Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cơ sở văn hóa nho giáo đã ảnh hưởng đến văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.53 KB, 22 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM
Đề tài :

NHO GIÁO ĐÃ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM
NHƯ THẾ NÀO


MỤC LỤC

Phần 1: Giới thiệu chung................................................................................1
Phần 2: Nội dung cơ bản của Nho Giáo Trung Hoa Cổ Đại.......................3
Tu thân...........................................................................................................3
Hành đạo.....................................................................................................10
Phần 3 : Ảnh hưởng của Nho Giáo tới Việt Nam.......................................11
Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo việt nam :...........................11
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam............................................13
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam............................................14
Kết luận..........................................................................................................20


Phần 1: Giới thiệu chung
Trung Hoa cổ đại là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học
cổ xưa, phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông
mà của cả nhân loại.
Trung Hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thế kỷ III TCN kéo dài đến
thế kỷ II TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy
quyền và bạo lực, mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000
năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được chia thành 2 thời kỳ lớn:
Thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu)
Thời Xuân Thu-Chiến Quốc


Trong thời kỳ này xuất hiện nhiều trường phái triết học khác nhau và
Nho giáo có một vị thế hết sức to lớn trong đời sống xã hội Trung Quốc trong
nhiều thế kỷ. Nho giáo như là một thành tố văn hóa góp phần làm phong phú
văn hóa Trung Quốc vốn được hình thành trên nền tảng của văn hóa Hán cùng
với sự giao lưu tiếp xúc văn hóa với các tộc người khác. Tuy nhiên, trong suốt
chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc, Nho giáo được nhìn nhận
hết sức khác nhau: có những giai đoạn lịch sử, người ta đề cao Nho giáo, coi
đó như là chuẩn mực để xây dựng đời sống xã hội, lại có thời gian, người ta
phê phán, bài bác, thậm chí phủ nhận Nho giáo. Đương nhiên, khi đã coi Nho
giáo như là một học thuyết thì việc xem xét, đánh giá trong các giai đoạn lịch
sử cũng là việc làm bình thường.
Nho giáo có một lịch sử hình thành và phát triển lâu dài hằng mấy
nghìn năm và phát triển vừa bề sâu, vừa bề rộng. Bề rộng là từ một vùng ra cả
Trung Quốc, quê hương của nó, rồi ảnh hưởng đến Triều Tiên, Việt Nam,
Nhật Bản. Bề sâu là các giai đoạn lịch sử của nó, giai đoạn sau thường phong
phú hơn giai đoạn trước hoặc vì phải thích nghi với điều kiện xã hội mới,
hoặc vì phải đấu tranh và làm giàu với các luồng tư tưởng tín ngưỡng khác
sinh ra từ nội địa hoặc nhập vào từ nước ngoài. Có nhà khoa học chú trọng
1


đến “tính khơng hồn chỉnh” của nó; nó khơng phải nhất thành bất biến; nó
chuyển biến ln và hãy xem đó là một sức sống của Nho giáo. Khả năng
chuyển biến mà vẫn giữ bản sắc là một điều, một đặc tính đặc biệt của Nho
giáo. Cho nên, có Nho giáo trước Khổng Tử Hạ Thương, đầu Chư, có Nho
giáo của Khổng tử và các mơn đệ trực tiếp; có Nho giáo thời Hán mà á thánh
nổi tiếng là Đổng Trọng Thư; sang Đường, Nho giáo và Phật giáo đấu tranh
mà chung sống (chưa kể rằng từ Xuân Thu-Chiến Quốc đến đó có bao nhiêu
nhà tranh tiếng với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau). Rồi thời Tống , có Nho giáo
của nó với những bậc á thánh lừng danh như Nhị Trình, Chu Tử v.v. Sĩ phu

Việt Nam đi học thì tự gọi là đến cửa Khổng sân Trình. Một thuở sĩ phu Việt
Nam xem Khổng Mạnh, Hán Nho, Tống Nho “ba vì” của Nho giáo, sau đó
khơng có đỉnh nào cao hơn. Nho giáo đã trở thành tư tưởng, văn hố, in đậm
dấu ấn của mình lên lịch sử của một nửa châu Á trong suốt hai nghìn năm
trăm năm qua, và cho đến tận hôm nay, dù tự giác hay khơng tự giác, dù đậm
hay nhạt, có khoảng một tỷ rưỡi con người đang chịu ảnh hưởng học thuyết
Nho gia, học thuyết này đã trở thành cốt lõi của cái mà ta gọi là văn hóa
phương Đơng. Dĩ nhiên, nó có những hạn chế nhất định, trước hết là những
hạn chế của thời đại, nhưng những tích cực, đóng góp của nó cho phép biện
chứng duy vật, tuy mộc mạc đơn sơ.

2


Phần 2: Nội dung cơ bản của Nho Giáo Trung Hoa Cổ Đại
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào
tạo cho được người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân
= kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu
nhân”, những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm
chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu
nhân” là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hồn thiện. Điều này
có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những
người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải
“tự đào tạo”, phải “tu thân”. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn
phận phải “hành đạo” (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung
cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả
nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là ngun lí đó là những ngun
lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần
phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được

đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con
người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới
nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
Tu thân
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức…
để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam
tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người
trong xã hội giữ được tam cương, ngũ thường, tam tịng, tứ đức thì xã hội
được an bình.
Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan
hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).

3


Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa
lập ra trên những nguyên tắc“chết người”
 Quân thần: (“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” nghĩa là: dù vua
có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới
khơng tn lệnh thì cấp dưới khơng trung với vua) Trong quan hệ vua tôi, vua
thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.
 Phụ tử: (“phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến
con chết, con khơng chết thì con khơng có hiếu)”)
 Phu phụ: (“phu xướng phụ tùy” nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều
phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân: Là tính thiện sẵn có của con người, là tình u thương đồng loại,
khoan dung độ lượng. Theo Luận ngữ, Nhân là sự phô bày rất thực tiễn và
ngoại tại các phẩm tính của con người. Khổng Tử nói: “Khi ở nhà giữ gìn

dung mạo khiêm cung; khi ra làm việc thi hành một cách kính cẩn; khi giao
thiệp với người, giữ lịng trung thành. Dẫu đi tới các đồn rợ phương đông và
phương bắc, cũng chẳng bỏ ba đức hạnh cung, kính và trung ấy, như vậy là
người có đức nhân”. “Đi ra ngoài làm việc phải giống như gặp khách quý. Sai
khiến dân phải giống như đang làm lễ tế lớn vậy. Việc mình khơng muốn thì
đừng ép người khác muốn. Ở trong nước, ở trong nhà đừng để có ai ốn hận
mình”.
Nhân là đức tính quan trọng nhất trong ngũ thường. Khổng Tử nói
“Muốn tu thân phải tuân theo đạo lý. Muốn tuân theo đạo lý, phải thực hiện
nhân. Nhân tức là tính người, là kính yêu người trong thân tộc, u nhân dân
của mình. Đó là điều lớn nhất trong chữ nhân”. Người có tính cương trực, chí
quyết đốn, lịng chất phác, nói cẩn thận, có đủ bốn phẩm đức này đã gần với
đạo nhân. Người thích điều nhân sẽ coi điều nhân trên hết, ghét điều bất nhân,
trong thực tế sẽ luôn làm điều nhân, không bao giờ chịu ảnh hưởng xấu của
điều bất nhân. Người đã mong muốn làm điều nhân thì khơng thể làm điều gì
4


xấu. Chỉ người có đức nhân mới có thể đánh giá người khác một cách khách
quan, không bị những cảm xúc tiêu cực bóp méo nhận thức về con người và
xã hội. Khổng Tử nói: “Chỉ có người có đức nhân mới có thể hay yêu người
và hay ghét người”. Người có nhân nhất định dũng cảm nhưng người dũng
cảm chưa chắc đã có nhân . Người có đức nhân khơng bao giờ ưu lo . Để
đánh giá người có đức nhân hay khơng hãy nhìn vào sai lầm của người đó.
Khổng Tử nói: “Sai lầm người ta mắc phải có quan hệ đến loại người. Loại
người như thế nào thì sẽ phạm sai lầm như thế ấy. Xem sai lầm của một người
đã phạm, có thể biết người đó có đức nhân hay khơng. “. Người qn tử
chẳng may lỡ làm việc bất nhân là có nhưng chưa có kẻ tiểu nhân nào mà làm
được một việc có nhân . Nguyên Hiến hỏi “Nếu một người tự kìm nén được
bốn tật xấu như hiếu thắng, phơ trương, ốn hận, tham lam thì người đó có thể

xem là người có nhân khơng ?”. Khổng Tử nói “Như thế có thể cho là làm
được việc khó. Nhưng có thể xem là người có nhân hay khơng thì ta khơng
biết.” . Người lãnh đạo phải nhân đức thì dân chúng mới hăng hái theo điều
nhân. Khổng Tử nói “Người quân tử ở ngôi trên nếu biết đối đãi nồng hậu với
anh em họ tộc của mình, ắt dân chúng trăm họ sẽ hăng hái theo điều nhân.
Người quân tử ở ngôi trên nếu khơng bỏ bạn bè thân thiết cũ, thì dân chúng
cũng khơng đối xử với nhau bạc bẽo vơ tình”. Tuy nhiên người đời lại thích
tiền tài, địa vị, nhan sắc hơn là làm điều nhân đức. Khổng Tử từng cảm thán
“Ta chưa từng nhìn thấy ai thích đức nhân như thích sắc đẹp.”. Đối với người
bất nhân cũng khơng nên ghét bỏ quá mức vì nếu bị ghét bỏ quá mức họ dễ
trở thành kẻ làm loạn.
Nhân là phẩm chất đạo đức đầu tiên mà người đạo đức phải có. Khổng
Tử nói: “Người quân tử xa rời đạo nhân làm sao có thể xứng danh quân tử
được. Người quân tử không bao giờ xa rời đạo nhân dù chỉ trong khoảng thời
gian một bữa ăn. Dù cho ở hoàn cảnh bức bách khốn cùng, phải phiêu bạt nơi
đất khách quê người cũng không bao giờ xa rời đạo nhân”. Để trở thành con
người nhân đức thì phải khơng ngừng tu dưỡng bản thân. Theo Khổng Tử,
5


muốn làm người nhân đức khơng khó. Ơng nói “Khơng lẽ điều nhân xa chúng
ta như vậy ư ? Ta nghĩ muốn đạt được điều nhân thì điều nhân sẽ đến”. Tuy
nhiên theo ông: “Ta chưa thấy người nào đạt đến điều nhân mà không tốn sức
tốn công rèn dũa. Người không mất sức mà đạt đến nhân, đại khái cũng có thể
có, nhưng ta chưa gặp bao giờ”. Tăng Tử, học trò của Khổng Tử, lại cho rằng
“Kẻ sĩ khơng thể khơng có hồi bão lớn lao, ý chí kiên cường, tinh thần kiên
nghị. Bởi vì trách nhiệm gánh vác của kẻ sĩ rất nặng mà đường lại còn xa.
Gánh điều nhân làm trọng trách của mình chẳng lẽ không phải là quá nặng nề
ư ? Chỉ đến khi chết rồi mới ngừng nghỉ, chẳng lẽ không phải đường dài lắm
đó ư ?”. Người có đức nhân là người trước hết biết chịu đựng gian khổ, làm

những việc khó khăn, rồi sau mới thu hoạch. Người có đức nhân là người biết
mình đã lập nên sự nghiệp cũng muốn người khác lập nên sự nghiệp; mình
thành đạt cũng muốn người khác thành đạt; phàm làm việc gì cũng lấy mình
ra đối chiếu, thử áp dụng lên mình để hiểu biết ý muốn của người. Việc gì
mình khơng thích, có hại cho mình thì khơng làm cho người. Người có đức
nhân khơng nói chuyện một cách tùy tiện, phải nhẫn nại. Người có đức nhân,
ln mong muốn làm điều nhân đức sẽ không lấy của cải vật chất làm thước
đo mình và mọi người, khơng thất chí trong hồn cảnh khó khăn. Khổng Tử
nói: “Kẻ sĩ lập chí vì đạo nhân mà cảm thấy nhục nhã khi ăn đói, mặc rách,
người như vậy không đáng để cùng bàn luận đạo nhân”. Tuy nhiên nhân đức
khơng có nghĩa là hành động nơng nổi, thiếu suy nghĩ, vì người mà hại mình.
Khi được Tể Ngã hỏi người có đức nhân có nên nhảy xuống giếng cứu người
hay không, Khổng Tử trả lời “Người qn tử là người tìm cách cứu người,
chứ khơng thể nhảy xuống giếng mà hại thân. Người quân tử có thể bị lừa bởi
những điều có lý nhưng khơng thể bị hại bởi những điều xằng bậy vô lý”. Đối
với bậc thức giả, nếu quân vương sáng suốt, nhân nghĩa thì phị tá; qn
vương vơ đạo thì ở ẩn, như vậy là người nhân đức. Tử Cống hỏi Khổng Tử
khi Bá Di, Thúc Tề ở ẩn họ có ốn hận gì khơng ? Ơng trả lời “Theo đuổi
điều nhân mà được điều nhân, cịn phải ốn hận gì nữa ?”.
6


Nghĩa: Là cư xử cho hợp lẽ phải, đường hoàng, hào hiệp. Hành vi của
con người phải chính đáng, chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn, trọng tâm là nghĩa
vụ và trách nhiệm. Trước khi làm gì phải xem xét hành vi đó có hướng đến
điều “thiện” hay khơng, có thể hiện tiêu chuẩn đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm
với cộng đồng hay không. Nghĩa là cơ sở để con người hành động. Người có
đạo đức chỉ làm những việc hợp nghĩa. Chuyện gì khơng hợp nghĩa thì khơng
làm. Khổng Tử nói “Người quân tử đối với mọi việc trên thế gian, không nhất
định phải làm việc này hoặc không làm việc kia, mà xem việc đó có hợp

nghĩa hay khơng, nếu hợp nghĩa thì làm.” Ơng cũng cho rằng “… Nhìn thấy
việc chính nghĩa khơng dám làm, là khơng có dũng khí.”. Tinh thần trọng
nghĩa khinh tài của Nho giáo được thể hiện trong câu nói của Khổng Tử
“Người quân tử chỉ biết điều nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều lợi”. Một số
người cho rằng quan niệm coi trọng đạo nghĩa hơn lợi ích vật chất là điểm lạc
hậu của Nho giáo kiềm hãm sự phát triển kinh tế. Đó là sự ngộ nhận vì Nho
giáo khơng phản đối làm giàu mà chỉ phản đối làm giàu bằng mọi giá, thấy lợi
quên nghĩa cũng như nền văn minh phương Tây với nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa mang tính vị lợi cao độ cũng không hề chấp nhận việc làm giàu gây hại
cho người khác hoặc cho cộng đồng; gây ô nhiễm môi trường; vi phạm đạo
đức, nhân quyền và các quy tắc xã hội. Khổng Tử nói “Nước nhà thái bình mà
mình lại nghèo hèn, như vậy là đáng sỉ nhục. Nước nhà loạn lạc mà mình giàu
có như vậy cũng là đáng sỉ nhục”.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là
việc tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách
căn bản, chính nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền
vững nền văn hiến của một nước, lễ mà bại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan, xã
hội hỗn loạn, xung đột nảy sinh. Khổng Tử nói: “Cung kính mà thiếu lễ thì
làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng
cảm mà thiếu lễ sẽ trở thành loạn nghịch. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên
thô lỗ”. Trong ứng xử, lễ thể hiện qua điệu bộ, cử chỉ, phong thái. Trước khi
7


chết Tăng Tử dặn dò học trò “Người quân tử giữ đạo lý nên đặc biệt coi trọng
3 điều: Cử chỉ, dung mạo điềm đạm, dáng điệu khoan thai, đàng hồng sẽ giữ
cho mình tránh thơ bạo và phóng túng. Giữ sắc mặt đoan trang sẽ giúp mình
giữ được chân thật và thành thực với mọi người. Nói năng chú ý giữ được
điệu bộ, giọng điệu sẽ giúp mình tránh được thơ bỉ và sai sót.”
Trí: Ĩc khơn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu,

tính tốn để hành động hợp đạo lý. Người có đức trí khơng bao giờ nhầm lẫn.
Khổng Tử nói “Người có trí lực bậc trung trở lên có thể dạy cho họ những
đạo lý cao sâu. Người có trí lực từ bậc trung trở xuống không thể dạy cho họ
những đạo lý cao sâu”. Người có trí khơng phung phí tiền bạc vào những
chuyện mê tín dị đoan, xa hoa, vơ ích. Khổng Tử nói “Tang Văn Trọng dựng
riêng một ngơi nhà để nuôi một con rùa lớn, quanh cột nhà chạm núi non, xà
nhà có khắc hình rong biển. Con người như vậy sao gọi là người trí ?”. Bậc trí
giả tùy thời mà sống, thời trị thì ra giúp nước, thời loạn thì lánh xa chính trị để
gìn giữ thiên lương và bảo tồn sinh mạng. Khổng Tử nói: “Ninh Vũ Tử, khi
nước nhà yên ổn thái bình được tiếng là người có đức trí, khi nước nhà loạn
lạc bị mang tiếng là ngu đần. Trí như Ninh Vũ Tử thì người khác có thể theo
kịp, chứ cịn giả ngu đần như Ninh Vũ Tử thì thiên hạ khơng có cách nào đuổi
kịp”. Người lãnh đạo có trí là người dùng hết tâm trí, sức lực làm mọi việc
cho dân.
Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau
này được tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá
trị trên. Khổng Tử nói: “Một người khơng có chữ tín, khơng biết có thể làm gì
được. Cũng giống như xe lớn khơng có chốt, xe nhỏ cũng khơng có chốt, thì
làm sao có thể đi được ?”. Để giữ được chữ tín thì phải cẩn thận trong lời nói,
khơng hứa hẹn những điều vượt q khả năng của mình vì như Khổng Tử nói
“Người xưa khơng để khinh suất khi nói ra, bởi sợ xấu hổ vì khơng thực hiện
được lời mình đã nói”.

8


Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, gồm: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”



Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,



Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,



Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con”

Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ
nữ phải có, là: cơng – dung – ngơn – hạnh.


Cơng: khéo léo trong việc làm.



Dung: hịa nhã trong sắc diện.



Ngơn: mềm mại trong lời nói.



Hạnh: nhu mì trong tính nết.

Người qn tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
Đạt đạo: Đạo có nghĩa là “con đường”, hay “phương cách” ứng xử mà

người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm
điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách
Trung Dung), tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng
hữu”. Đó chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt
nhất là “trung dung”. Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ
còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là
Tam tòng.
Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân – trí – dũng”. Khổng Tử
nói: “Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân khơng
lo buồn, người trí khơng nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận
ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành
bốn đức: “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán nho thêm một đức là “tín” nên có tất cả
năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này cịn gọi là ngũ thường.
Biết thi, thư, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người
quân tử còn phải biết “thi, thư, lễ, nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có
một vốn văn hóa tồn diện.
9


Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của cơng việc này được cơng thức hóa thành “tề gia, trị
quốc, thiên hạ bình “. Tức là phải hồn thành những việc nhỏ – gia đình, cho
đến lớn – trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất
thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai
trị là hai phương châm:
Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu
người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân
thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình khơng muốn
thì đừng làm cho người khác” (sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao

nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người khơng có nhân thì lễ mà làm
gì? Người khơng có nhân thì nhạc mà làm gì?” (sách Luận ngữ).
Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó,
mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. “Danh khơng chính thì lời
khơng thuận, lời không thuận tất việc không thành” (sách Luận ngữ). Khổng
tử nói với vua Tề Cảnh Cơng: “Qn qn, thần thần, phụ phụ, tử tử – Vua ra
vua, tôi ra tơi, cha ra cha, con ra con” (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho
giáo, chúng được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà
thơi.
Qn tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi,
thư, lễ, nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó cịn có thể chỉ những người có đạo đức
mà khơng cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà khơng có
đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).

10


Phần 3 : Ảnh hưởng của Nho Giáo tới Việt Nam
Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo việt nam :
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và
đã có vai trò đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu
ấy được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu
cầu của đất nước và đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng
thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời
nó với truyền thống Việt Nam.

Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích
Quang, Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ cơng ngun.

Nhưng Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ
dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo
đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Có thể nói rằng
suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội
Việt Nam.
Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu
Cơng, Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính
11


thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý
cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường
Nho…
Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở
nước ta, đó là học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn
An đỗ thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo
được khá đơng học trị. Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để
khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn
chưa được chấp nhận rộng rãi. (Khơng cứ gì ở nơi nơng thơn, ngay ở chốn
triều đình, các tập tục, lề lối của khuôn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta.
Một lần có người đề nghị cải tổ triều đình theo khn mẫu Phương Bắc đã bị
vua Trần cự tuyệt và nói rằng ta có cách của ta).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là
Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn.
Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã
dẫn đến việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ
địa vị độc tơn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều

12



đại phong kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo một lần nữa
khẳng định để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa
phương Tây.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
– Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và
bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Cơng lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam,
trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Q Đơn, Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du, Ngơ Thì Nhậm…
Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt
nam. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được
phổ biến và phát triển, thể hiện ở các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền
chùa… Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng
tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật tự,… ảnh hưởng
rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu
thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến.
– Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức
theo Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước.
Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần
chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như:
+ “Tiên học lễ, hậu học văn” là khẩu hiệu trong các trường học Việt
nam từ xưa đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của
Nho giáo và đã đưa vào đó những nội dung mới như: “Cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng, vơ tư, trung, hiếu, …”
+ Tư tưởng “Trăm năm trồng người” và “Hữu giáo vô loại” (nghĩa là
dạy học cho mọi người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được
Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.


13


– ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự
xã hội. Nho giáo với các tư tưởng chính trị – đạo đức như “Chính danh”,
“Nhân trị”, “Nhân chính” ln ln là bài học q giá và được vận dụng
trong suốt lịch sử Việt nam.
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngơ đại cáo” đã viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”,
và “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo”.
Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: “Dân giàu,
nước mạnh” và “Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”.
Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ
những tư tưởng khơng phù hợp với thời đại và hồn cảnh của Việt nam lúc
bấy giờ. Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: “Thứ dân bất nghị” tức là dân
thường khơng có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng
Tử coi thường vị trí, vai trị của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ
trương nam nữ bình quyền.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo ở Việt Nam.
Ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết
học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong
lịch sử. Nho giáo góp phần khơng nhỏ trong việc duy trì q lâu chế độ phong
kiến ở á Đơng nói chung và ở Việt nam nói riêng.
Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát
triển ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến
thành chủ nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo
khơng thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương

pháp giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy
làm người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Những mặt tiêu
cực đó phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta.
14


Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng
chính trị – đạo đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau:
– Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế – chính trị để
phát triển kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt nam.
– Trên lĩnh vực chính trị – đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng
của Nho giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh
tế, xã hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải
Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận
vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ
trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng
chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải
quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm.
•Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo được du nhập vào Việt nam từ lâu và
đã có vai trị đáng kể trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những trào lưu
ấy được cải biến cho phù hợp với truyền thống văn hóa của nhân dân và nhu
cầu của đất nước và đã trở thành nhân tố của nền văn hóa và hệ tư tưởng
thống trị ở Việt Nam. Nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam không thể tách rời
nó với truyền thống Việt Nam.
• Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích
Quang, Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp.. tích cực truyền bá từ cơng ngun.
Nhưng Phật giáo đã có ưu thế hơn Nho giáo rất nhiều. Trong khi Nho giáo chỉ
dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại bang thì Phật giáo
đã thâm nhập vào các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Có thể nói rằng

suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội
Việt Nam.
• Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu
Cơng, Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính
thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống Nho (Nhà Lý
15


cùng thời với nhà Tống ở Trung Hoa) chứ không phải Hán Nho, Đường
Nho…
• Vào năm 1232 vua Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo
ở nước ta, đó là học vị Thái học sinh (về sau đổi thành tiến sĩ) và có Chu Văn
An đỗ thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học, đào tạo
được khá đơng học trị. Các nhà Nho thời kỳ này ra sức bài xích Phật giáo để
khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, đến cuối đời Trần, Nho giáo vẫn
chưa được chấp nhận rộng rãi. (Khơng cứ gì ở nơi nơng thơn, ngay ở chốn
triều đình, các tập tục, lề lối của khn mẫu Nho giáo cũng rất xa lạ với ta.
Một lần có người đề nghị cải tổ triều đình theo khn mẫu Phương Bắc đã bị
vua Trần cự tuyệt và nói rằng ta có cách của ta).
•Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, các nhà Nho, đứng đầu là
Nguyễn Trãi, tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn.
Với sự lớn mạnh của Nho giáo Việt nam, với nhu cầu cải cách đất nước đã
dẫn đến việc triều Lê chủ động đưa Nho giáo thành Quốc giáo; Nho giáo giữ
địa vị độc tơn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của các triều
đại phong kiến. Nhà Nguyễn lên cầm quyền, địa vị của Nho giáo một lần nữa
khẳng định để rồi tàn lụi dần khi phải đối mặt với sự tấn công của văn hóa
phương Tây.
Nét độc đáo của văn hố Việt Nam là khi tiếp thu cái ngoại lai, nó tiếp
nhận từng yếu tố riêng lẻ và Việt Nam hoá để rồi cấu tạo lại theo cách của
mình.

Nhà nước phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là
để khai thác những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo, thích hợp cho việc tổ
chức và quản lý đất nước.
Trước hết nhà nước quân chủ Việt Nam đặc biệt là các triều Lê,
Nguyễn đã học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật,
hệ thống thi cử để chọn người tài bổ dụng, trong bộ máy cai trị đã được triều
đình phong kiến Việt Nam vận dụng ngay từ đầu thời Lý hoàn thiện dần ở
16


thời Trần và hoàn chỉnh vào thời Lê. Chữ cổ đã mai một và mất hẳn thì người
Việt sử dụng chữ Hán (chữ Nho) làm văn tự chính thức trong giao dịch hành
chính, trên cơ sở chữ Hán, từ cuối thời Bắc thuộc, người Việt đã tạo ra chữ
Nôm dùng trong sáng tác văn chương. Thời Tây Sơn vua Quang Trung đã mở
rộng sử dụng chữ Nôm trong lĩnh vực hành chính và giáo dục.
Có rất nhiều yếu tố của Nho giáo khi vào Việt Nam đã biến đổi cho phù
hợp với truyền thống của văn hoá dân tộc tức là: “Chữ nghĩa nó vẫn thế
nhưng cách hiểu thì đã khác nhiều”.
1-

Về chữ Trung và Hiếu:

Trong giai đoạn của lịch sử Việt Nam, khi xuất hiện mâu thuẩn giữa
Vua và đất nước với dân tộc, thì đất nước dân tộc luôn là cái quyết định, được
đặt lên trên hết. Tư tưởng Trung quân của Nho giáo được người Việt Nam
tiếp thu trên cơ sở tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc sẵn có khiến cho nó
đã bị biến đổi, “Trung quân” gắn liền với “Ái quốc”.
Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nguời con tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam, đã kế thừa và phát huy những giá trị tinh tuý nhất của Nho giáo
trong cuộc đời cách mạng của mình, đưa dân tộc đi lên con đường phát triển

mới của thời đại. Chữ Trung trong thời đại Bác Hồ mang nội dung mới hoàn
toàn: Không phải “Trung với Vua” mà là “Trung với nước” và chữ Hiếu với
nội dung được mở rộng đến vô cùng đó là “Hiếu với dân”, chứ khơng cịn hạn
hẹp như khái niệm của Nho giáo xưa kia.
Theo Nho giáo xưa kia thì “ Phụ mẫu tại bất viễn du” tức là: cha mẹ
cịn con khơng được đi xa,và “ Bất hiếu hữu tam, vơ hậu vi đại”.Tức là: Có ba
tội bất hiếu, tội khơng có con nối dõi là tội nặng nhất.
Chính vì đặt đất nước lên hết, mà một người dịng dõi Nho gia như Hồ
Chí Minh dám đi ngược lại giáo huấn của Nho gia.Vì tổ quốc vì dân tộc,
người tạm thời gác bỏ chữ hiếu theo nội dung hạn hẹp của Nho gia, để ra đi
tìm đường cứu nước. Người khơng lập gia đình để hy sinh tất cả cho đất nước,
non sông. Như vậy, chữ hiếu đã được mở rộng vượt ra ngồi khn khổ chật
17


hẹp của Nho giáo, hoà với chữ Trung là một,và chữ Trung cũng mang một nội
dung hoàn toàn hiện đại, như lời dạy của Bác đối với quân đội cách mạng.
Trung với Đảng, hiếu với dân
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành
Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung và hiếu hai khái niệm hạn hẹp của Nho gia ngày xưa, nay đã
được mở rộng, gắn liền với khái niệm nhân dân, đất nước. Người chiến sĩ
cách mạng lỗi lạc, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh của chúng ta vốn xuất thân
từ dòng dõi Nho gia nhưng đã vượt qua khỏi vòng cương toả khắc nghiệt của
Nho gia, hiến trọn đời mình vì nước vì dân, nên trở thành bất tử.
…Người khơng con mà có triệu con
Nhân dân ta gọi người là Bác
Cuộc đời Người là của nước non …
2/ Trọng dụng người tài:

Một trong những điểm tiến bộ của Nho giáo xưa là chủ trương “Coi
trọng người hiền tài” .
… “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
Ngun khí mạnh thì quốc gia thịnh
Ngun khí yếu thì quốc gia suy”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ anh minh lỗi của dân tộc chúng ta,
ngay từ những năm sau kháng chiến chống Pháp trường kỳ và gian khổ, đãcó
một tầm nhìn rộng lớn, đề ra và giải quyết nhiều vấn đề vượt trước thời đại.
Ngưới thấu hiểu vai trị của trí thức, đã trân trọng mời nhiều trí thức việt kiều
về xây dựng đất nước.
Ngay từ năm 1946 Người nói đến việc diệt trừ “giặc dốt” ngay sau khi
tuyên bố độc lập 4/10/1945 Người phát động phong trào “Bình dân học vụ”
nhằm chống nạn thất học.
18



×