Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.26 KB, 4 trang )

Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo
đường
Đái tháo đường, còn gọi là Bệnh tiểu đường hay Bệnh dư
đường, là một nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa
cacbohydrat khi hoóc môn insulin của tụy bị thiếu hay
giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường
trong máu luôn cao
Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết
tương:
ĐTĐ: đường máu lúc đói ≥ 126mg/dl (≥ 7 mmol/l) thử ít
nhất 2 lần liên tiếp.
Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥ 200mg/dl (≥ 11,1
mmol/l).
Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9 mmol/l được
gọi là những người có "rối loạn dung nạp đường khi đói".
Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân
đái tháo đường (ĐTĐ), nhưng cũng không được coi là
"bình thường" vì theo thời gian, rất nhiều người người
"rối loạn dung nạp đường khi đói" sẽ tiến triển thành
ĐTĐ thực sự nếu không có lối sống tốt. Mặt khác, người
ta cũng ghi nhận rằng những người có "rối loạn dung nạp
đường khi đói" bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim
mạch, đột quị hơn những người có mức đường máu < 5,5
mmol/l.
Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn
nữa bằng cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những
trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo cách thông thường
không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là "test dung
nạp glucose bằng đường uống".
Test này được thực hiện như sau:
Điều kiện: ăn 3 ngày liền đủ lượng carbonhydrat (>


200g/ngày), không dùng thuốc làm tăng đường máu,
đường máu lúc đói bình thường, không bị stress.
Thực hiện: nhịn đói 12 giờ, uống 75 gam đường glucose
trong 250ml nước (không nóng - không lạnh). Định lượng
đường máu sau 2 giờ.
Đọc kết quả: ‘Test dung nạp glucose đường uống’:
Nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose
≥11,1mmol/l: chẩn đoán ĐTĐ; nếu đường máu 2 giờ sau
uống đường glucose ≥7,8 mmol/l nhưng < 11,1 mmol/l:
những người này được xếp loại giảm dung nạp đường
glucose. Người mắc giảm dung nạp đường glucose không
những có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ sau này, mà
còn tăng nguy cơ mắc các bệnh tim-mạch như tăng huyết
áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não.
Định lượng đường niệu: chỉ có giá trị rất hãn hữu trong
việc theo dõi đối với bản thân bệnh nhân ngoại trú. Không
dùng để chẩn đoán bệnh.
Các xét nghiệm bổ sung: sau khi được chẩn đoán xác
định và làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-
2lần/năm) để thăm dò các biến chứng mạn tính và để theo
dõi điều trị:
- Khám lâm sàng: lưu ý kiểm tra cân nặng, huyết áp, bắt
mạch ngoại biên và so sánh nhiệt độ da, khám bàn chân,
khám thần kinh bao gồm thăm dò cảm giác sâu bằng âm
thoa. Khám mắt: phát hiện và đánh giá tiến triển bệnh lý
võng mạc.
- Xét nghiệm: đặc biệt lưu ý creatinin, mỡ máu,
microalbumin niệu (bình thường < 30 mg/ngày) hoặc định
lượng protein niệu. Đo điện tim nhằm phát hiện sớm các
biểu hiện thiếu máu cơ tim. Soi đáy mắt

- Định lượng HbA1 hoặc HbA1c: đánh giá hồi cứu tình
trạng đường máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng
tốt nếu HbA1c < 6,5%.
- Trong một số tình huống (không phải là xét nghiệm
thường qui):
Fructosamin: cho biết đường máu trung bình 2 tuần gần
đây, có nhiều lợi ích trong trường hợp người mắc ĐTĐ
đang mang thai. Nếu đường máu cân bằng tốt, kết quả <
285 mmol/l.
Peptid C (một phần của pro-insulin): cho phép đánh giá
chức năng tế bào bêta tụy

×