NQ-HĐTP Toà án lập biên bản về việc không tiến hành hoà giải được
do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Trong trường hợp tại phiên toà bị đơn có yêu cầu Toà án hoãn phiên toà để tiến
hành hoà giải, thì Toà án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện cho các bên
thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đối với hai trường hợp còn lại, tòa án phải lập biên bản không hòa giải
được , nêu rõ lý do để lưu vào hồ sợ vụ án, sau đó đưa vụ án ra xét xử tại phiên
tòa.
6