Tai Lieu Chat Luong
Vương Hồng Sển
Tự vị tiếng nói
miền Nam
Nhà xuất bản Trẻ
4TVTNMN
VƯƠNG HỒNG SỂN
5
Lời giới thiệu
Trước 1995, những khi thắc mắc về những từ gốc Trung Hoa, gốc
Khơ-me hay những địa danh, tơi thường đến nhà chú Vương - đó là
cách tôi xưng hô với Cụ do sự cách biệt về tuổi tác và lịng kính trọng.
Nay ngồi đọc lại từng trang quyển ” Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam”,
tơi có cảm tưởng như đang nghe chú Vương nói về các từ gốc Triều
Châu: lì xì, thèo lèo, mửng...; các từ gốc Quảng Đơng: hẩu, xá xíu,
xiếu mại...; các từ gốc Khơ-me: bưng, nóp, bị hóc, bị ót...; và gốc
Pháp: xà ích, dinh tê.
Về từ “dinh tê” chẳng hạn, Cụ Vương kể rằng đó là từ nói trại
động từ “rentrer” của Pháp theo lối phát âm của đồng bào miền
Bắc, chỉ việc những người tản cư khi Pháp tái chiếm các đô thị sau
1945, sau thời gian sống trong vùng tự do, vì nhớ tiếc đời sống thị
thành đã trở về sống ở vùng Pháp ngụy. Rồi nhân đó, Cụ sẽ kể từ
“tụt tạt” là một từ nảy sinh trong thời kháng chiến, cũng ở miền
Bắc, chỉ việc mấy người theo kháng chiến nhát gan, khi đối diện
với binh lực đối phương thường tìm cách “tụt” xuống phía sau hay
“tạt” sang bên này bên kia để tránh địch.
Cách trình bày do sự liên tưởng trong lúc hứng thú khiến đôi
khi Cụ không giữ đúng lối sắp xếp các mục từ thông thường trong
từ điển. Sau khi kể các tư liệu về lịch sử, địa lý, dân cư... của tỉnh
Bà Rịa chẳng hạn, Cụ kể luôn tất cả các tỉnh Nam Bộ, từ Bạc Liêu
đến Vĩnh Long theo thứ tự a,b,c, cũng với đầy đủ các chi tiết về
mỗi tỉnh. Các địa danh về cù lao, cửa, núi, sơng, giồng, gị... cũng
được trình bày theo cách ấy.
Tuy có hơi mất thời giờ trong sự tra cứu, nhưng người đọc sách
nhờ giọng nói hóm hỉnh của tác giả thấy hứng thú hơn sự tiếp thu
các kiến thức sâu rộng của Cụ.
6TVTNMN
Và từ chỗ cảm thấy mình gần gũi với tác giả hơn, ta sẽ dễ dàng
chia sẻ với Cụ những gian nan vất vả của nhà nghiên cứu đi sâu
vào nhiều ngành chuyên môn (địa lý, lịch sử, ngôn ngữ, dân tộc
học, phong tục học....) với một sự tận tụy khơng mệt mỏi vì tinh
thần tơn thờ sự chính xác. Sau khi giảng giải từ “dỏ” trong địa
danh “Dỏ Sa” chẳng hạn, Cụ đặt vấn đề: có phải “dỏ” đã do sự phát
âm sai biến đổi thành “vỏ” trong các địa danh Vỏ Đắc, Vỏ Đắt, Vỏ
Đất? Tác giả cũng đã chia sẻ cùng người đọc nhiều nỗi băn khoăn
trong việc giảng giải địa danh “Giu Gia”, tên nôm của huyện Phong
Thạnh ngày trước nay thuộc tỉnh Sóc Trăng, chẳng hạn.
Đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” của cụ Vương Hồng Sển,
chúng ta sẽ vừa tìm được nhiều chỉ dẫn q báu về địa danh, về
tiếng nói Nam Bộ xưa và nay, vừa được thưởng thức cách kể chuyện
rất duyên dáng của một cụ già vừa có hiểu biết sâu rộng về nhiều
ngành chuyên môn, vừa rất từng trải trong cuộc sống.
TP.Hồ Chí Minh, 15.4.1998
Bùi Đức Tịnh
Giới thiệu và hiệu đính
VƯƠNG HỒNG SỂN
7
Cảm nghĩ
Nhân đọc “Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam” - sách tái bản trong loạt
sách kỷ niệm 300 năm SG-TP.HCM.
Quyển Tự Vị Tiếng Nói Miền Nam (nguyên bản của soạn giả ghi
“Tự Vị tiếng Việt miền Nam”) đã được độc giả đón nhận với sự nồng
nhiệt, mặc dầu đề tài như khô khan, của địa phương. Thật ra, ngay
từ trước 1975, khi đất nước chưa thống nhất, người quê Nam Bộ đã
tập kết ở miền Bắc trong thời gian dài, cưới vợ lấy chồng, sự giao
lưu thông cảm khá rộng rãi. Người khó tánh có thể cho rằng những
từ ngữ trong Tự Vị này là phương ngữ (tiếng lóng) của địa phương,
nhưng gẫm lại, nếu nó đã được vài triệu người dùng đến thì khó gọi
là tiếng lóng, thổ ngữ... vài từ ngữ trong Tự Vị này vẫn cịn gây ngạc
nhiên, khó hiểu - hoặc hiểu bằng trực giác - đối với chính người sống
ở Nam Bộ nhưng tại địa phương khác, tỉnh khác, hoặc đã lên Sài
Gòn từ thuở bé.
Hồi cuối thế kỷ thứ 19, Huỳnh Tịnh Của đã cho in tại Sài Gòn
quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, rất hữu ích, nghiêng về tiếng nói
ở phía Nam. Huỳnh tiên sinh là người gốc Bà Rịa, nên đã thiên về
tiếng nói ở miền Đơng Nam Bộ. Lần này, non 100 năm sau, tận phía
Hậu Giang, nơi có nhiều người dân tộc Khơ-me, nhiều người Hoa,
ơng Vương Hồng Sển ngẫu nhiên đã phản hồi lại, với thiện chí của
kẻ đi sau.
Quyển Tự Vị này gẫm lại là một sự góp nhặt tư liệu, chưa sắp xếp
cho ổn thỏa, khó tra cứu, nhưng làm sao sắp xếp được? Nên nhớ ơng
Vương chun chơi đồ sành sứ, ham thích giao du, ưa đọc sách in từ
xưa, siêng ghi chép, gặp cái gì lạ là ghi, qua nhiều người bạn già đã
mất rồi, mất trước ơng. Ơng lại thích nghiên cứu sách của người Pháp
8TVTNMN
viết về Nam Bộ, ba con của ông là dân Sốc Trăng rất am tường về
người Khơ-me, người Hoa. Đã là tiếng nói phổ biến của địa phương,
nhất là những tên đất, dễ đặt nhiều giả thiết, chính ơng Vương cũng
ghi rõ các giả thiết. Tiếng Việt, tiếng Hoa là đơn âm, dễ trùng lặp
nhau, cũng như tiếng Khơ-me khi nói nhanh gần như đơn âm, chính
người Khơ-me khi được hỏi về địa danh xưa cũng mỉm cười, dễ dãi.
Miễn là sống hịa thuận trong thơn xóm, giúp đỡ nhau thì Bố Thảo,
Cái Răng, hiểu sao cũng được.
Bạn đọc sẽ ngạc nhiên khi thấy nhiều tiếng khó giải thích lại được
ơng giải thích tường tận, như một nhà bác học. Ngược lại, thí dụ như
cù lao Tân Dinh ở sơng Hậu Giang, ngang Sốc Trăng đã được giải thích
ở Gia Định Thành Thơng Chí, là dinh tạm của Nguyễn Ánh, nhưng
ông đã gây phức tạp, rối rắm thêm. Hoặc hàng hóa cũ, ở nơi đấu giá
thời Pháp gọi “lạc-xon” đã được Nguyễn Liên Phong chú thích từ 1909
là do chữ “l’auction”, kiểu bán có nhân viên tư pháp đứng đấu giá đồ
xưa... Ông đã đọc và ghi lại rất nhiều sách, tánh của ông là cứ mua
để dành tra cứu, gần như khơng thích đi thư viện. Ơng đã cơng bằng
khi nhắc đến các ông bạn già là Lê Ngọc Trụ, Lê Thọ Xuân, Nguyễn
Hiến Lê. Dường như quên ông Thuần Phong!
Bài hát của Trần Tiến đã có lời lẽ duyên dáng: “Thấy em nhỏ xíu,
anh thương”. Nhỏ xíu là tiếng dun dáng phía Nam, theo chủ quan
của tơi, xíu là tiểu, là nhỏ, đọc theo giọng người Hoa, xíu, xỉu. Bắc
Nam một nhà.
Dám mong các độc giả, nhất là các bạn trẻ sử dụng tài liệu đậm
đặc này, bổ sung, giải thích thêm. Khẳng định đúng hay sai một cách
sổ toẹt chẳng ích lợi gì cả. Thế hệ của ông Vương Hồng Sển chỉ biết
ghi vào sổ tay chi chít, chưa quen dùng máy ghi âm cỡ nhỏ hoặc máy
vi tính.
Soạn quyển Tự Vị như ơng, quả là cống hiến lớn cho đất nước.
Một kiểu di chúc về “cổ ngoại” đắt giá hơn vàng. Vàng mua sắm được,
nhưng tâm huyết của con người làm sao mua sắm nhanh chóng?
Sơn Nam
VƯƠNG HỒNG SỂN
9
Bài Tựa thâu gọn cho cuốn
Tự Vị Tiếng Nói miền Nam
Tơi vốn học lem nhem, nhưng vì thấy Tiếng Nói miền Nam
đang xa lần cái gốc tự nhiên của nó nên tơi đã soạn cuốn Tự Vị
này và nhờ hai bạn Lê Ngọc Trụ(1) và Nguyễn Hiến Lê(2) duyệt khá
kỹ, rồi tôi giao những thẻ rời cho hai bạn trẻ Nguyễn Minh Hồng,
Nguyễn Q. Thắng tìm kiểm và bổ túc, nhưng cho đến hôm nay, sách
vẫn chưa thành hình.
Bài tựa cũ, tơi viết q dài(3), nay vì việc ấn lốt tốn kém nhiều,
nên tơi viết lại bài tựa này , và chỉ lấy một tỷ dụ nhỏ làm mẫu, tỷ
như từ “cần đóp” là một loại lá cây dừa nước dùng để lợp nhà, tức lá
sắp xếp từ lá rời khâu lại nguyên tờ, và vẫn khác và nên phân biệt với
lá nguyên tờ mà miền Nam gọi “lá bng”. Cả hai từ ấy “cần đóp”
và “bng” theo tôi đều do tiếng Miên của người Đàn Thổ (nay gọi
Cam Bu Chia) biến ra tiếng Việt, nếu không cắt nghĩa tường tận thì
lần hồi sẽ khơng ai biết nữa.
(1)
(2)
(3)
Lê Ngọc Trụ (1909-1979) Giáo sư, tác giả nhiều cơng trình nghiên cứu ngôn ngữ học
Việt Nam (BT)
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) Học giả, tác giả hơn 120 bộ sách về nhiều lĩnh vực: Văn
học, ngôn ngữ học (BT)
Tuy vậy, chúng tơi vẫn cho in ở phụ lục vì nhận thấy bài có nhiều điều có thể minh họa
cho sách (BT)
10TVTNMN
Vả lại sức học Miên Ngữ của tôi rất non nớt, tôi không dám cho là
đúng, là chắc chắn, tuy vậy cũng tạm ghi lại để chờ người cao kiến dạy
thêm, thì: kon đâp slék, theo một sách Pháp viết, là assembler des
feuilles (sắp lá), slek mo kăn đâp là “une paillette” (một sắp lá).
Sau đó vì sống chung đụng nhau giữa người Thổ và Việt, ta đã
thâu gọn vào tiếng miền Nam này, ra từ “Lá cần đóp” (lá sắp kết)
và lá bng (ngun tờ).
Đến từ “bng” cũng có chút rắc rối, trong Nam này, phân biệt:
rạch Lá Buôn là rạch chạy dưới chòm lá loại lá cây kè, dùng làm
quạt và “rạch lá bng” (bng có g) là rạch dưới cây dừa nước, lá
lấy làm lá để chép kinh Phạn (sanscrit), hoặc viết Thổ ngữ.
Tôi thêm ra đây một từ khác, cũng mượn của Cơ Me (khmer) là
từ “Bưng” “Bưng” là étang, ao nước sệt sệt, ta ghép với một từ Hán
“Biền” hóa ra: “bưng biền” (1 nơm, 1 chữ).
Truy ra “trep bươn” là herbes flottantes sur les étangs, hóa ra
“bn” (khơng g) và bng (có g) như kể trên.
Tiếng Miên tôi không biết nhiều, nhưng vẫn gạn đi gạn lại mới
dám dùng, và mấy hàng này kể như lời trối.
Cẩn Tự
S.
(viết ngày 5.7.1993)
VƯƠNG HỒNG SỂN
11
Phàm lệ
- Cách sắp xếp, lối viết tắt, xin theo lệ cũ, tự điển sẵn có, khơng cần
nói lại.
- PCGBCTVK: Petit cours de géographie de la Basse Cochinchine
par Trương Vĩnh Ký 1ère édition, Saigon, Imprimerie du
Gouvernement, 1875.
- DĐTLTVK: Dư đồ thuyết lược, Trương Vĩnh Ký, Si Gũn,
Imprimerie de la Mission, 1887.
- L.F.C.P.: Lexique franỗais cambodgien par A. Pannetier, Avignon
H. Auzac et J. Augier, 1907.
- L.E.C. et C.D.B: Les expéditions de Chine et de Cochinchine par
de Bazancourt, Amiot, Paris, 1861-1862.
- L.P.A.D.L.C.P.V: Les premières années de la Cochinchine par
Paulin Vial, 1874.
- L.S.N.C.M.N: Lịch sử nội chiến miền Nam - Tạ Chí Đại Trường,
Sài Gòn, 1972.
- L.R.A.D.R: Le royaume d’Annam et les Annamites par Dutreuil
de Rhins, 1879.
- Launay: Histoire ancienne et moderne de l’Annam (Tong King et
Cochinchine) par l’abbé Adr. Launay, Challamel, Paris, 1884.
- N.V: Nam Việt (bây giờ gọi là Nam Bộ) BV (Bắc Việt - Bắc bộ); TV
(Trung Việt)....
12TVTNMN
- C.C.B.P: La Cochinchine Contemporaine par A. Bouinais et Paulus,
Challamel aimé 1884.
- H.E.C.L.P.B: Histoire de l ‘expédition de Cochinchine en 1861 par
Léoppold Pallu de la Barrière, Berger Levrault Paris, 1888.
- G.D.T.C.A: Giadinh thung chi, traduction Aubaret, Imprimerie
Impériale Paris 1863.
- NKLTDĐCTTT: Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí Thượng Tân Thị dịch,
1944.
- ĐNNTCLTNV: Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt, Nguyễn
Tạo dịch, 1959 (1 và 2).
- GĐTTCNT: Gia Định Thành thơng chí, Nguyễn Tạo dịch, 1972 (ba
tập 1,2,3).
- Đ.N.V.T: Đồng Nai văn tập.
- S.Đ: Tập san Sử Địa.
- Baurac: Dr J.C. Baurac: La Cochinchine et ses habitants: provinces
de l’Ouest, 1894; provinces de l’Est, 1899.
- Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Mr. Charpentier,
publiée à Saigon en 1868 et insérée dans l’ouvrage “Les premières
années de la Cochinchine de Paulin Vial (1874).
- Carte de la Cochinchine dressée d’après la carte de Dutreuil de
Rhins et publiée au Dépôt de la Marine en 1881 (Histoire de
l’expédition de Cochinchine 1881).
- V.N.M.L. Việt Nam máu lửa, Nghiêm Kế Tổ, Hà Nội, 1954.
- V.N.S.L: Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, Hà Nội, 1938.
- V.N.T.Đ: Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Saigon, 1972.
VƯƠNG HỒNG SỂN
13
A
Arroyo Commercial: đd., tên Pháp
của Rạch Chanh, chữ gọi Đăng
Giang. Năm Mậu Tuất (1778)
chúa Nguyễn Ánh lội qua sơng
nầy thốt khỏi bị Tây Sơn bắt.
Có thuyết nói ngài nhờ trâu đưa
qua, thuyết khác nói ngài cỡi trên
lưng sấu cho thêm uy tín, có thần
nhơn phù hộ.
Ngày nay cịn lại ba kiểu chén
trà ghi lại tích nầy:
1) Kiểu nói xa gần, vẽ cảnh
một người cầm lọng đứng bờ
sông bên kia, chờ thuyền bên
nầy chống qua rước. Có đề câu
thơ: Bình kiều nhơn quán độ,
chuyển sức tiểu chu lai”. Ký hiệu:
Ngoạn ngọc.
2) Kiểu thứ hai, vẽ y kiểu
nhứt, duy thơ đề: “Ngư gia độ
hoàng gia, Âm tinh ngộ đế tinh”.
(Ký dưới đáy hiệu Ngoạn ngọc).
3) Kiểu thứ ba, vẽ y hai kiểu
trên, nhưng khơng đề câu nào,
(hoặc tích đã phổ biến rộng, hoặc
chén riêng cho võ biền không cần
đề chữ).
Rạch Chanh (Đăng giang)
ngày xưa lẫy lừng danh tiếng,
dưới nước chứa đầy sấu dữ, ngày
nay cỏ mọc loán đầy, ghe thuyền
bỏ khơng dùng.
Lồi sấu rất sợ tiếng động, chỗ
nào có sấu, khi tàu chạy qua lại
thường, sấu sợ rút đi hết.
Lời bàn phụ - Sách sử khơng
nói rõ Nguyễn Ánh lội ngang khúc
sơng nào. Duy phải nhìn nhận
ngài có tài lội hay mới thốt khỏi
nạn dữ. Theo tơi ước định lội nơi
đầu vàm, từ Vàm Cỏ chạy qua,
Tây Sơn không dám rượt qua, vì
thuở ấy, sơng Bến Lức là ranh giới
bờ cõi chia hai Tây Sơn và Đông
14TVTNMN
Sơn, từ Sài Gòn xuống, mé bên
nầy thuộc Tây Sơn, lội qua sơng,
mé bên kia thuộc Đơng Sơn có
binh địch trấn giữ nên Tây Sơn
không dám qua và nhờ vậy nên
Nguyễn Ánh thoát nạn.
Arroyo de la Poste: đd., tên Pháp
của Bảo Định hà.
Có người dịch “Kinh Bót”
là sai, và nên cải chính là kinh
trạm. Poste (giống cái) là nhà
dây thép, chỗ gởi thơ từ. Ngày
xưa trong Nam chuyển vận thơ
từ theo đường thủy, nên gọi giang
trạm. Và thuở nay nói đi poste gởi
thơ chớ khơng nói đi bót gởi thơ.
Poste (giống đực) là sở cẩm ngồi
Bắc, trong Nam gọi bót phú lít
(poste de police) hoặc bót săn đầm
(gendarme).
Arroyo de la Poste, tên Việt là
Kinh Vũng Gù (Vũng Cù giang),
Hưng Hòa giang, Bảo Định hà,
v.v...
Arroyo de la Poste: đd., (trích
Monographie de la province de
Mỹ Tho in năm 1902, để cho
thấy con kinh nầy, ta gọi nhiều
tên khác nhau, đây chỉ nhắc tên
Bảo Định hà, dài bao dai và quan
trọng thế nào:
L’arroyo de la Poste, relie les
chefs-lieux de Tân An et de Mỹ
Tho. Il a 20 kilomètres de long sur
80 mètres de large; c’est un des
arroyos les plus fréquentés par
la batellerie indigène. En 1895
on a construit sur cet arroyo, à
Mỹ Tho, près de son embouchure
dans le grand fleuve, un pont
à travées mobiles semblable à
celui qui a été construit à Tân An.
L’arroyo de la Poste forme un dos
d’âne sur la limite du village de
Tinh Hà (monogr. My Tho, tr. 19).
Dịch. Kinh “Trạm Thơ” nối liền
hai tỉnh lỵ Tân An qua Mỹ Tho.
Dài 28 kilômét, bề ngang rộng 80
mét, ghe thương hồ bản xứ qua
lại náo nhiệt nhứt. Năm 1895 (1)
nơi đầu vàm trổ ra sơng lớn, phía
Mỹ Tho, có bắc một cây cầu sắt,
nhịp cầu xây rút được, y một kiểu
vở như cầu đã bắc ở phía Tân An.
Arroyo de la Poste có nổi một giáp
nước nơi ranh làng Tịnh Hà.
(1) Nhờ câu này ta biết cầu sắt
Chợ Cũ Mỹ Tho có từ năm 1895.
Ngao Châu: đd., tên Hán của cù
lao Bãi Ngao (xem chữ ấy).
Ác Giùm Sơn: đd., tên chữ của núi
Ác Giùm (xem chữ ấy).
Ách, ông ách: dt. chức adjudant của
Pháp qua tiếng Việt, lúc còn quân
đội Pháp bên nầy, trên chức đội,
nhưng vẫn thuộc hàng hạ sĩ. Ách
tuổi già, trở nên khó tánh, hay
phạt hay quở những lính tay trơn,
cịn nhớ nhà nhớ vợ, nên ông ách
thường được tặng thêm và tâng
lên hàng “ách xì xằng”, mới nghe
lại cịn gần ngữ Pháp “adjudant”
hơn nữa.
Ải Vân: đd., tên núi, ở t. Quảng Nam,
thường có mây bao phủ trên chóp,
nơi đây có xây một ải. (Viết Hải
Vân, không đúng).
(Nhưng nay đã quá quen
dùng, và nên thông cảm, tức cả
hai danh từ: Ải Vân, Hải Vân,
đều dùng được, và không nên
“vua hơn nhà vua” (plus royaliste
que le roi!).
Những ai có từng đặt chơn nơi
Ải Vân này, đều công nhận quả là
một cảnh kỳ tú, “trên mây dưới
VƯƠNG HỒNG SỂN
biển”, gọi “Hải Vân” nếu không
cho là được thì cũng chưa sai chút
nào. Một tài tử màn ảnh Pháp
năm xưa từng khen với tôi: “nước
anh cảnh vật nào thua bên Thụy
Sĩ, như Ải Vân là một”, tưởng
cũng nên chép lại đây gọi dư âm
chơn tình khơng bịa.
Xin thêm: nhớ như trên đỉnh
có ba chữ Hán để lại đề: “Ải Vân
Quan” rõ ràng.
An Biên Phủ: đd., tên một phủ của
tỉnh Hà Tiên đất Lục tỉnh Nam
Kỳ đời đàng cựu, gồm ba huyện:
- Hà Châu (Hà Tiên)
- Long Xuyên (Cà Mau)
- Kiêng (sic) Giang (Rạch Giá)
(PCGBCTVK)
An Bình giang: đd., tên Hán của con
sông Cái Bè (xem sông Cái Bè).
An Giang tỉnh: đd., tên một trong
lục tỉnh Nam Kỳ đời đàng cựu,
gồm ba phủ tám huyện (nay là
tỉnh An Giang):
- Phủ:
1) Tuy Biên (Châu Đốc)
- Huyện:
1) Tây Xuyên (Cái Vừng, Ba
Rách, Long Xuyên)
2) Phong Phú (Cần Thơ)
- Phủ:
2) Tân Thành (Sa Đéc)
- Huyện:
1) Vĩnh An (Sa Đéc)
2) Đông Xuyên (Cái Vừng)
3) An Xuyên (Nha Mân)
- Phủ:
3) Ba Xuyên (Sốc Trăng)
- Huyện:
1) Phong Nhiêu (Bãi Xàu)
2) Phong Thạnh (Giu Gia)
3) Vĩnh Định (Ba Xuyên)
(PCGBCTVK)
15
An Giang Trấn: một trong tám
trấn đời Minh Mạng. Bảy trấn
kia là Nam Vang, Gò Sặt (Pursat), Vĩnh Thanh, Định Tường,
Phan Yên, Biên Hòa và Hà Tiên
(T.V.K.P.C.G.B.C)
An Giang danh nhơn (triều nhà
Nguyễn):
Cao Đức Hùng (Nha Mân)
(?-1797), chưởng cơ
Đoàn Văn Trường (Cái Vừng)
(?-1835), đô thống
Hồ Văn Trương (Sa Đéc)
(?-1803), chưởng cơ
Huỳnh Phước Bửu (Châu Đốc)
(?-?), chưởng cơ
Nguyễn Công Trọng (Nha
Mân) (?-1800), chưởng cơ
Nguyễn Văn Định (Nha Mân)
(?-1797), chưởng cơ
Nguyễn Văn Kỳ (Sa Đéc)
(?-1803), chưởng dinh
Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc)
(?-1797), chưởng cơ
Nguyễn Văn Nhơn (Sa Đéc)
(1753-1820), chưởng quân quận
công
Nguyễn Văn Phụng (Sa Đéc)
(?-1800), chưởng cơ
Nguyễn Văn Tuyên (Sa Đéc)
(1763-1830), thống chế (theo Lê
Thọ Xn)
An Hịa Giang: đd., xem sơng hay
rạch An Hịa.
An Phú Giang: đd., tên Hán của
sơng Vũng Liêm (xem chữ ấy).
An Thông Hà: đd., tên Hán của khúc
kinh từ rạch Ơng nhỏ chảy vơ Chợ
Lớn (PCGBCTVK).
An Thơng hà nầy đào năm
1819, do sắc vua Minh Mạng sai
Huỳnh Công Lý (là cha vợ) đốc
xuất dân phu đào để nối liền từ
16TVTNMN
cầu Bà Thuông (Thị Thông) đến
kinh Ruột Ngựa (đào năm 1772),
vừa rộng vừa sâu, hai bên bờ để
đất trống, đưa sản phẩm từ Tiền
Giang lên Sài Gịn “dịng sơng sâu
rộng, ghe thuyền đậu dài mười
dặm, theo hai con nước lúc lớn
lúc ròng, thuyền bè qua lại chèo
chống ca hát, ngày đêm tấp nập,
làm chỗ đô hội lưu thông khắp
ngả, thật là tiện lợi”. (Sơn Nam,
Lịch sử khẩn hoang miền Nam, tr
54. trích lại Gia Định thơng chí,
Thượng, 42).
An Thới Giang: đd., tên Hán của
Vàm ray NV. (xem chữ ấy) (TVK).
An Vĩnh Giang: đd., tên Hán của
sông Cái Mơng Lớn (xem chữ ấy).
An Tức Hương: dt., loại mủ thơm, vị
thuốc hay thơng khí (H.T.C.) (An
Tức là Ba Tư (Perse, persan). Xưa
Trung Hoa chưa có hương nầy và
gốc từ Ba Tư đưa sang).
An Xuyên Huyện (Nha Mân):
đd., tên một huyện của phủ Tân
Thành tỉnh An Giang đời đàng
cựu (PCGBCTVK).
Ao Trúc Phương: đd., ở đông bắc
huyện Phước An 3 dặm, tục gọi
Ao Vuông, ở phía nam lũy Phước
Tứ, ao rộng 15 thước, nước trong
ngọt trào ra bốn phía dùng uống
được. Khi triều Nguyễn mới
trung hưng, có đồn trú nơi đây
để ngăn quân Tây Sơn, và có đắp
bờ đê, nay vẫn cịn. Phía bắc có
ao cho voi tắm. (ĐNNTC N.T.,
1, tr.23).
Áng:
Trong Kiều: áng mây vàng
(lịng cịn gởi áng mây vàng)
áng can qua (giấn mình trong
áng can qua)
tr. chỗ khác: áng tóc mây, áng
văn, áng thơ...
Áng: từ dùng trong văn học,
đặt trước một số danh từ để gợi
một ý đẹp hay lớn lao (Tự điển
tiếng Việt, 1967).
“Hai vợ chồng người nọ đi
đường, đương lúc đói bụng thì
gặp một “áng thợ cắt” đương ăn
cơm trưa” (truyện số 40 Sử Nam
chí dị sách chữ nơm của Thư viện
khoa học xã hội, tác phẩm đầu đời
Nguyễn).
“Dân làng Hát Môn rước
tượng hai bà Trưng ra giữa
sông để tắm rồi rước nước về
vào áng” (truyện số 44 Sử Nam
chí dị như trên). Áng thợ cắt là
đám thợ cắt.
Rước nước về vào áng, tức rước
nước tắm tượng về đền rồi vào
đám. Ở Quảng Nam có tục sau khi
tế thần thì dân làng “nhập áng”,
tức vào đám (theo Đào Duy Anh,
Nhớ nghĩ chiều hơm).
Như vậy, từ “áng” có hai
nghĩa:
1) Áng tức là đám;
2) Áng, tác phẩm văn học có
giá trị.
Áng là một từ xưa khó hiểu.
Khơng phải mượn của Trung
Quốc, vì chữ Hán áng có nghĩa
khác. Nhưng chưa khẳng định
là thuộc vốn từ gốc của người
Lạc Việt.
Riêng từ kép “việc đồng áng”
lại là một từ khác nữa. (Đ.D.A.
d.t)
Áo bá nạp: chữ trong ĐNQATV, ông
Huỳnh Tịnh Của cắt nghĩa áo
rách, áo thầy chùa vá làm trăm
miếng “bá nạp”, trăm miếng trăm
VƯƠNG HỒNG SỂN
cặp. (Trong truyện Đại Minh
Hồng Võ, tr. 137, c.3, in năm
1909, dịch giả Trần Phong Sắc
viết áo phá nạp. Không biết danh
từ nào đúng?)
Archipel des Pirates: đd., tên quần
đảo ở ngang vọng đăng (đèn rọi)
Hà Tiên, giữa Phú Quốc và Hà
Tiên, thuộc NV.
Ấp Rẫy: đd., tên một ấp ở Vàm Trà
Cú, làng Lưu Nghiệp An, tổng
Ngãi Hòa Thượng, t. Trà Vinh cũ.
Ẩu tả, thổ tả: b.h., bịnh ỉa mửa,
thường do chứng thiên thời: bị
ẩu tả.
Ẩu: b.t, chứng nôn ọe, quen gọi là
mửa; ẩu: thường đi đôi với tả:
thượng ẩu hạ tả.
B) càn, bừa, khơng suy nghĩ:
nói ẩu, làm ẩu: t.d. mầy ẩu vừa
vừa, ẩu quá ai mà chịu nổi.
Ẩu xị: tt. vụt chạt, bừa bãi, tánh
người không chừng đỗi, khơng
suy nghĩ lo liệu trước: ẩu xị q,
có ngày bỏ mạng.
Làm ẩu làm tả: làm quấy quá,
cấp tốc, cho mau xong, không cần
tốt hay xấu, miễn cho rồi là được.
(Khi duyệt thẻ này, ông bạn
quá cố, học giả Lê Ngọc Trụ
khun tơi nên xem lại, vì ơng cho
rằng “ẩu” do “cẩu thả” biến “cẩu”
thành ẩu. Nhưng ông Nguyễn
Hiến Lê đồng ý với tơi rằng cịn
có dt. “ẩu xị” và chữ “xị” viết ra
Hán tự ra làm sao? Vậy tôi xin
giữ thẻ này làm kỷ niệm công
dày hai người bạn tốt và chừa sau
này giải quyết và cầu xin ý kiến
bốn phương. Theo Nguyễn Hiến
Lê, chữ cẩu không bao giờ đứng
một mình, và ln ln đi với chữ
khác: cẩu an, cẩu diên, v.v...)
17
Ăn
Về “ăn”, phân ra các thứ mục
sau:
- Cắn, gậm, nuốt: ăn cơm.
- Nói chung về sự ăn uống,
sự tiêu dùng: nhà đủ ăn đủ tiêu.
- Nói chung cuộc ăn uống
trong sự vui: ăn cưới, ăn giỗ.
- Hưởng thụ cái của lợi lộc gì:
ăn lương, ăn bổng.
- Thu nhận một cách khơng
chánh đáng: ăn đút.
- Lấy, tìm cách mà lấy làm của
mình: ăn cắp.
- Vừa vặn bằng nhau: đàn
ăn nhịp.
- Được hơn trong cuộc đố,
trong cuộc cờ bạc: ăn một độ gà
chọi.
- Ưng thuận, nhận chịu: ăn
giá, ăn lời.
- Đi kiếm ăn: vạc đi ăn đêm.
- Xâm vào, bén vào: da ăn
nắng.
- Mua hàng, tiêu thụ đồ hàng:
tàu Tây ăn gạo.
Ăn mặc, ăn nói, ăn ở, ăn tiêu,
ăn uống, ăn xin.
bổng là roi: ăn bổng cịn có
nghĩa mỉa mai là chịu một hình
phạt.
Ý riêng xin trình bày: Trong
khi sưu tập các tiếng về “ăn”,
tôi bỗng nghĩ ra một phát kiến,
khơng biết gọi như vậy có lớn lối
gì chăng, nhưng giá thử gẫm xem
mấy tiếng “vừa vặn, trịn trặn,
vng vắn, vân vân, vặn: lấy V
của vừa ghép với “ăn”: văn, rồi
theo luật hỏi ngã mà thêm dấu
(như đây vừa: dấu huyền, thì đổi
làm (dấu nặng). Rốt cuộc ta có:
vừa vặn.
18TVTNMN
Trịn trặn, vng vắn, cũng
vậy...
Nay nếu xem mấy tỷ dụ trên
đáng coi là một luật (formation)
về những tiếng kép của mình
được (đây chỉ là manh nha, tơi
chưa đủ sức qui luật hiện nay
được), thì tơi xin các độc giả giúp
tơi tìm thêm, dẫu tơi khơng cịn
để chung vui thì cũng đà toại
nguyện.
Ier-4-1982 S.
Ăn: (động từ): nhai nuốt, hưởng dùng.
Hành động để ni sống, làm thỏa
mãn sự đói, bằng cách đưa đồ ăn
vào miệng, nhai nhuyễn và nuốt:
tỷ dụ: ăn cơm, ăn q bánh, ăn
lót lịng... Ăn, tức là nuốt một vật
gì qua miệng.
- Ăn trong 4 việc quan, hơn,
tang, tế: ăn giỗ, ăn tiệc.
- Nhận hưởng, tìm hưởng tiền
bạc, lợi lộc: ăn lương, ăn công, ăn
lận ăn gian, ăn trộm, ăn hối lộ;
- Thích hợp, cắn khít vừa
vặn, rập khn nhau: ăn nhịp,
ăn răng;
- Xâm nhập, dẫn tới, thấm
vào, chết, lan ra: ăn lan, ăn luồn,
ăn hiếp, ăn về;
- Chia thành nhiều phần,
chấp, trị giá: một đồng ăn tám,
ăn giấy, ăn năm, ăn sáu;
(xem tiếng đôi nhiều nghĩa)
Ăn răng là ăn rập, ăn nhịp,
nói về bộ máy, các răng ăn khớp
với nhau. Các tiếng “ăn” như sau
đều thành tiếng chuyên mơn:
mấy cái áo này dóng nhau ăn
chằn chặn. Hai cánh cửa này ăn
nhau như in. Đàn ăn nhịp. Sắc
này ăn với sắc kia. Người này
mặc đồ trắng ăn hơn đồ đen (coi
được hơn). Nước da ăn phấn ăn
đèn (VNTĐKTĐ).
(Khi biết nghĩa chính của
“ăn”, nay thử ghép vào các hình
dung từ tỷ dụ như vừa, trịn,
vng, thì thành ra vừa vặn, trịn
trặn, vng vắn, v.v... để tăng sự
vừa, vẻ trịn, hình vng:
- Anh bận áo này vừa q,
nếu nói vừa vặn, tức là vừa hết
chỗ nói.
- Chị xoe cái bánh rán này thiệt
trịn trặn (trịn khơng chỗ chê);
- Bà xã gói những chiếc bánh
trưng vuông vắn quá (vuông hết
sức vuông). Ba tỷ dụ dưới đây
mượn của Ô. Bùi Nhung trong
tập Thối nát, X.B.N 1965, tr 150).
Ăn ba hột: ăn sơ, ít ít chừa
bụng còn ăn nữa.
Ăn bánh tét, ăn ba tê nguội,
ăn roi mây
Tiếng pha lửng để gọi bị đòn,
ăn đòn. Tết là tiết (tế) trùng âm
với tét là rách; ba tê (pâté) là một
loại bánh Tây, phải ăn nóng mới
ngon, nay nguội nhớ đến nóng đốt
và rát rúa của lằn roi.
Ăn bòn: tiếng trong Nam, xin từ
chút, tham từ chút. Mình đã có
mà chưa thấy đủ, lại cịn tham
cịn lấy của người: qn ăn bịn,
đồ ăn bịn mà khơng biết xấu
(tiếng nhiếc).
Ăn bánh vẽ: ăn cái khơng có, ăn cái
tưởng tượng: bị cho ăn bánh vẽ đã
mấy lần mà chưa tởn.
Ăn bây: tiếng Bắc, ít dùng trong
Nam: vơ lấy tiền của người đánh
bạc một cách không hợp lệ.
Ăn bẻo: tiếng Bắc, bớt tiền của người
khác, một cách nhỏ nhen, trong
Nam thường nói: ăn chận.
VƯƠNG HỒNG SỂN
Ăn bĩnh: không chịu dam tiền
khi thua bạc (tiếng Bắc ít dùng
trong Nam).
Ăn bng: đi theo người khác để ăn
nhờ (tiếng Bắc).
(Trong Nam, ăn bón là đánh
bạc, nhờ vào tụ của người khác,
nghĩa như “ăn ké”, tức bón vào,
ké vào, không đặt ngay một tụ
riêng).
Ăn ké: trong Nam, ngồi Bắc nói
“ăn kẹ”.
Ăn cám sú: lời mắng người ngu độn:
đồ ăn cám sú. Hiểu theo tục xưa,
cho rằng hồn trước khi lên đầu
thai, bị ép ăn cám sú để quên hết
việc kiếp trước.
(nghĩa như ăn cháo lú)
Ăn cầm hơi: cũng như ăn cầm
chừng, nhưng đã hết biết ngon:
- Người bịnh ăn cầm hơi; mẹ
trông con, ăn cầm hơi đợi ngày
về đồn tụ.
Ăn cẫm địa: ăn phần kiếng biếu, vì
mình đã có dâng cúng đất đai mà
làm đình miễu, ở kế tiền hiền.
(Tiếng “cẫm” ở đây tôi chưa
hiểu nghĩa cho đủ, và muốn kéo
qua “cấm địa”, nhưng “cẫm địa”
nghe đã quen tai rồi. Xin hỏi
người thức giả).
Ăn cân ký: ăn hoa hồng; ăn tiền đem
mối buôn bán; ở cửa giữa mà ăn
phần. Một nghĩa nữa là toa rập
nhau trước. T.d. Đánh bài phải coi
chừng bọn gian ăn cân ký nhau
trước, thì mình ắt thua.
(Thường nghe dùng danh từ
“ăn cơng ký” là nói sai).
Ăn cây nào, rào cây nấy: tng.
khơng nên bội bạc.
Ăn chè: tục quen trai gái Sài Gòn
hò hẹn đưa nhau chở nhau xuống
xóm Phú Xuân để ăn chè, rồi lâu
19
ngày trở nên tiếng lóng có nghĩa
là tư thơng, hẹn hò trai gái. Phong
trào “ăn chè” chỉ thạnh hành
những năm 1950-1970, nay tự
nhiên bớt vì tiền vẫn khơng dồi
dào như xưa mà chớ, thêm nay
nghiêm cấm sự đồi phong bại
tục nên dẫu có ăn cũng ăn lén
mà thơi.
Ăn chẹt: bắt người ta phải nộp tiền
của cho mình nhân lúc người
ta bối rối hoặc gặp nguy nan
(tiếng Bắc).
(Dt. này có lẽ mượn trong
cuộc chơi cờ gánh, khi hai quân
của mình ví một qn của địch
ở giữa thì mình ăn con quân ấy
trong thế bắt chẹt).
Ăn chõm: như ăn ghẹ, ăn vào phần
của người khác (tiếng Bắc).
Ăn cố: ăn tham. Như ăn bám. Nói
xi là cố ăn.
Ăn cơm: nói về các bữa ăn trong
ngày: kiểng báo hiệu giờ ăn cơm.
ng.b.: việc làm dễ dàng: việc ấy,
tôi làm dễ như ăn cơm.
Ăn cơm bữa: mạnh hơn t-ng “ăn
cơm”: bị đòn như ăn cơm bữa.
Ăn cơm hớt: tật cướp lời nói, nói hớt,
nói hướt, giành nói phần nhiều là
với người trên trước: khơng nên
để cho trẻ con ăn cơm hớt mà quen
tật, mất duyên về sau.
Ăn cơm tháng, ăn cơm tuần: trong
Nam, ăn cơm nhà nào đó, đến
tháng hay đến tuần mới trả tiền,
có khi cũng ngủ đêm tại chỗ ấy
ln, gọi ở ăn cơm tháng.
Ăn cơm quán: ăn cơm tại quán, tại
tiệm bán cơm, khác với ăn cơm
nấu dọn tại nhà mình ở. Ngh.
rộng: ăn cơm tháng.
20TVTNMN
Ăn cơm nhà nước, uống nước
phong tên: th.ng này cũng
như th.ng: “ăn cơm nhà nước,
uống nước nhà máy”, phải hiểu
phong tên là mượn của Pháp tức
fontaine, nước từ trong ống sắt
và từ trong vòi chảy ra và nước
nhà máy cũng vậy, do máy trục
từ dưới sông đặt ngầm ống dẫn
từ suối ngọt sơng trong đưa tới
miệng tới nhà; cịn nhà nước đây
đúng là “nhà tù”, là khám đường,
ngục thất, và hai câu thành ngữ
trên là của trai giang hồ tứ chiếng
thời trước, bất đắc chí với vấn đề
quốc phá gia vong, nên dấn thân
vào nhà lao để ăn cơm của chánh
phủ cung cấp uống nước khơng
phải nước của mình gánh mình
múc lấy mình, mà vẫn là nước của
thời đại văn minh dẫn trong ống
chạy vào tới chỗ lao tù ngục tối.
Hai câu thành ngữ này đánh dấu
một thời đại, không cịn địi Nai
Rịa Rí Ran, mà chỉ muốn được
tự do trải thân chịu cảnh vào tù
ra khám, để mong sớm phục hồi
độc lập.
Nai Rịa Rí Ran: tiếng tắt
Đồng Nai, Bà Rịa, Phan Rí, Phan
Ran (sic) (xem chữ ấy).
Ăn cực: ăn kham khổ, ăn khô lạt. Ăn
cực đã quen, gặp bữa thịt thà lại
xá đũa sớm.
Ăn dạo: không ăn cơm tại nhà để
ăn nơi nhà quen hoặc nơi quán
xá: dân thành Paris ăn dạo là
số đơng.
- ngh.b chơi bời nơi ngồi: ăn
dạo coi chừng có ngày gặp thứ dữ.
Ăn dằn bụng: tiếng người dân quê
gọi bữa ăn sáng thay cho điểm
tâm là tiếng dân chợ: hãy ăn dằn
bụng ba hột đi rồi sẽ ra ruộng.
Không ăn dằn bụng trước, khi
làm làm khơng có trớn.
Ăn dầm: thường nói ngun câu là
ăn dầm, nằm dề: ăn no rồi nằm,
khơng làm gì động móng tay cũng
không đi đâu cả: - từ năm 1975,
ăn dầm mà chịu.
Ăn dè: ăn dần từng ít một. Do dè dặt,
bớt đi một chữ (tiếng Bắc) đ.ngh.
trong Nam: ăn nhín.
Ăn dỗ mồi: nói trẻ ăn đồ ăn nhiều mà
ăn cơm ít (tiếng Bắc). Trong Nam
nói: “ăn phá mồi”: bợm nhậu ăn
phá mồi, chớ họ dùng cơm ít lắm.
Ăn dối: cố ăn một ít hoặc ăn gượng
gạo khi sắp chết để cho người nhà
yên tâm (tiếng Bắc ít dùng trong
Nam). Gặp tình trạng này, Nam
gọi ăn rán, rán ăn.
Ăn đàng sóng, nói đàng gió: th.ng.
ăn nói khơng thật, đồng nghĩa với
ăn ngược nói ngạo, ăn ở khơng
thật tình.
Ăn đất: nghĩa bóng là chết: chịu cực
chịu khổ cho đến ngày ăn đất
thì hết.
(khác nghĩa với “cạp đất mà
ăn”, tức lời trách móc không biết
lo xa, rủi nghèo mà không nghề
nghiệp tùy thân, thì sẽ có ngày
khơng có gì để ăn, phải cạp nhai
đến đất...)
Ăn đẽo: lợi dụng người ta để thu lợi
về cho mình, nay một ít mai một
ít, đẽo lần hồi. (tiếng Bắc, ít dùng
trong Nam).
Ăn điểm tâm, ăn đồ điểm tâm:
Dùng đồ ăn lót dạ, thường nói về
bữa ăn sáng.
(Lời nói nhã; trong Nam
thường nói “ăn sáng”, “ăn lót
VƯƠNG HỒNG SỂN
lịng”, tầm thường hơn nữa thì
dùng tiếng Pháp: “uống cà-fé
chưa?”, “ăn đề-jơ-nê chưa?”, giới
dao búa hỏi “sáng, mì cháo gì
chưa”, “ăn hủ tíu chưa, mậy?”.
Ăn đời, ăn đời ở kiếp: nói về chồng
vợ chúc được ăn ở với nhau lâu
bền, sống với nhau đời đời, kiếp
kiếp.
Ăn gẫu: tán tỉnh người ta để ăn nhờ
(tiếng Bắc, ít dùng trong Nam).
Ăn gọ: đồng nghĩa như trên.
Ăn giành: giành ăn một mình.
Ăn già: chắc được nhiều lợi mới làm
(tiếng Bắc, ít dùng trong Nam).
Ăn giấy: phép hút thuốc ta (Gò
Vấp, thuốc trồng tại xứ), có lẽ
xé hay rọc tờ giấy quyến lớn ra
nhiều đun và mỗi lần xé giấy
vấn xong, ngậm vào miệng lại
cắn bỏ một chút chót nơi đầu,
nên có câu hát: “Trách ai ăn giấy
bỏ bìa, khi thương thương vội,
khi lìa lìa xa”.
- Từ ngày hút thuốc Tây, hết
biết ăn giấy là gì, nhưng từ 1975,
dân đồng quê học ăn giấy như cũ.
Ăn ghém: các thứ rau non, mềm và
rau thơm, dùng làm thức gia vị để
ăn với canh: Bao giờ rau diếp làm
đình, Gỗ lim ăn ghém thì mình
lấy ta (cd).
- ăn kín đáo, gói ghém khơng
cho lậu: ăn ghém rồi cũng có
người biết.
(ít dùng trong Nam, vì ghém,
chúng tôi gọi “rau sống”, hoặc
thường dùng tiếng gỏi thay thế,
và bình dân hơn nữa, nếu dùng
qua ý nghĩa bóng là dễ dàng, thì
đã có thành ngữ “cho cơm”, “dễ
như cho cơm”, vừa khơi hài vừa
21
dễ hiểu hơn, vì nếu nói “dễ như ăn
ghém”, thì phải suy nghĩ rồi mới
hiểu, bằng nói “dễ như cho cơm”
thì hiểu liền vì cơm thấy thường
bữa và giải thì tục chớ “có gì dễ
bằng cơm”.
Ăn gỏi: ăn cá sống với rau cùng các
đồ gia vị khác: ngon như, dễ như
ăn gỏi.
- nghĩa bóng: ăn tiêu mất
nhiều và mau: tiêu xài như ăn
gỏi tiền.
- nghĩa rộng: lấn áp nuốt hẳn
đi: Mầy gặp tay nó, nó ăn gỏi mày
(hiểu rộng thêm: ăn ngon, ngon
như ăn gỏi, dễ ăn).
Ăn hỗn: ăn trước kẻ lớn.
Ăn hút: ăn chơi. Sang Pháp, ăn hút
đã đời, khơng ai dám nói.
Ăn huyết uống thề, ăn huyết thệ:
tng. toa rập làm chuyện dữ, cắt
đầu ngón tay mỗi người lấy chút
máu hịa vào chung, cùng uống,
hoặc cắt cổ gà trống lấy huyết
uống mà thề nguyền, chết sống
thề khơng bỏ nhau, (chuyện dựa
tích trong truyện Thuyết Đường
của Trung Hoa), chuyện của quân
trộm cướp, hội kín thường làm,
gọi là uống máu ăn thề.
Ăn hương ăn hoa: tiếng Bắc: ăn
thanh cảnh. Đg nh. trong Nam
ăn cách vật, cầu kỳ: ăn kiểng ít
dùng trong Nam).
Ăn iếc gì: tiếng đôi, tiếng đệm nghĩa
vẫn là ăn: không ăn vào đâu? việc
ấy ăn iếc gì, khéo lo cho thất cơng.
Ăn keo: ăn bám vào người khác trong
khi mình có tiền mà không chịu
bỏ ra (tiếng Bắc).
Ăn kết: đánh tam cúc, thắng bộ đôi
hay bộ ba (tiếng Bắc).
22TVTNMN
Ăn khảnh: ăn ít, chỉ theo ý thích của
mình (tiếng Bắc).
Ăn khín: ăn nhờ chút đỉnh.
Ăn khỏa: nói về người mạnh ăn, ăn
được nhiều.
Ăn yếu: ăn khơng được nhiều vì đã
yếu (trái với ăn khỏe).
Ăn lấn: chiếm dần phần của người
khác: rào giậu ăn lấn sang vườn
hàng xóm (tiếng Bắc).
Ăn lót dạ: ăn chút đỉnh trước, cho
qua cơn đói, rồi sẽ ăn sau cho no
(trong Nam ít dùng vì đã có th.n.
bình dân này: ”ăn dằn bụng”, “ăn
đỡ ba hột”: có ăn lót dạ rồi mới
làm việc được: dằn bụng ba hột
rồi mới làm việc được; khơng thì
bụng kêu lơ tô, làm việc bớt hay.
(ăn ba hột là ăn ba chén,
cũng như hút chơi ba sợi là làm
ba điếu....)
Bụng kêu lơ tơ là bụng sơi
rột rột vì đói. Phàm chơi lơ tơ,
người bốc con cờ từ trong túi ra
thì hơ đó là con gì, để các tay
con biết mà đặt lần hồi trên tấm
bảng của mình và người nào có
đủ trước năm con đồng hàng thì
người ấy thắng, và gọi là “kinh”.
Các tay con khi được bốn con rồi,
chỉ chờ ra con cờ thứ 5 là kinh,
khi ấy trong bụng hồi hộp sợ kẻ
khác thắng (kinh) nên trống ngực
đánh liên hồi và trống bụng đánh
càng gấp rút hơn nữa, gọi bụng
kêu lơ tơ là vì vậy, tơi cắt nghĩa
dài dịng chớ ai biết chơi lô tô
khỏi cần đọc lời giải của tơi. Nghề
đánh bài chịi Miền Trung cũng
thế, và thay vì chơi lơ tơ, người
hơ nói khơng bắt vần thì người
hơ bài chịi có tâm hồn thi sĩ hơn,
vẫn nói có ca có kệ, cu cu chằng
chằng, tuy thua tiền thật mà đã
con ráy lắm!
Ăn khín: tiếng trong Nam, ăn nhờ,
ăn thép: học trị lớn ngày xưa ưa
ăn khín học trị mới, học trị nhỏ:
ê! ăn khín, bồ kề? tiếng ở chợ Sốc
Trăng mấy chục năm xưa, nhạo
một người con nhà thế gia mà
ham ăn xin kẻ khác. Hai tiếng
“bồ kề” là tiếng Triều Châu, có
nghĩa là xấu lắm, lối năm 1911
trước cuộc Cách mạng cắt đuôi
sam của người Trung Quốc hai
tiếng “bồà kề” thạnh hành nhứt,
gần như đồng dao báo điềm xấu.
Qua vài tháng sau là có cuộc lật
đổ nhà Thanh do nhóm Tơn Dật
Tiên chủ trương.
Bồ kề: xấu và nhạo (Tiếng
Triều Châu).
Bồ ền: bất an.
Bồ hố: bất hảo.
Bồ sừ phềnh an: vơ sự bình
an (tiếng lóng mượn của Triều
Châu).
Ăn lót: cũng như ăn khín, thêm ngụ
ý xấu. T.d: Trong lớp nhắc bài để
ra sân chơi ăn lót cắn một miếng
bánh. Một thứ hối lộ nhỏ: lúc nhỏ
ăn lót một miếng bánh, lớn lên ăn
hối lộ cơng khai.
Ăn lót dạ: ăn ít ít trước: Hay ăn chén
cơm lót dạ đã.
Ăn lót lịng: ăn sơ qua; ăn dằn tâm.
Thường nói về buổi ăn sớm: Hãy
ăn lót lịng cái gì rồi sẽ đi làm việc.
Ăn một đọi, nói một lời: ăn nói chắc
chắn, khơng sai lời nói.
Đọi, đúng ra là dĩa sâu lòng,
xưa trong Nội Phủ ở Huế, dùng
xơi cháo, cho mau nguội; về sau,
ám chỉ các vật như tô, chén, đĩa
v.v... cũng gọi đọi được cả.
VƯƠNG HỒNG SỂN
Đọi rưỡi: một đọi và phân nửa
đọi: sức ăn đọi rưỡi chưa no: người
mạnh ăn.
(Chuyện năm xưa, lúc cịn
làm ăn lương cơng nhựt ở Viện
Bảo tàng Sài Gịn, tôi được phái
dẫn đưa đại đức Narada, một
nhà chơn tu Phật giáo Tích Lan
(Ceyland), xuống Mỹ Tho viếng
cảnh chùa Vĩnh Tràng, dọc đường
ơng giải thích cho tơi biết rằng
phàm người tu hành, theo tiểu
thừa, chỉ mỗi ngày được thời một
bữa ăn mà thôi và trong bữa cơm
ấy, người nào đi khất thực được
bao nhiêu, đó là lộc của Phật cho,
khơng chia chác cho ai, bằng như
ai dọn cho ăn, nếu ngồi một chỗ
(khơng rời chỗ ấy) và có người tiếp
bới cơm cho mình, thì ngồi ăn như
vậy vẫn kể một “đọi” duy nhứt (ăn
một đọi) nhưng nếu đứng dậy đi
bới cơm lấy thì khơng kể một đọi
được và như vậy ăn mấy chén
kể mấy đọi và sai với lời kia rồi.
Và như lúc ban nãy, đại đức thời
một mình một bàn, cịn chúng
tơi, tám người “phàm” vẫn ăn
một bàn khác, là vì phép người
tu hành khơng được ngồi chung
bất cứ một ai, và vì lộc Phật cho
ai thì nấy thụ hưởng, chớ không
phải Đại Đức ăn tham. Nghe
vậy, tôi biết vậy và xin ghi lại
đây, chờ người cao kiến cho biết
ý kiến. Cũng ngày hơm ấy, tơi có
hỏi đại đức rằng tỷ dụ đại đức rủi
đau, vô dưỡng đường, bác sĩ dạy
phải ăn mặn mới đủ vitamin để
sống thì đại đức vốn trường trai,
sẽ xử sự thế nào? Đại Đức cười
nhã nhặn mà rằng: như ai kia sợ
chết, thì cứ việc ngả mặn, nhưng
23
bao nhiêu công lao tu hành trước
đều bỏ - cịn như đại đức, thì chí
nguyện đã định, dẫu chết cũng
đành, chớ không bỏ trường trai
được. Tôi cũng xin ghi luôn đây
đãi ý kiến người thành thạo vậy.
Ăn năn: đau đớn, cắn rứt lương tâm
vì việc đã làm. Chữ là “tự hối”.
Thường nói ln giọt: ăn năn tự
hối thì việc đã rồi!
Ăn năn sự đã muộn rồi (K):
(Ăn này chắc không phải một
gốc với ăn uống và không tách rời
với năn được).
Anh Lê Ngọc Trụ cho ăn năn
do ân hận mà ra.
Vậy nên đặt riêng ra.
Ăn non: bỏ dở đám bạc khi đương
thắng, để chắc ăn một số tiền
(tiếng Bắc, đồng nghĩa trong
Nam: xên non).
Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành:
t.ng. ăn ở ngay thật thì đặng bình
n vơ sự.
Ăn ngọn: chiếm lấy trước một phần
ăn (tiếng Bắc).
Ăn nguội: ăn khi đã nguội. Ăn đồ
nguội, thịt thà cất trong tủ lạnh.
Trái với ăn nguội là ăn nóng, ăn vật
cịn nóng, ăn sốt dẻo. Hai danh từ
hay thành ngữ này đều dùng được
theo nghĩa trắng và nghĩa đen.
Ăn như mỏ kht: ăn ln (ít dùng
trong Nam).
Ăn nhín: Dành để, không dám ăn
nhiều, sợ hết.
Ăn như mèo hửi: ăn nhỏ nhẹ, ít.
Con trai gì mà ăn như mèo hửi.
Ăn như tằm ăn lên: t.ng. Tằm lớn
lên chừng nào càng ăn nhiều
chừng ấy. Ý nói ăn nhiều lắm.
Nhà đơng con, đông người, ăn
xài nhiều.
24TVTNMN
Ăn rỗi, ăn như tằm ăn rỗi: (t-ng)
nghề nuôi tằm, khi tằm thức dậy
(cơi lớp lớn lên) thì ăn rất khỏe,
phải chạy lá dâu cho kịp thì tằm
mới tốt; có nghĩa là ăn mất nhiều,
hao thức ăn, hoặc nhiều người
ăn (một nghĩa với t.ng. “như tằm
ăn lên”).
Ăn phải đũa: tiếng Bắc: nhiễm thói
xấu (ít dùng trong Nam).
Tỷ dụ: Hắn ăn phải đũa ơng X,
ba hoa chích chịe như lão.
Ăn qn: chặt quân của đối phương
trong một ván cờ (tiếng Bắc).
Ngoài Bắc gọi “qn” thì trong
Nam nói “con”: ăn qn pháo: ăn
pháo, ăn con pháo.
Ăn tay: mưu mô với nhau để kiếm
lời mà chia nhau (tiếng Bắc).
Trong Nam dùng với nghĩa khác:
đừng đi nước mặn cho hà ăn
chơn, chớ vọc thùng chàm cho
chàm ăn tay.
Ăn sơ: ăn ít ít. Ăn qua bữa.
Ăn sơ sịa: id.
Ăn ba hột: ăn sơ, dằn bụng.
Ăn sống: ăn đồ sống sít. Ngày xưa,
ăn thuốc sống, hiểu nghĩa là xỉa
thuốc khi ăn trầu. Ăn sống nuốt
tươi (t.ng).
Ăn sống sít hay đau: nói về ăn trái
cây chưa chín thường sanh bịnh.
Ăn sốt: ăn khi cịn nóng, cịn mới.
Ăn sốt dẻo.
Ăn tái: ăn thịt nửa sống nửa chín,
bán sinh bán thục, thường nói
về thịt dê, thịt bị. Thứ nhất thịt
bị ăn tái, thứ nhì con gái đương
tơ (t.ng).
Ăn tái ăn lụi: ăn thịt nửa sống nửa
chín tái trong nước sốt pha giấm
hoặc thịt nướng lụi.
Ăn tái giá: ăn phở thêm giá đậu
xanh, thịt vừa chín tái.
Ăn tấm trả giặt: t.ng. Nói về cờ bạc,
khi ăn vẫn ăn vụn vằn không
khác ăn gạo gãy, đến khi trả lại
trả nguyên tiền như gạo giặt. Giặt
là gạo giã cịn thóc.
- khi mượn chác thì mảnh
mún, đến khi trả thì phải trả vật
cịn nguyên.
Ăn thép: như ăn khín, ăn nhờ chút
đỉnh.
Ăn thiệt: ăn chắc; ăn thiệt sự, thiệt
tình, ăn đầy bụng, ăn no.
Ăn: ăn thông; t.d: đường nầy ăn qua
quốc lộ số 4 xuống Cà mau dễ
như chơi.
Ăn vã: chỉ ăn thức ăn không dùng
đến cơm (tiếng Bắc).
Ăn thuốc: Hút thuốc thường, hoặc
hút nha phiến.
Tiếng nói: “người có ăn thuốc”,
thì hiểu là người có hút nha phiến
(ĐNQATV HTC).
Ăn tráng miệng: ăn bánh trái theo
bữa ăn, ăn cơm rồi, ăn đồ ăn tráng
miệng.
Ăn la sấm la sét: tiếng mới để gọi
ăn tráng miệng, mượn tiếng Pháp
“dessert”, cũng gọi ăn la-sét.
Ăn trắt: ăn hột lúa gié rớt ra.
Ăn trầu: nhai trầu, ăn miếng trầu
(nghĩa đen); nghĩa bóng chỉ con
gái đã có người dạm hỏi: cơ ấy đã
có người ăn trầu rồi.
Ăn trầu gẫm: ngậm miếng trầu mà
nghĩ đến việc khác cho biết việc
phải trái thế nào. Ngẫm nghĩ cho
đến nơi đến chốn.
Ăn trầu cách mắt: t.ng. Kẻ cho ăn,
người khơng cho ăn. Cũng thì ở
một đàng, một ngõ mà trong sự
VƯƠNG HỒNG SỂN
cho chác, thỉnh mời kẻ có, người
khơng, kẻ thân người thù.
Ăn trứng thúi: tục bên Âu, dân
chúng tỏ sự bất bình bằng cách
liệng trứng thúi cho vấy áo quần
mang nhục, mang xấu: - ông ấy
lúc sang Pháp bị ăn trứng thúi.
Ăn tươi nuốt sống: th.ng: Ăn thịt
còn tươi, nuốt vật cịn sống; ăn
uống thơ tục. Nghĩa mượn là làm
hung dữ, hoặc ăn cướp của chúng.
Ăn vã: ăn đồ ăn khơng: bợm rượu
hay ăn vã.
Ăn vịi: nói trẻ con nằng nặc địi một
vật gì (tiếng Bắc).
Ăn xam: nói trẻ sơ sanh, vừa bú mẹ
vừa ăn thức khác (tiếng Bắc).
Ăn xổi: ăn cà hay dưa với muối, muối
một cách gấp rút. Ăn xổi ở thì:
sống tạm bợ (K).
- Nói chung về sự ăn uống,
sự tiêu dùng: độ rày, nóng nực,
khơng ăn uống gì được.
- Nhà nầy có bát ăn, có
miếng ăn.
- Nhà kia đủ ăn đủ tiêu.
Ăn bám: nương vào người ta mà ăn.
Ơng bám, ơng ăn đứa trọc đầu
(Tú Xương).
Ăn báo: ỷ vào người khác mà ăn hại.
Ăn báo cơ: được người ta ni báo cơ.
Có nghĩa là nói ăn hại người ta.
(xem thêm chữ “bảo cô”, đọc
lầm ra “bác cơ”.)
Bảo: giữ gìn. (Khơng dùng
một mình).
Bảo cơ: Ni trẻ bồ côi.
Bảo cô (chữ cô viết cách khác):
nuôi nấng người mà mình đã
đánh bị thương: Ni như ni
bảo cơ (Luật cũ: Kẻ đánh người
trọng thương, quan bắt phải nuôi
cơm phục thuốc, giữ cho người bị
25
thương được n tồn thì khơng
phải tội) (Chữ “bảo cơ” nầy, có
người đọc và hiểu lầm ra “bác cơ”.
Nên cải chính lại).
Ăn bốc: ăn khơng đũa, ăn bằng tay
(theo phong tục của người Miên,
họ gọi “xi đay” (xi là ăn, đay là
bàn tay). Ăn cơm với mắm sống
thì phải “ăn bốc” mới ngon. Người
Hồi Hồi dùng tay mặt để ăn bốc,
và dùng tay trái để làm việc vệ
sinh rửa ráy.
Ăn bốc hốt: ăn thô tục.
- Lữ Bố ăn bốc nàng Điêu:
tiếng lóng, tuồng Phụng Nghi
Đình tả cảnh cợt Điêu Thuyền,
Lữ Bố lấy mắt muốn nuốt gái như
ăn xơi vị, ăn bốc mới là phải thế.
Miệt Sốc Trăng, người Việt
và người Miên ăn chung ở chạ
cùng nhau nên thường ăn bốc
như nhau, và người Miên ăn bốc,
gọi “xi đay”, (xi: ăn; đay: tay) nên
người Việt, có tánh thích khơi hài,
cũng dùng tiếng “xi đay” pha vào
câu Việt cho thêm vui thêm lạ: tỷ
dụ nhà anh không sẵn đũa, để tôi
“xi đay” cũng xong.
(Xi đay, mới nghe dường
như tiếng Pháp, nên được hoan
nghinh).
II. Ăn cầm chừng: ăn dần dà cho
được ăn lâu bền, hoặc ăn vừa
vừa cho có chừng, không dám ăn
no. (Ăn cơm ba chén lưng lưng,
ăn uống cầm chừng, để bụng
thương em (cd): tỷ dụ: thời buổi
khó khăn, ăn cầm chừng để sống
mà coi đời. Chủ nhà ăn cầm chừng
đợi khách).
Ăn chay: ăn đồ lạt; chữ gọi ăn trai
kỳ. Nhịn bữa ăn, kiêng thịt, cữ
thịt: ăn chay khơng hết tội. Nói