Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận - Tác động của bối cảnh thế giới, công cuộc đổi mới đến sự phát triển của giáo dục và đào tạo việt nam hiện nay và những vấn đề đặt ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.93 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ bao đời này, giáo dục là cái nơi của mọi ngành nghề, đó là nhân tố
quan trọng tạo nên nguồn lực con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của dân
tộc ta luôn đánh giá cao vị trí, vai trị của người thầy – những người mở trí,
khai tâm cho con người bằng câu nói: “Nhiệm vụ thầy giáo rất vẻ vang, vì nếu
khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục… Khơng có giáo dục thì khơng nói
gì đến kinh tế, văn hóa”. Điều đó cho thấy giáo dục đã là một phần quan trọng
tất yếu của con người và xã hội từ bao đời nay.
Trong q trình đổi mới đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hóa đất nước và mở cửa, hội nhập quốc tế là cả một chặng đường phấn đấu
lâu dài với những nhiệm vụ cao cả, vơ cùng khó khăn phức tạp, đặc biệt là
việc nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam. Những ngày này có thể thấy ở
bất cứ đâu trên báo đài truyền hình, những cuộc họp, hội thảo,... người ta
thường nhắc đến “Cuộc các mạng cơng nghiệp 4.0”, đó là sự phát triển vượt
bậc của trí tuệ con người về khoa hoc cơng nghệ, là các cơng nghệ Internet
vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông
minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học... Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, mạnh
mẽ, gây tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhất là đối với
lĩnh vực giáo dục. Chất lượng nguồn nhân lực, tri thức con người phải thông
qua giáo dục và đào tạo mới có được. Do vậy, nâng cao dân trí, đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam trên cơ sở phát triển giáo
dục và đào tạo là động lực của sự phát triển kinh tế tri thức, là vấn đề có ý
nghĩa sống cịn trước xu thế tồn cầu hố. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Tác
động của bối cảnh thế giới, công cuộc đổi mới đến sự phát triển của giáo
dục và đào tạo Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra”.
Mục đích nghiên cứu:

1



Tìm hiểu rõ ảnh hưởng của bối cảnh thế giới cũng như công cuộc đổi
mới đến sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam trên cơ sở lý luận và thực
tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ thực trạng và nhiệm vụ giải pháp phát triển giáo dục và đạo tạo
Việt Nam hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp
khắc phục phù hơp.
Xác định được mục tiêu, yêu cầu của đề tài.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Bối cảnh đổi mới ở Việt Nam và trên thế giới.
Tác động của quá trình đổi mới đến nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

2


NỘI DUNG
1. Vài nét về bối cảnh thế giới hiện nay: q trình đổi mới tồn cầu
hóa và sự phát triển cơng nghiệp 4.0
1.1 Q trình đổi mới tồn cầu hóa
Hiện nay, tồn cầu hóa đang là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước,
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh
tranh và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa nhiều quốc gia. Q trình tồn cầu hóa
có 5 ưu điểm chính: tạo ra khả năng phát triển, phổ cập công nghệ thơng tin
và các phương tiện viễn thơng; hình thành nền kinh tế tri thức, với sự phân
biệt rõ rệt vai trò của tri thức đối với sản xuất của thời đại ngày nay so với
trước kia; tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hóa và tư tưởng rộng rãi, làm
cho con người xích lại gần nhau hơn; thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương
mại và tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một
khơng gian tồn cầu rộng lớn; đem lại khả năng giải quyết một số vấn đề

chung đang đối mặt với tồn cầu hóa kinh tế và sự phát triển xã hội.
Tồn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc
gia dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến
cuộc sống của từng người. Cách nhìn nhận và thái độ đối với tồn cầu hố là
hết sức khác nhau. Trong khi một số nước đang phát triển tiếp nhận tồn cầu
hố một cách hồ hởi thì ở nhiều nước phát triển, phong trào chống tồn cầu
hố lại diễn ra một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song,
bất chấp thái độ khác nhau, ủng hộ hay phản đối, tồn cầu hố vẫn là một xu
thế tất yếu và ngày càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt
với nó. Vậy tính tất yếu của tồn cầu hố được biểu hiện như thế nào?
Tính tất yếu của tồn cầu hố trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế.
Kinh tế, như mọi người đều biết, là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển của văn minh nhân loại. Thực ra, thuật ngữ văn minh nhân loại vừa

3


mang ý nghĩa vật chất, vừa mang ý nghĩa tinh thần. Ưu thế của một nền văn
minh được thể hiện trong sự hoà quyện và kết hợp giữa yếu tố vật chất và yếu
tố tinh thần. Với ý nghĩa đó, lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự giải phóng
mang tính chất tiến bộ khỏi sự tước đoạt về vật chất, đồng thời là lịch sử phát
triển của tự do thuộc về vương quốc của tinh thần.
Toàn cầu hoá là một hiện tượng vật chất hay kinh tế. Nhưng, ngồi ý
nghĩa là một hiện tượng vật chất, nó cịn mang một ý nghĩa văn hố, tinh thần
sâu sắc. Bởi lẽ, trên thực tế, khơng có một cơng việc nào của con người,
khơng có một hiện tượng nào trong xã hội lại chỉ mang ý nghĩa thuần tuý kinh
tế.
Về phương diện kinh tế, trước hết, tồn cầu hố tạo ra một sự thay đổi
căn bản trong hoạt động kinh tế của con người, làm thay đổi tính chất và vị trí
của thị trường. Nếu như trước đây, thị trường mang tính quốc gia thì hiện nay,

thị trường đã mang tính quốc tế. Do q trình tồn cầu hố, các quốc gia
nhanh chóng bị cuốn hút và trở thành một bộ phận phụ thuộc của nền kinh tế
thế giới hoặc quốc tế. Ngồi tính tồn cầu của thị trường hàng hố và dịch vụ,
tài chính và tiền tệ cũng mang tính chất tồn cầu. Một yếu tố khác khơng kém
quan trọng làm cho thị trường có tính tồn cầu là công nghệ điện tử mới của
thông tin và viễn thông. Chính cơng nghệ mới đó khơng chỉ mang tính kinh
tế, mà cịn mang tính chính trị và xã hội sâu sắc.
Về mặt xã hội, những nhu cầu của nền kinh tế toàn cầu đã và đang
mang lại những thay đổi to lớn trong thói quen lao động và lối sống của con
người ở tất cả các quốc gia dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và
tội phạm mang tính quốc tế, v.v. đang là những vấn đề làm đau đầu các quốc
gia dân tộc. Nói tóm lại, chính tồn cầu hố đang làm cho những vấn đề toàn
cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc.
Ngày nay, khơng một quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền

4


một cách nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, như SARS, Covid-19,
cúm gà, v.v.; của các nạn khủng bố, tội phạm quốc tế, v.v..
Về mặt chính trị, người ta thường nhắc tới những thách thức nghiêm
trọng của toàn cầu hố đối với chủ quyền quốc gia. Điều đó được lý giải bằng
sự tác động của kinh tế đối với chính trị. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ
kéo theo sự hội nhập về chính trị. Với lơgíc đó, người ta nói đến sự suy yếu
của mơ hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh tồn cầu hố hiện nay, người ta
thường nói về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là đề cập
đến sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, khơng có và khơng
thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngồi
trong bối cảnh tồn cầu hố.
Như vậy, tồn cầu hố kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của tồn

cầu hố; nó đang tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt mình,
những thay đổi về chính trị lại có tác động trở lại đối với kinh tế. Song, điều
cần quan tâm và nhấn mạnh lại chính là ở sự tác động của kinh tế và những
thay đổi chính trị đối với văn hố trong bối cảnh tồn cầu hố.
Cùng với tồn cầu hố, nhiều học giả đã chỉ ra xu hướng đồng nhất tất
cả các nền văn hoá. Tất cả các nước phát triển đang muốn áp đặt các giá trị
văn hoá của mình cho tồn thế giới. Thơng qua q trình tồn cầu hoá, các
nước phát triển phương Tây muốn bắt phần cịn lại của thế giới khơng chỉ
khuất phục về kinh tế, chính trị và qn sự, mà cịn muốn hạn chế tối đa nét
đặc thù của văn hoá phi phương Tây, bởi theo họ, các nền văn hố này khơng
phù hợp, thậm chí cịn xung đột với văn hố và văn minh phương Tây. Quan
niệm về sự xung đột giữa các nền văn minh của Huntington đã khẳng định
rằng, trong điều kiện tồn cầu hố, giữa các nền văn minh ln có sự xung đột
và khơng thể có một nền hồ bình nào hết, vì phương Tây muốn đấu tranh cho
lợi ích của mình đến tồn thắng, tức là buộc thế giới phi phương Tây phải
khuất phục hoàn toàn.

5


Trên thực tế, những gì mà tồn cầu hóa mang lại cho con người trong
những thập kỷ qua đã làm cho khơng ít các quốc gia băn khoăn, lo lắng. Báo
cáo phát triển người của UNDP năm 1999 đã phác họa một bức tranh khá
khơng bình đẳng giữa các nước, cũng như giữa những tầng lớp người khác
nhau. Theo báo cáo đó, vào cuối những năm 90, một phần năm dân số thế giới
sống trong những nước có thu nhập cao nhất chiếm tới: 86% GDP của thế
giới, 82% các thị trường xuất khẩu thế giới, 68% đầu tư nước ngoài trực tiếp,
74% số máy điện thoại thế giới; trong khi đó, một phần năm dân số sống
trong những nước có thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 1% các chỉ số nói trên.
Cũng theo báo cáo này, trong một thập niên vừa qua, sự tập trung ngày càng

mạnh mẽ về thu nhập, về các nguồn lực và của cải đang diễn ra. Chẳng hạn,
các nước OECD với 19% dân số toàn cầu chiếm tới 71% thương mại toàn cầu
về hàng hóa và dịch vụ, 58% đầu tư nước ngồi và 91% tổng số người sử
dụng Internet; 200 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đơi tài sản rịng của
họ trong 4 năm, đến năm 1998 lên tới hơn 1000 tỷ USD. Tài sản của 3 tỷ phú
hàng đầu nhiều hơn tổng GNP của tất cả các nước kém phát triển với 600
triệu dân của họ, v.v...
Từ sự phân tích và số liệu thực tế, khơng ai có thể phủ nhận được rằng,
tồn cầu hóa là một q trình tất yếu và đang tạo ra những cơ hội cho các
nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới để trên
cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới công nghệ. Thực tế
trong mấy thập kỷ qua đã khẳng định rằng, nhờ tranh thủ được cơ hội tồn
cầu hóa, nhiều nước ở châu Á vốn có nền kinh tế kém phát triển tạo ra được
tốc độ tăng trưởng kỷ lục về kinh tế và trở thành những "con rồng" châu Á.
1.2 Q trình đổi mới cơng nghiệp 4.0
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là sự gắn kết giữa các ngành cơng
nghệ. Đó là các cơng nghệ Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự
lái, in ba chiều, máy tính siêu thơng minh, cơng xưởng thơng minh, công nghệ

6


nano, công nghệ sinh học… Theo Khoa và cộng sự (2016), xuất hiện từ thập
niên đầu của thế kỷ XXI, cuộc cách mạng này đã thay đổi mạnh mẽ về nguồn
lực sản xuất, máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ
thống có thể tự vận hành tồn bộ q trình sản xuất theo một kế hoạch đã
được xác lập từ trước. Các thiết bị tinh vi hơn như máy tính, điện thoại, các vệ
tinh kết nối thông tin, hệ thống Internet lần lượt ra đời. Trong một báo cáo của
chính phủ Đức năm 2011, cụm từ “Cách mạng công nghiệp 4.0” đã trở nên
phổ biến tại nhiều quốc gia phát triển trên thế giới và được định nghĩa là “một

cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm của tổ chức trong chuỗi giá
trị” đi cùng với các hệ thống vật lý trong không gian ảo, Internet kết nối vạn
vật (IoT) và Internet của các dịch vụ (IoS). Bản chất của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các cơng
nghệ thơng minh để tối ưu hóa qui trình, phương thức sản xuất, nhấn mạnh
những cơng nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công
nghệ sinh học, cơng nghệ vật liệu mới, cơng nghệ tự động hóa, người máy.
1.3 Cơng nghiệp 4.0 có ảnh hưởng như nào đến giáo dục?
4.0 là một mơ hình giáo dục thơng minh, nhằm liên kết chủ yếu giữa
các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp. Đây là một môi
trường thuận lợi tạo điều kiện cho sinh viên cũng như giảng viên thúc đẩy
tinh thần khởi nghiệp, gắn kết giữa giáo dục đại học với các doanh nghiệp
cùng nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra cũng giúp cho hoạt động
giảng dạy được diễn ra thuận lợi mọi lúc mọi nơi, người học có thể cá nhân
hóa, hồn tồn quyết định việc học tập của mình mà khơng cần gị bó về thời
gian, địa điểm. Sinh viên có thể đeo kính VR (kính thực tế ảo) và có cảm giác
như đang ngồi trong lớp nghe bài giảng, hay nhập vai để chứng kiến những
trận đánh giả lập, ngắm nhìn di tích, mang lại cảm xúc và sự ghi nhớ sâu sắc,
giúp bài học thấm thía hơn. Trường đại học khơng chỉ là nơi đào tạo, nghiên
cứu mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn,

7


mang giá trị cho xã hội. Xóa bỏ quan niệm giảng đường, lớp học hay phịng
thí nghiệm là dính chặt với bốn bức tường, mà phải mở rộng kết hợp với các
doanh nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục.
2. Vai trò của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển đất nước trong
bối cảnh mới:
Trong đời sống xã hội, giáo dục và đào tạo là lĩnh vực có vai trị quan

trọng đối với mọi quốc gia, dân tộc ở mọi thời đại. Trong xu thế phát triển tri
thức ngày nay, giáo dục - đào tạo được xem là chính sách, biện pháp quan
trọng hàng đầu để phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam
không phải là ngoại lệ.
Tri thức con người khơng phải tự nhiên mà có; trái lại, phải thông qua
giáo dục và đào tạo mới có được. Chức năng của giáo dục và đào tạo là biến
những giá trị văn hóa của xã hội thành tài sản của mỗi cá nhân và của cả cộng
đồng. Từ những tài sản riêng đó, mỗi người lại góp phần nhân lên những tài
sản văn hóa của xã hội, nâng cao trình độ trí tuệ cho cả cộng đồng. Chính vì
thế mà có thể nói rằng, giáo dục và đào tạo là khuôn đúc con người, là nguyên
nhân trực tiếp quyết định chất lượng nguồn lực con người, là nguyên nhân sâu
xa làm gia tăng hàm lượng chất xám trong cơ cấu giá trị sản phẩm của lao
động. Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực con người là yêu
cầu khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội,
muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh
thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp
phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu” bởi khơng có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính bản
thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức
mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình.

8


Giáo dục góp phần nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Ngày nay,
giáo dục và đào tạo cịn góp phần tạo ra hệ thống giá trị xã hội mới. Trong
nền kinh tế tri thức hiện nay, tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo,
đồng thời là tài sản quý giá nhất của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở
thành sở hữu quan trọng nhất được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực

phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động
cơ bắp là chính chuyển sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc
gia, dân tộc bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có
trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính
trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong
chính q trình hội nhập quốc tế và tồn cầu.
Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thơng cịn thấp, ít được đào tạo nghề,
vẫn cịn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây
dựng kinh tế tri thức. Giáo dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh “đi
tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt
Nam khẳng định giáo dục - đào tạo cùng với khoa học - công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là điều kiện phấn đấu để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành nước công nghiệp.
Giáo dục - đào tạo bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ lao động có
trình độ chun mơn, tay nghề cao. Đào tạo nhân lực có trình độ cao góp phần
quan trọng phát triển khoa học công nghệ là yếu tố quyết định của kinh tế tri
thức. Kinh tế tri thức được hiểu là kinh tế trong đó có sự sản sinh, truyền bá
và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải
vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Tất cả các quốc gia phát triển đều có
chiến lược phát triển giáo dục. Trong “Báo cáo giám sát toàn cầu giáo dục

9


cho mọi người”, tổ chức UNESCO cũng đã khuyến khích các nước phải chi
tiêu ít nhất 6% GDP cho giáo dục.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển, Đảng

và Nhà nước ta khẳng đinh: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Việc đổi mới
giáo dục trong giai đoạn hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, ngành,
các nhà khoa học và toàn xã hội. Chọn khoa học và giáo dục làm khâu đột
phá cho phát triển. Chọn giáo dục làm tiền đề, làm xương sống của phát triển
bền vững là xác định đúng đắn và khoa học.
3. Tác động của công cuộc đổi mới đối với giáo dục và đào tạo Việt
Nam:
3.1 Tác động của ngành công nghiệp 4.0 đối với giáo dục Việt Nam
Thế giới ngày nay đang trải qua những thay đổi lớn chưa từng có. Cuộc
cách mạng công nghiệp 4.0 đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến động
mạnh mẽ, gây ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống con người trong thế kỷ
21. Cuộc cách mạng này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế, xã hội tồn
cầu, trong đó có nền giáo dục Việt Nam. Nếu coi giáo dục đại học là bước
chuẩn bị hành trang cần thiết cho người học tự tin bước vào cuộc sống, thì
nhà trường cần trang bị một cách đầy đủ những kỹ năng cũng như kiến thức
cần thiết cho họ, không chỉ cho hiện tại mà cịn cả cho tương lai.
Từ sự xuất hiện robot có trí tuệ nhân tạo với những tính năng có thể
thay thế con người thậm chí có khả năng tính tốn, ghi nhớ, nói được nhiều
ngơn ngữ khác nhau và hơn nữa là có sức lao động bền bỉ, năng suất cao. Với
những tính năng đó có thể tạo ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động, trên
thực tế những nước tiên tiến như nước Nhật, Mỹ cũng đã dùng robot trong
một số lĩnh vực sản xuất như sản xuất xe ơtơ, các ngành cơng nghiệp cơ khí,
… Bởi một khi tự động hóa, số lượng lao động mà máy móc có thể thay thế
được sẽ bị dư thừa và các cơng việc an tồn với thu nhập cao hơn có thể sẽ

10


gia tăng. Lao động nghề, lao động phổ thơng có thể dần sẽ được thay thế bằng
những dây chuyền sản xuất tự động; lao động trình độ cao, bác sĩ, kỹ sư, giáo

viên, … phải không ngừng học tập, cải tiến, chủ động tiếp cận những cái mới
cái tiến bộ của thời đại, có như thế mới có thể cạnh tranh, mới có thể làm chủ
được máy móc và làm chủ được thời cuộc.
Thực tế hiện nay, giáo dục đại học về tổng thể vẫn chưa đáp ứng nhu
cầu của các nhà tuyển dụng. Quy mô thiếu hụt kỹ năng khác nhau tùy theo
lĩnh vực ngành nghề. Theo TS. Mai Văn Tỉnh (2017), thì khảo sát điều tra của
Học viện chế tạo và Hãng Deloitte với 450 giám đốc điều hành sản xuất cho
thấy những lĩnh vực mà nhân công thiếu kỹ năng nhất là: Cơng nghệ và máy
tính (70%), giải quyết vấn đề (69%), đào tạo kỹ thuật cơ bản (67%) và kỹ
năng tính tốn (60%).
Theo các chun gia trong ngành giáo dục, trong thời đại mới, người ta
sẽ khơng cịn q quan trọng đến một tấm bằng một cách hình thức, đến
nguồn gốc xuất thân hay những mối quan hệ, vấn đề là kiến thức, trình độ
chun mơn, kỹ năng... Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cơ hội dành
cho tất cả mọi người là như nhau. Ai có năng lực thực sự, có trình độ chun
mơn tốt, có kỹ năng và có thể tạo ra nhiều giá trị cho xã hội, người đó sẽ
thành cơng. Đối với các trường đại học, cách mạng cơng nghiệp 4.0 địi hỏi
phải đào tạo ra nguồn nhân lực có các kỹ năng mới và trình độ giáo dục cao
hơn.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức
ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục.
Ở Việt Nam cách mạng cơng nghiệp 4.0 vẫn cịn nằm ở dạng khái
niệm, và chính phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình
chính xác được sự tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển
của đất nước. Và điều kiện cần để một quốc gia sẵn sàng tiếp thu nguồn công
11


nghệ mới từ cuộc cách mạng này đó là chiến lược tổng thể của quốc gia đó.

Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc
cách mạng lần thứ ba thì việc chủ động thay đổi chính sách phát triển cho phù
hợp với tình hình hiện nay là vơ cùng khó khăn và cần nhiều thời gian để
thích ứng. Ngồi ra, đối mặt với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là vô vàn
thách thức cho Việt Nam khi những yếu tố mà chúng ta đang tự coi là ưu thế
như lực lượng lao động thủ cơng trẻ, dồi dào sẽ khơng cịn là thế mạnh nữa,
thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng.
Theo PGS. TS Mạc Văn Tiến – Viện trưởng Viện nghiên cứu khoa học
dạy nghề, lao động phổ thơng khơng có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28%
tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao
động có trình độ trung cấp chun nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ
cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Đến năm 2016, con số này chỉ giảm
khoảng 3% tương ứng với số lao động khơng có chun mơn kỹ thuật chiếm
đến 78,6% lực lượng lao động, trong đó có đến hơn 37 triệu lao động ở nông
thôn và hơn 17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả nước chỉ có khoảng 10,9 triệu
người có việc làm, tương ứng với 20,6%, đã được đào tạo. Có sự chênh lệch
đáng kể về tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông
thôn, mức chênh lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và nông thôn là
12,8%). Theo Tổng cục thống kê (2017), trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù
lao động làm việc trong lĩnh vực nơng nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ
trọng cao nhất. Cụ thể, nông nghiệp giảm từ 55,09% năm 2005, xuống
45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59 lên 21,78%; dịch vụ
tăng từ 27,32% lên 33,03%. Điều này sẽ gây khó khăn cho nước ta trong q
trình bước vào cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0.
Cuộc cách mạng này đóng một vai trị quan trọng trong việc tạo ra
nhiều cơ hội để tăng năng suất lao động của các sản phẩm và dịch vụ mới cho
phép con người và xã hội có cuộc sống tốt đẹp, văn minh, hiện đại. Tuy

12



nhiên, khi các công nghệ mới thay thế các công việc sử dụng nhiều lao động
có thể dẫn đến thất nghiệp của số lớn lao động giản đơn, thậm chí là gây ra
bất bình đẳng, dẫn đến sự phân tầng trong xã hội. Vấn đề này cần phải được
nghiên cứu, dự báo một cách nghiêm túc, khách quan , khoa học trong quá
trình phát triển. Một trong những yêu cầu để chuẩn bị cho cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 là làm sao để con người có thể đáp ứng được các yếu tố về
kiến thức mới và kỹ năng mới liên tục thay đổi trong môi trường lao động
mới của khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại ?. Điều này đặt ra cho giáo dục
và đào tạo nước ta sứ mệnh đặc biệt quan trọng, mang tính chiến lược là
chuẩn bị đội ngũ nguồn nhân lực mới đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền
vững của đất nước. Chúng ta đều nhận thấy và trăn trở với vấn đề đặt ra là
chuyển từ một nền giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho người
học sang một nền giáo dục giúp phát triển tư duy, năng lực, thúc đẩy đổi mới
và sáng tạo cho người học, học đi đôi với hành; lý luận gắn liền với thực tiễn.
Với sự xuất hiện của nhiều mơ hình học tập mới, sáng tạo, hiệu quả gắn liền
cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, truyền thông, internet, mạng
xã hội... đã làm cho các phương pháp giáo dục truyền thống đang chịu nhiều
thách thức, áp lực đối với cả người dạy và cả người học. Một trong những
điểm nổi bật là sự phân hóa đến từng ngành học, từng trường học, từng đối
tượng người học. Mỗi học sinh, sinh viên có nhu cầu và khả năng học tập
khác nhau. Các tiến bộ về công nghệ cho phép các nhà giáo dục có thể thiết
kế lộ trình học tập riêng biệt phù hợp với từng ngành học, từng trường hợp cụ
thể. Các phần mềm giáo dục đã được đưa vào sử dụng có khả năng thích nghi
với năng lực của mỗi học sinh, sinh viên và cho phép họ theo học với tốc độ
phù hợp với nhu cầu của bản thân. Việc tiếp cận thông tin trở nên dễ dàng
hơn bao giờ hết dẫn đến một câu hỏi mà các nhà giáo dục cần phải trả lời là
xác định kiến thức cốt lõi mà người học cần được trang bị trong tương lai. Vì
vây, các nhà giáo dục ngày nay quan tâm nhiều hơn đến việc dạy, hướng dẫn
người học cách tự học, cách tư duy, cách đánh giá các tình huống, các vấn đề

13


phức tạp trong cuộc sống của xã hội, qua đó hình thành phẩm chất, năng lực
giải quyết vấn đề một cách khách quan, khoa học và phù hợp với thực tiễn,
đem lại kết quả thực sự cho cuộc sống của con người và xã hội trong thời đại
mới.
3.2 Tác động của q trình tồn cầu hóa đối với giáo dục Việt Nam
Dưới sự lan toả của tồn cầu hố hiện nay, mọi lĩnh vực của xã hội đều
bị tác động theo những chiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, những
tác động này đều theo chiều hướng tích cực, làm cho thế giới phẳng và gần
nhau hơn. Trong lĩnh vực giáo dục, nhờ có sự hỗ trợ về cơng nghệ thơng tin,
giáo dục các nước đang có sự phát triển không ngừng, là nền tảng cho sự phát
triển của tri thức nhân loại.
Công cuộc đổi mới mang lại cho giáo dục Việt Nam nhiều cái lợi.
Trước hết nó đặt giáo dục Việt Nam trong bức tranh chung của giáo dục các
nước trên thế giới, để từ đó giáo dục Việt Nam nhận ra mình đang đứng ở
đâu, hay dở chỗ nào. Lâu nay trong một xã hội khép kín chúng ta dễ bằng
lịng với chính mình, “mẹ hát con khen hay”. Việc du nhập kinh nghiệm của
các nền giáo dục phát triển khơng chỉ có tác dụng nêu gương mà cịn tạo ra
những “cú hích” cần thiết để phá vỡ những khuôn mẫu đã cũ kỹ, lạc hậu, từ
triết lý giáo dục, nội dung chương trình đến phương pháp giảng dạy, tổ chức
trường học… Những kinh nghiệm tiên tiến ấy sẽ góp phần hiện đại hố nền
giáo dục Việt Nam, nối kết giáo dục Việt Nam với các nền giáo giáo dục trên
thế giới, mở rộng tầm nhìn và bậc thang giá trị vượt ra biên giới quốc gia và
dân tộc, hướng tới những chuẩn mực chung, có tính chất tồn nhân loại, từ đó
đào tạo nên những con người khơng bị bó hẹp trong lối suy nghĩ cục bộ mà
biết tư duy có tính chất tồn cầu, có tinh thần dân chủ, có khả năng hợp tác,
có thể làm việc trong mơi trường quốc tế.
Có thể nói, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự bùng nổ

tri thức. Hệ quả là làm cho sản xuất và mọi lĩnh vực đời sống văn hóa, giáo
14


dục sẽ phải đổi mới nhanh chóng về nhận thức cũng như lối sống của cộng
đồng. Để tránh khỏi lạc hậu, thích ứng kịp thời với sự thay đổi từng ngày,
từng giờ của sản xuất cũng như đời sống, cá nhân và cộng đồng, không thể
không trang bị những kiến thức, kỹ năng mới, điều chỉnh ứng xử phù hợp với
những cái mới đang liên tục xuất hiện.
Q trình tồn cầu hóa yêu cầu nền giáo dục tri thức cao với những đòi
hỏi: sự sáng tạo (sản xuất) ra tri thức diễn ra với tốc độ nhanh, quy mô lớn;
việc sử dụng kiến thức khoa học, công nghệ vào sản xuất trở thành nhu cầu
thường nhật của xã hội; việc xử lý chuyển giao kiến thức và thông tin diễn ra
nhanh chóng, rộng khắp, nhờ vào sự phát triển vượt bậc của hệ thống cơng cụ
hiện đại, trong đó cơng nghệ thơng tin có vai trị quyết định. Điều này đòi hỏi
ngành giáo dục cần đổi mới về tư duy, hướng cộng đồng về một xã hội học
tập với nền kinh tế tri thức. Đồng thời, cần làm cho những quan niệm về văn
hóa của nhân loại thay đổi, chủ động hội nhập và đối thoại giữa các nền văn
hóa, để có thể sống bao dung với các giá trị văn hóa của cộng đồng khác.
Những thành quả của khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, y học, thể
thao… nói chung là những thành tựu văn hóa của nhân loại, đòi hỏi con người
phải học tập suốt đời mới thích nghi với nền văn hóa hiện đại của thế giới.
Càng ngày càng có nhiều trường từ tiểu học cho đến đại học không
ngừng cải tiến cơ sở vật chất để đảm bảo khả năng tiếp cận cái mới, phương
pháp học mở, cũng như nguồn thông tin cho học sinh, sinh viên của mình.
Một ví dụ về sự rộng mở thơng tin có ảnh hưởng tích cực đến cơng tác giáo
dục đào tạo là việc các lớp chuyên tiếng Anh hiện nay ở các trường cấp 2, 3
đang theo học chương trình, sách nước ngồi như Let’s go, Ielts … với nội
dung và hình thức khơng khác gì ở Mỹ hay Châu Âu.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nước, các khu vực đều có thể tiếp cận

với nguồn giá trị to lớn này. Sự phát triển của toàn cầu hố, bên cạnh là sự
xuất hiện của ngơn ngữ chung tồn cầu, tiếng Anh, địi hỏi người ta phải phấn

15


đấu không ngừng cho việc trao dồi kĩ năng, kiến thức của mình. Nhưng đây
lại là một thách thức lớn cho những quốc gia còn hạn hẹp trong vấn đề kinh
phí, cơ sở đào tạo. Chưa nói đến, các quốc gia, như các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam, đang trong thời kì quá độ, đã phải “thử” nhiều cách
khác nhau để hoà nhập cùng thế giới, kéo theo sự hy sinh của các lớp học
sinh, sinh viên. Cũng như việc, nguồn cung cấp thông tin ở các quốc gia kiểu
này, chưa thật sự được chú trọng, dẫn đến việc nguồn thơng tin chưa chính
thống xuất hiện q nhiều, tràn lan, thiếu chọn lọc, thiếu giá trị, gây ra sự
nhiễu loạn về kiến thức toàn cầu. Hoặc như còn thái độ dè dặt với các tài liệu
tri thức nước ngoài của các nhà quản lý đào tạo. Một quan điểm về sự tiêu cực
trong tác động của toàn cầu hoá với giáo dục thêm là sự đa dạng của công
nghệ thông tin, dẫn đến sự đa dạng của cơng nghê giải trí, khiến cho người
học mất tập trung, thậm chí là bị sa đà vào chúng.
Tri thức, đặc biệt là giáo dục, đang ngày càng xoá bỏ đi biên giới của
chính mình, tạo thành một hệ thống với bản chất chứa đựng “thuộc tính khơng
biên giới”. Một trong những điểm tích cực của việc mất đi tính biên giới của
giáo dục nhờ vào tồn cầu hố là việc đi du học. Tại các thành phố lớn của
Việt Nam khơng khó để tìm kiếm những trung tâm làm hồ sơ du học dễ dàng.
Tồn cầu hố làm cho thế giới phẳng hơn, phương tiên đi lại, ngôn ngữ chung
là những yếu tố đẩy mạnh sự giao lưu, đặc biệt là giao lưu học tập, cho mọi
người. Không chỉ đi du học tới các nước phát triển hơn, mà thậm chí du học
tới những nước ngang bằng hoặc thấp hơn để học hỏi. Khả năng nắm bắt
thông tin ngày càng tốt lên, càng nhiều trường đại học thành lập các trung tâm
và biến đổi khí hậu, trung tâm quan hệ quốc tế, nhằm mục đích nghiên cứu và

đẩy mạnh sự giao lưu tri thức giữa các nước, góp phần làm phong phú hơn tri
thức nhân loại.
Tuy nhiên, việc du học ồ ạt, ví dụ như Việt Nam, cũng đang lộ ra
những điểm tiêu cực của mình. Biểu hiện đầu tiên có thể kể đến là sự chảy

16


máu chất xám tới các quốc gia mạnh hơn. Không ít các trường hợp học sinh
được cấp học bổng, được các doanh nghiệp nước ngồi “mua lại”, mà chúng
ta khơng thể làm gì được. Có những số liệu cho thấy 70% học sinh du học (kể
cả học bổng hay tự túc) không quay về Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia cịn nghèo, đang trong q trình phát triển
nên việc hợp tác giáo dục quốc tế trong xu thế hiện nay là điều vô cùng cần
thiết. Đối với những du học sinh do sự khác biệt về văn hố, trình độ và nhiều
yếu tố khác đã gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình ở tại nơi mình học.
Tuy nhiên, đối với trường hợp các quốc gia mạnh hơn đưa học sinh du học tới
các nước thấp hơn, lại tạo nên sự ảnh hưởng ngược, chưa kể cách hành xử
thiếu tôn trọng đối với nước sở tại. Tiếp đến là việc các trung tâm Anh ngữ,
mang danh quốc tế mọc lên càng nhiều, ồ ạt. Các nhóm người dưới danh
nghĩa đào tạo giáo dục con người nhưng mở những trung tâm thiếu chất lượng
nhằm mục đích trục lợi cho bản thân, giảm hiệu quả, tiêu tốn tài chính của
người học.
Một trong những ảnh hưởng tích cực dễ thấy khác là sự hình thành hệ
thống giáo dục tồn cầu, tức là hệ thống giáo dục của các nước, các khu vực
đang có xu hướng trở thành một nhằm nhiều mục đích. Nhờ vào đó, cùng một
tấm bằng có thể được cơng nhận ở nhiều nơi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho
người học sau này. Không chỉ vậy, hệ thống giáo dục toàn cầu cũng thúc đẩy
sự giao lưu, trao đổi sinh viên, ngắn hạn hoặt dài hạn, mang lại nhiều lợi ích
khác nhau.

Nhưng sự hình thành của hệ thống này, đang tạo áp lực lên các nước
chưa có nên đào tạo giáo dục ổn định. Cũng như, áp lực lên việc sử dụng hiệu
quả nguồn tri thức rộng lớn được sinh ra từ liên kết các trường. Tiêu biểu như
trường hợp của Việt Nam.

17


4. Vấn đề đặt ra và những giải pháp phát triển giáo dục đào tạo ở
Việt Nam trong quá trình đổi mới:
4.1 Những vấn đề đặt ra:
Chúng ta đã nói rằng tồn cầu hóa là cơ hội, là xu thế tất yếu. Trong bối
cảnh đó một trong những cách ứng xử khôn ngoan nhất là phải chủ động. Chủ
động lựa chọn những kinh nghiệm hay và phù hợp với thực tiễn của mình.
Nhiều khi cái chúng ta cần bắt chước không phải là cái mà các nước tiên tiến
đang làm mà là những kinh nghiệm của họ trong quá khứ, những kinh nghiệm
để đi lên từ một nền giáo dục cịn lạc hậu đến một nền giáo dục có đẳng cấp
quốc tế. Đặc biệt chúng ta phải chủ động trong việc giữ gìn những giá trị đặc
sắc của nền giáo dục dân tộc đã hình thành và phát triển hàng ngàn năm, từ đó
giúp cho việc bồi dưỡng đạo đức và tâm hồn của thế hệ trẻ. Cần phải nhận
thức một cách sâu sắc rằng tồn cầu hóa trong kinh tế khác tồn cầu hóa trong
văn hóa và giáo dục. Thế giới có thể “phẳng” về kinh tế và cơng nghệ nhưng
khơng thể “phẳng” về văn hóa và giáo dục. Bởi vì văn hóa và giáo dục là vấn
đề con người, vấn đề đời sống tinh thần và nhân cách của cá nhân mà mỗi cá
nhân là một số phận, một vũ trụ riêng tư không lặp lại, gắn với môi trường,
với cộng đồng bằng trăm ngàn sợi dây liên hệ khác nhau.
Nhận biết được xu thế phát triển đất nước phải dựa vào tri thức nên
trong các Nghị quyết Đại hội, đặc biệt là từ khóa 9 trở lại đây, Đảng ta đều
xác định: phát triển kinh tế phải dựa vào phát triển kinh tế tri thức, phát triển
xanh (mục đường lối phát triển kinh tế đã nêu). Để đạt được mục tiêu này, các

Nghị quyết đều xác định giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc
sách hàng đầu (Nghị quyết TW2; Nghị quyết 29-NQ/TW (khóa XI)). Điều
này cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới là: Một quốc gia muốn phát
triển và tăng trưởng bền vững thì nhất thiết phải có 2 yếu tố: một hệ thống đại
học hoàn chỉnh, đẳng cấp quốc tế và một lực lượng lao động chất lượng tốt
mà lực lượng lao động này chủ yếu lại do chính các trường đại học cung cấp.
18


Như vậy, vai trò của các trường đại học rất lớn, có thể nói là yếu tố quyết định
sự phát triển của mỗi quốc gia.
Mặc dù giáo dục đào tạo nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, tái cơ
cấu nền kinh tế và phát triển bền vững, giáo dục đào tạo còn nhiều yếu kém,
bất cập cần phải khắc phục. Đó là mạng lưới trường học, điều kiện cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học đã được tăng cường đầu tư, nhưng vẫn chưa thích ứng
được hồn tồn cũng như chưa phát huy hết công dụng của giáo dục bằng
công nghệ số. Chất lượng giáo dục đào tạo tại Việt Nam vẫn chưa phát huy
được tính tự học của học sinh/ sinh viên, còn nhiều biểu hiện của bẹnh thành
tích, chưa đánh giá được đúng thực lực của học sinh/ sinh viên.
Về chương trình đào tạo, một số trường đang có nhiều đổi mới, theo
hướng chương trình đào tạo năng động, tính mở cao..., song nhìn chung:
- Dạy lý thuyết nhiều, nhiều mục trong bài giảng vô bổ, lý thuyết
suông, không gắn với thực tế.
- Sau giờ học, sinh viên khơng hoặc ít đến thư viện đọc sách, giáo viên
giảng xong là hoàn thành nhiệm vụ.
- Do quá tải nên khơng cịn thời gian trau dồi kiến thức mới. Tóm lại là
học sinh thụ động tiếp thu bài.
- Trường ít có liên hệ, mời giáo viên thực tế về giảng dạy, chương trình

giảng dạy khép kín, học sinh khơng được tiếp cận với thực tế hoặc nếu có
cũng rất ít vì thiếu kinh phí.
- Chương trình chưa bám sát quan điểm chỉ đạo: Thực học, thực
nghiệp. Do đó, sau khi ra trường cử nhân bỡ ngỡ với thực tiễn.
Về chất lượng đỗi ngũ giáo viên, giảng viên: Số thạc sỹ, tiến sỹ trong
nhiều trường đã tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Thầy dạy lý thuyết là
19


chính, Thầy thiếu kiến thức thực tế. Nhà trường chưa có kế hoạch bố trí hoặc
bắt buộc giáo viên phải đi thực thế và giáo viên thì chưa chủ động đi thực tế
nghiên cứu khi có thể bố trí được. Do đó kéo theo việc học sinh/ sinh viên ít
được thực hành, tất cả những kiến thức chỉ có trên sách vở chứ khơng có cơ
hội áp dụng thực tiễn, dẫn đến lượng kiến thức mơ hồ, không rõ ràng.
Do cạnh tranh trong phát triển kinh tế chính là cạnh tranh trong giáo
dục mà giáo dục đào tạo của chúng ta tuy đã cố sức nhưng vẫn còn nhiều vấn
đề bất cập trên. Do đó Việt Nam vẫn tụt hậu nhiều so với các nước trong khu
vực.
4.2 Những giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới:
Để có thể tận dụng được hiệu quả của các cơ hội, vượt qua những thách
thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, thời gian tới, hệ thống giáo dục
nước ta cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau đây:
Một là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục. Tuyên
truyền về giáo dục có tác dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận
cho nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục. Đó là tuyên truyền về Nghị
quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo cũng
như các chủ trương, chính sách mới về giáo dục đào tạo; đổi mới chương
trình, sách giáo khoa; giáo dục mầm non, giáo dục nghề…
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp. Đội ngũ giáo

viên có vai trị quyết định trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Để thực
hiện được nhiệm vụ cao cả này cần khắc phục những rào cản, bất cập hiện
nay (biên chế, tiền lương…) để giáo viên yên tâm công tác, thực sự say sưa,
tâm huyết với nghề. Giáo viên cần đảm bảo chuẩn theo quy định và thường
xuyên được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật và nâng cao trình độ chun mơn,

20



×