Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bệnh thận đa nang potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.8 KB, 4 trang )

Bệnh thận đa nang
Thận đa nang người lớn là bệnh di truyền theo gen trội
(Autosomal dominant); là loại bệnh thận có nang, thường gặp
nhất sau thận nang đơn. Thường phát hiện ở tuổi 30-40 với đặc
trưng lâm sàng là thận to nhiều nang 2 bên, diễn biến đến suy
thận. Tuổi thọ trung bình là 50.


Theo số liệu từ các trung tâm lọc máu và ghép thận ở châu Âu,
úc, Hoa Kỳ có khoảng 10% bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối
đến lọc máu và ghép thận bị bệnh thận đa nang.
Ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê đầy đủ. Ở bệnh viện
Bạch Mai, trong 3 năm (từ 1987-1989) chỉ gặp một trường hợp
tử vong được chẩn đoán chính xác là gan-thận đa nang. Ở bệnh
viện 103, năm 1998 gặp một bệnh nhân suy thận giai đoạn cuối
do thận đa nang, có chỉ định ghép thận, sau khi đã hoàn chỉnh
các chỉ tiêu trong tuyển chọn thì bệnh nhân tử vong. Cũng chính
vì tỷ lệ bệnh gặp rất ít, nên cũng có ít tài liệu trong và ngoài
nước nói về bệnh này.
1. Cơ chế sinh bệnh
Bệnh thận đa nang người lớn có tính di truyền theo gen trội.
Phân tích phả hệ ở 284 bệnh nhân và gia đình, qua nghiên cứu
tìm dấu ấn liên kết DNA, người ta đã xác định trong bệnh thận
đa nang người lớn, tính di truyền được liên kết trong hầu hết
các gia đình qua phức hệ gen anpha globulin và gen
phosphogluxerat kinaza trên cánh ngắn của nhiễm thể thứ 16
[qua nghiên cứu của Dalgaard (1957); Frances A Flinter
(1991); Fredric L. Cor và Satish Kathpalia (1991)].
Do di truyền, một số các ống thận không biệt hoá được thành
nephron đã thoái hoá biến thành nang, nhiều nang thận nối
thông với ống góp và bể thận. Gần đây, một số tác giả lại cho


rằng ống thận bị tắc một phần hoặc tắc hoàn toàn, kết hợp với sự
mất đàn hồi của ống thận nên sinh đa nang. Rõ ràng cơ chế để
tạo thành nang còn chưa được biết rõ.
Nhưng chính những lý do đó làm cho thận to ra gây cản trở hoạt
động chức năng của thận do nang chèn ép vào nephron làm tổn
thương thận dẫn đến rối loạn chức năng và suy thận.
2. Triệu chứng của người bệnh
+ Đau vùng hông-lưng hoặc sườn-lưng, hoặc có cơn đau quặn
thận cấp (do sỏi hoặc chảy máu trong nang).
+ Tức bụng khó chịu do thận to dần lên gây chèn ép.
+ Đái ra máu do nhiễm khuẩn hay do chảy máu trong nang.
+ Đái đêm, khả năng do cô đặc nước tiểu giảm.
+ Gầy xanh do đái ra máu nhiều hoặc suy thận.
+ Thiểu niệu hay vô niệu khi có suy thận cấp tính hoặc mạn tính.
3. Khám thấy
+ Không phù, thường có dấu hiệu mất nước, da khô, đàn hồi da
giảm; có thể da hồng hào do tăng hồng cầu ở giai đoạn đầu. Da
xanh do thiếu máu khi đã có suy thận. Có thể có vàng da do có
rối loạn chức năng gan.
+ Thận to cả hai bên, mặt gồ ghề không đối xứng, dấu hiệu
chạm thận (+), bập bềnh thận (+).
+ Gan to gặp 30% trong các bệnh thận đa nang vì có nang ở gan.
+ Lách to, tụy to do cũng có nang nhưng ít gặp hơn là nang gan,
người ta còn gặp nang ở buồng trứng và phổi.
+ Ngoài ra, người ta còn thấy các biểu hiện kết hợp được phát
hiện: hở van tim (van động mạch chủ, van 3 lá), tai biến mạch
máu não do đã có phình động mạch não (gặp ở 10% bệnh nhân
thận đa nang).
+ Sốt khi có nhiễm khuẩn tiết niệu.
+ Tăng huyết áp (gặp ở 75% trường hợp).

+ Sỏi thận (gặp 10%).
4. Cách phòng bệnh
Điều quan trọng là phát hiện sớm để có biện pháp kéo dài đời
sống bệnh nhân. Với những gia đình đã có người bị bệnh thận
đa nang thì phải khám bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho tất cả các
thành viên trong gia đình. Phải khám chuyên khoa thận và cho
làm siêu âm, vì siêu âm phát hiện ra nang khi chưa có triệu
chứng lâm sàng

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×