Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận cơ sở văn hóa việt nam đặc điểm võ bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.84 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGOẠI NGỮ
-----------   -----------

TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:

ĐẶC ĐIỂM VÕ BÌNH ĐỊNH

GVHD:

TRẦN LONG

SINH VIÊN:

ĐỖ THỊ KIM ANH

MSSV:

20DH710585

SỐ TT:

02

LỚP:

A22002

NĂM HỌC: 2020-2021



MỤC LỤC
PHẦN TỔNG QUAN ...........................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu đề tài...............................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu ...........................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................2
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu ................................2
PHẦN NỘI DUNG ...............................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............3
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................3
1.1.1. Tổng quan về võ cổ truyền .....................................................3
1.1.2. Tổng quan về võ cổ truyền và võ cổ truyền Bình
Định ...............................................................................................................3
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................5
1.2.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................5
1.2.2. Điều kiện xã hội ..........................................................................5
CHƯƠNG II: VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH NHÌN TỪ THỜI
GIAN VÀ KHƠNG GIAN VĂN HĨA ........................................................6
2.1. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ thời gian...............................6
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ...........................................6
2.1.2. Võ cổ truyền Bình Định qua các thời kì...........................7
2.1.2.1. Thời kì trước Tây Sơn ........................................................7
2.1.2.2. Thời kì Tây Sơn ....................................................................9
2.1.2.3. Thời kì nhà Nguyễn ............................................................10
2.1.2.4. Thời kì cận - hiện đại .....................................................12
2.2. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ khơng gian văn hóa .......13


2.2.1. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tây Sơn-Bình Định.13

2.2.2. Võ cổ truyền Bình Định ở thị xã An Nhơn-Bình Định
.....................................................................................................................13
2.2.3. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tuy Phước-Bình Định
.....................................................................................................................13
CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH............14
3.1. Sự đa dạng..........................................................................................14
3.2. Nội dung võ cổ truyền....................................................................15
3.3. Võ đạo ..................................................................................................16
3.3.1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm........................16
3.3.2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn.....................................16
3.3.3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa ..................17
3.4. Võ lý .....................................................................................................19
3.5. Về khía cạnh võ thuật ....................................................................19
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................21


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

PHẦN TỔNG QUAN
Khơng biết từ bao giờ người dân trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam đều
thuộc lòng câu ca dao:
“ Ai về Bình Định mà xem
Con gái Bình Định đánh roi đi quyền”.

Dù khơng nói ra, nhưng đó chính là niềm tự hào của mỗi người dân Bình
Định nói riêng và người dân trong cả nước nói chung. Lần tìm về cội nguồn văn
hóa, chúng ta cịn vui thay khi tinh thần dụng võ ấy lại bắt đầu từ một lịch sử oai

hùng của dân tộc. Mấy trăm năm đã trôi qua, nhưng những chiến tích lẫy lừng của
Vua Quang Trung- Nguyễn Huệ chỉ huy hàng vạn binh sĩ áo vải cờ đạo đánh tan
hàng vạn quân Thanh xâm lược vẫn cịn sống mãi. Võ cổ truyền Bình Định đã
đánh dấu bước ngoặt quan trọng từ đó.

Đỗ Thị Kim Anh

1


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ phát triển vược bật, nó đã bỏ xa
các giá trị truyền thống quý báo của dân tộc. Khi mà một bộ phận người đã dần
đánh mất các giá trị cao q vốn có đó. Thì nghiên cứu các vấn đề để khơi dậy một
nền văn hóa đã phát triển hết sức rực rỡ trong quá khứ. Mà đặc biệt là nền võ thuật
cổ truyền của dân tộc nói chung và võ cổ truyền Bình Định nói riêng , đây là võ cổ
truyền dân tộc cần được kế thừa và phát huy các giá trị hết sức cao đẹp vốn có của
nó.
Với tư cách là người thích tìm hiểu về võ thuật nước nhà mà đặc biệt là võ cổ
truyền dân tộc thì võ cổ truyền Bình Định là một đề tài tiêu biểu cho vấn đề cần
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Là một người được sinh ra và lớn lên tại Bình Định, nhưng bản thân chưa biết
và hiểu hết về đất và người Bình Định cũng như những nét văn hóa đặc sắc truyền
thống của vùng đất này đặc biệt là võ. Vì vậy tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này
nhằm mục đích giúp tơi và mọi người hiểu thêm về Bình Định, muốn phát huy tác

dụng cuả việc học và dạy võ, có thể giới thiệu cho mọi người những lý luận và
kiến thức cơ bản về võ thuật Bình Định.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là đặc điểm võ cổ truyền Bình Định
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, phân tích và so sánh. Sử dụng
những tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, qua các bài viết, các tư
liệu qua các phương tiện sách báo, internet…
Qua những gì đã quan sát được từ thực trạng và những thành quả đã đạt được
cũng như sự phát triển của võ Bình Định.
5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu

Đỗ Thị Kim Anh

2


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Tổng quan về võ cổ truyền
Võ cổ truyền Việt Nam (cịn có các tên gọi là Võ dân tộc, Võ Ta...) có lịch sử
phát triển lâu đời và nền tảng sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Lịch sử phát
triển võ thuật cổ truyền Việt Nam gắn liền với truyền thống thượng võ của dân tộc
Việt Nam trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngày nay, võ cổ
truyền Việt Nam đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và ngày càng được

thừa nhận rộng rãi..
Từ bao đời nay, nhân dân ta đã dùng võ để rèn luyện thân thể, nâng cao khả
năng tự vệ-chiến đấu, tơi luyện ý chí sắt đá và ứng dụng trong các trò chơi, lễ hội
để tăng cường sự giao lưu, đoàn kết trong cộng đồng.
Phần biểu hiện bên ngoài của Võ cổ truyền là một hệ thống tổng hợp các bài
tập rèn luyện thể chất, ý chí, kỹ thuật và chiến thuật đối kháng tự vệ, đấu tranh giữ
nước của nhân dân. Chúng được bắt nguồn từ những động tác trong đời sống
thường nhật của con người ở buổi sơ khai để dần dần hình thành nên những kỹ
năng và theo thời gian những kỹ năng đó được hệ thống và truyền dạy để không
ngừng nâng cao khả năng tự vệ, chiến đấu của con người.
1.1.2. Tổng quan về võ cổ truyền và võ cổ truyền Bình Định
Võ cổ truyền Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với truyền thống lao
động cần cù, tính hiếu học và tinh thần thượng võ của dân tộc trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của Lịch sử, Võ cổ
truyền Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức và cách thức khác
nhau, được truyền bá và lưu giữ từ đời này qua đời khác trong mỗi gia đình, dịng
tộc cũng như các võ đường, lò võ trên các vùng miền của đất nước. Cũng qua
những thăng trầm của sự phát triển đó, Võ cổ truyền Việt Nam đã thấm sâu vào
máu thịt, vào tư tưởng, vào hành động của mọi người, trở thành một mảng văn hóa
tinh thần đầy tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam. Nhân dân ta đã dùng võ để
Đỗ Thị Kim Anh

3


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

rèn luyện thân thể, nâng cao khả năng tự vệ, tôi luyện ý chí sắt đá và ứng dụng

trong các trị chơi, lễ hội để tăng cường sự giao lưu trong cộng đồng.
Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa, nơi có truyền thống võ
thuật lâu đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm cịn lưu giữ hình ảnh. Đây
cũng là cái nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802).
Trong thế kỷ 18, một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc
chuyển đến định cư tại vùng này và dạy võ cho người dân địa phương. Trong số
này có Trương Văn Hiến (vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh), Trần Kim Hùng (có tổ
tiên sáng lập thơn Trường Đình, Tây Sơn), Diệp Kim Tịng (từ Phúc Kiến), Đinh
Văn Nhưng (người Ninh Bình). Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em
nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng sĩ của cuộc khởi nghĩa.
Từ cuối thế kỷ 18 các võ sư đã gây dựng tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn
gọi là Võ trận Tây Sơn) độc đáo, kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những
võ phái Bình Định khác nhau. Nguyên tắc của võ phái này là: "nhất mạnh, nhì
nhanh, thứ ba giỏi", nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo,
và kỹ thuật có uy lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây
Sơn, nhiều kỹ thuật của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi
phái võ của các gia tộc tại Bình Định.
Từ thời Tây Sơn đến nay, võ Bình Định bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ
Bình Định và vùng phụ cận như: roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An
Vinh và các hình thức võ thuật do các gia tộc, các nhà sư truyền dạy như Tây Sơn
Nhạn, Thanh Long võ đạo, Bình Định Sa Long Cương, Võ trận Bình Định, Tân
Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định gia v.v. Nhiều bài danh quyền có
xuất xứ từ đất Bình Định như Ngọc trản ngân đài, Lão mai quyền, Thần đồng
quyền, Yến phi quyền (còn được gọi là Én Bay thảo pháp) đã được đưa vào
chương trình khảo thí võ thuật thời Nguyễn và một số bài trở thành bài quy định
của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam.
Điều cần nói ở đây là, tên gọi "Võ Bình Định" nguyên khởi xuất hiện vào thế
kỷ thứ 15, do Nguyễn Trãi đặt và được truyền nối rồi ngộ nhận là mơn võ xuất
phát từ vùng Bình Định vào thời Tây Sơn. Theo cách lý giải của tủ sách Tìm hiểu
Đỗ Thị Kim Anh


4


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

Võ thuật, sau cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn
võ nghệ cho quân đội nên cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy
thác cho nhà sư Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ cho nghĩa binh Lam Sơn từ
năm 1415 mở võ đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên
là Võ đường Bình Định để tưởng nhớ cơng lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ
đó tên Võ Bình Định được truyền nối khắp nước.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
bnsndh
1.2.2. Điều kiện xã hội
dnbcnamzbmsbcms

Đỗ Thị Kim Anh

5


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

CHƯƠNG II: VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH NHÌN TỪ THỜI GIAN VÀ

KHƠNG GIAN VĂN HĨA
2.1. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ thời gian
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Dựa vào điều kiện lịch sử, căn cứ vào các tiêu chí: mức độ qui mơ phát triển
võ, trình độ võ nghệ, tính chất giai cấp, mục tiêu phục vụ của võ nghệ trong từng
giai đoạn, đề tài lấy mốc thời Tây Sơn làm trung tâm vì đây là thời điểm đỉnh của
võ cổ truyền Bình Định.
Trước thời Tây Sơn (từ khoảng năm 1600), võ cổ truyền Bình Định cịn ở
dạng sơ khai, hình thành chủ yếu dựa trên các thao tác lao động và sử dụng công
cụ lao động hàng ngày .
Đến thời Tây Sơn, bắt đầu có sự giao lưu, hồ nhập giữa các dòng võ và quy
tụ nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều võ quan, võ sư nổi tiếng. Võ cổ truyền Bình
Định thời Tây Sơn được sử sách ghi nhận là thời kỳ hưng thịnh và phát triển rực rỡ
nhất, được xây dựng thành hệ thống võ học, được đưa vào hệ thống thi cử, đào tạo
tướng sĩ, được nghiên cứu và áp dụng triệt để, sáng tạo trong quân sự, trong chiến
đấu, phục vụ chiến trường và khuyến khích mở trường dạy võ khắp nơi.
Võ cổ truyền Bình Định thời Tây Sơn là sự kết tinh và hoà quyện cao độ giữa
các dịng võ, mơn võ, phái võ khác nhau (của người bản địa, võ từ Bắc hà vào v.v.)
tạo nên sức mạnh tổng hợp, chắt lọc tìm ra cái tinh tuý nhất để bồi đắp, bổ sung
vào kho tàng võ học chân truyền của dân tộc.
Sau thời Tây Sơn, mặc dù khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã tiêu diệt mọi thành
quả của nhà Tây Sơn nhưng võ cổ truyền Bình Định vẫn có khả năng tiềm ẩn và
sức sống mãnh liệt, “võ vườn” vẫn được bí mật truyền dạy trong các nhà chùa hoặc
các bìa rừng, vẫn được nhiều người tâm huyết nghiên cứu, sưu tầm, viết sách lưu
truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Đến nửa đầu thế kỷ XIX, các dịng võ nước ngồi, chủ yếu là võ Thiếu Lâm
(Trung Hoa) và nhiều môn võ như quyền Anh, Judo, Karatedo, Teakwondo… đã

Đỗ Thị Kim Anh


6


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

phát triển khá mạnh ở Bình Định nhưng vẫn khơng thể lấn át được võ cổ truyền
Bình Định bởi vẫn giữ được những đặc điểm độc đáo của nó.
2.1.2. Võ cổ truyền Bình Định qua các thời kì
2.1.2.1. Thời kì trước Tây Sơn
Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng
được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng khơng thấy sử sách lưu danh. Năm 1558,
Nguyễn Hồng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng
Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất
chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa
Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về
phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi
danh võ nghiệp có Khám lý quận cơng Trần Đức Hồ, Nguyễn Hữu Tiến, Trương
Đức Thường... Họ khơng chỉ giỏi võ, mà cịn là các danh nhân rường cột của một
thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ơng là người
tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi.
Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền
cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất
đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã,
trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là
một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch
sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở
phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất
sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thơn Phú Lạc,

xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ.
Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và
nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng
sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan
tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của
nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nơng dân, theo Lía rất
đơng. Bằng võ cơng thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp
Đỗ Thị Kim Anh

7


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

Trng Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa qn của Lía ngồi căn cứ ở Bá Bích
(Tây Sơn), có thêm căn cứ Trng Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ
một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ơ lại
phấp phỏng, qn triều đình ăn không ngon ngủ không yên.
Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền
phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp
vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc
Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân
tình khổ sở, lịng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán
và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà
tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người
đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tịng, Trương
Văn Hiến, Trần Kim Hùng.
Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn

giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang,
ruộng đất của cải nhiều vơ kể, nhưng khơng rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không
cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của
Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ
của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ơng đem
rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng.
Diệp Đình Tịng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn
bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng
núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu
làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao.
Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần
Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt
giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã
chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trị
ơng là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng,
Đỗ Thị Kim Anh

8


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại
tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đơ đốc Phan Văn Lân, Phị mã
Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi
(tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ
Binh pháp Tây Sơn) …

Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền
đồ. Trước khi gặp ơng, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò
Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo
Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ,
thành đại đơ đốc Tây Sơn, có cơng đại phá qn Thanh.
Ngồi ra cịn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xn: Một là Ngơ
Mãnh người Thanh Hố, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý
muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong
những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở
Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi
Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng
Bùi Thị Xuân luyện kiếm.
2.1.2.2. Thời kì Tây Sơn
Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước,
được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn
lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư.
- Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú,
Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc.
- Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở,
Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô
Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần
Chính…
- Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi
Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung.
Đỗ Thị Kim Anh

9



Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối
kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định
như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh
rường cột của Nhà Nguyễn.
Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính
khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự
xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa
quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến
thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi
các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh
hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ
Tây Sơn khơng khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của
một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hồng trong lịch sử Việt
Nam.
2.1.2.3. Thời kì nhà Nguyễn
Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà
Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật
ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên
quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm
cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch.
Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm rịng. Nhưng trong lịng người Bình Định
nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh
hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai
nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn
thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền
dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết

nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián,
cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc
giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian
thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần
Đỗ Thị Kim Anh

10


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì
mưu sự khơng thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn
này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ:
Củ lang Đồng Phó,
Đỗ phộng Hà Nhung,
Chàng bịn thiếp mót đổ chung một gùi
Chẳng qua dun nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi
Chim kêu dưới suối Từ Bi
Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi
Khơng riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ơm lịng nhớ thời
oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành
mai danh ẩn tích. Đơ đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi
theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ khơng phải
phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã
hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai
ơng đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây

ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang
linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những
cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe
núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định
trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong
buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn
vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian.
Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ
(tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng
khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu
nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề,
Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn
hàng trăm mơn đồ của mình đầu qn dưới cờ Mai Xn Thưởng. Hiện tượng một
Đỗ Thị Kim Anh

11


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

lị võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy khơng phải là hiếm
ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú
Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng
Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương...
Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc cịn lưu danh tiếng có thể
kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ...
Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý
cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân.

2.1.2.4. Thời kì cận - hiện đại
Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dịng võ
lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến
các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở
An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh.
Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định khơng ngừng
được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn
Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp
Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn
gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là
Hồ Khiêm với đường roi Lạc cơn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người
bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều
đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia.
Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban
cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề
và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Cơng Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba
Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đồn Phong, Mười Kinh,
Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ
thứ hai này khơng thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát
(Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về
lại An Thái.
Đỗ Thị Kim Anh

12


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam


Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng,
Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu
Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư
Trốn, Hồ Tiền,...
Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ,
Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng,
Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi
Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý
Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn
Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường
Hận,... và miền đất võ vẫn cịn là bệ phóng của mn vàn người lớp sau.
Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trơi qua, giới võ học Bình Định đã lần
lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng
son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài
nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình
Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám
rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong
nó trùng trùng huyền thoại.
2.2. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ khơng gian văn hóa
2.2.1. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tây Sơn-Bình Định
dsnjsmknk
2.2.2. Võ cổ truyền Bình Định ở thị xã An Nhơn-Bình Định
cmjsncmsn
2.2.3. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tuy Phước-Bình Định
Dc njsdncjn

Đỗ Thị Kim Anh

13



Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH
3.1. Sự đa dạng
Đa dạng về những dịng võ ngay trên đất Bình Định và đa dạng về sự khác
biệt trong kỹ thuật giữa các hệ phái mang tên Bình Định hoặc Tây Sơn trên tồn
quốc.
Tuy nhiên, sự đa dạng đó lại đặt trên cơ sở một số đặc điểm chung hầu hết các
dòng võ ở Bình Định đều có. Chẳng hạn như một số bài bản được mặc nhiên coi là
võ Bình Định như Ngọc trản ngân đài, Siêu Bát Quái, Roi Tấn Nhất, Roi Ngũ
Mơn. Mặc dù đây chính là các bài bản của Võ Ta hay cịn gọi là Võ Kinh, một
mơn võ của Đàng Trong và từng được dùng cho huấn luyện trong quân đội và thi
võ cử trong thời nhà Nguyễn.
Các câu vè có liên quan đến yếu quyết của võ thuật được lưu truyền ở Bình
Định cũng là những câu vè của Võ Ta. Ví dụ: "Roi liên quyền tiếp" (Xem Đấu
Roi), "Song thủ Ngũ Hành vi bản. Lưỡng túc Bát Quái vi căn"… Một câu vè khác
nói lên sự thống nhất và liên đới giữa hai môn (Võ Kinh và võ thuật Bình Định) là
"Roi Kinh quyền Bình Định". Những kỹ thuật này khơng chỉ có riêng ở Võ Kinh
và võ thuật Bình Định. Nó cịn tồn tại ở các dòng võ ở các miền khác, chẳng hạn
võ Tân Khánh Bà Trà (Bình Dương), Bảo Y Võ Việt (Bến Tre).
Ngoài những kỹ thuật được coi là võ Ta nói trên, mỗi dịng võ đều chứa
những đặc điểm riêng của mình. Đặc biệt nhất là những kỹ thuật thừa hưởng của
nhà Tây Sơn. Ví dụ: Bài Hùng Kê quyền vốn được coi là của Nguyễn Lữ, bài
quyền Yến Phi (thảo pháp Én bay) vốn được coi là của Nguyễn Huệ, các kỹ thuật
về trống trận Tây Sơn… Mặc dù những kỹ thuật này không phổ biến bằng các kỹ
thuật của Võ Ta, nhưng đây là điểm đặc sắc của riêng vùng đất Bình Định mà các
vùng khác khơng hề có.

Đặc biệt, trong thời gian gần đây có sự xuất hiện ra cơng chúng dịng võ chùa
Long Phước. Theo trang web của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam thì nhà
sư Vạn Thanh (tên thật là Nguyễn Đơng Hải) vốn là truyền nhân đời thứ 13 của
môn phái Long Hổ Khơng Hồng. Cũng theo trang web nói trên, kỹ thuật của môn
Đỗ Thị Kim Anh

14


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

võ này bao gồm trong "Phổ Đại Nam triều chi tướng thao" do tướng Tây Sơn
Nguyễn Trung Như (Hư Linh Ẩn) truyền lại. Tập sách này gồm 2 bộ:
"Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp" do Hư Minh, tổ của
môn phái Long Hổ Không Hồng ghi lại các bài bản từ thời nhà Lê trở về trước.
"Tây Sơn danh tướng mộ hùng thao" do Nguyễn Trung Như ghi lại các bài
bản võ thuật của thời Tây Sơn.
Mức độ trung thực về mặt lịch sử của các tài liệu này rất cần được sự quan
tâm nghiên cứu công phu của các nhà sử học.
Vì có sự tương đồng về mặt văn hố giữa Việt Nam và Trung Quốc, có một
số dịng võ hoặc hệ phái tuyên bố có nguồn gốc từ Trung Quốc cũng lấy danh xưng
Võ Bình Định. Chẳng hạn dịng Bình Định An Thái của võ sư Diệp Trường Phát.
Việc cơng nhận hay cơng nhận danh xưng "Võ Bình Định" của các hệ phái này
một thời từng là một đề tài tranh luận khá sơi nổi trong giới võ.
Ngồi ra, ở vùng đất này cũng đã và đang có sự phổ biến của nhiều môn võ
hiện đại trong và ngồi nước khác nhau. Đất Bình Định cũng đã từng rất nổi tiếng
trong "làng đấm" (quyền Anh). Tuy nhiên, vì có sự rạch rịi trong ngơn ngữ sử
dụng lẫn trong sự phân chia môn phái võ thuật hoặc bộ môn thể thao thi đấu nên

chưa bao giờ các môn võ này được gọi với danh xưng "Võ Bình Định".
3.2. Nội dung võ cổ truyền
Về nội dung, võ cổ truyền Bình Định vơ cùng phong phú, đa dạng nhưng tựu
trung có 4 nội dung cơ bản là: luyện công, quyền thuật, võ với binh khí, luyện tinh
thần. Quyền cịn gọi là thảo bộ hay quyền tay không, bao gồm Cương quyền và
Nhu quyền. Võ tay khơng chia thành 4 nhóm: Võ thể dục, võ tự vệ, võ tỷ thí và võ
chiến đấu. Binh khí được dùng trong võ cổ truyền Bình Định bao gồm binh khí dài
và binh khí ngắn. Loại binh khí rất cơ bản được lưu hành khá phổ biến ở Bình
Định là cơn (tiếng địa phương gọi là roi) với nhiều “phách roi” độc đáo chỉ có ở võ
cổ truyền Bình Định: “Đâm so đũa”, “Đá văn roi”, “Phá vây”, “Roi đánh
nghịch”… Nói về tận dụng vũ khí thơ sơ chống giặc, Bình Định có “Bài kiếm 12”
nổi tiếng gồm 12 động tác được rút tỉa trong nhiều bài kiếm tiêu biểu của Bình
Định để hình thành một cách ngắn gọn, dễ tập, dễ nhớ, được đưa vào luyện tập và
Đỗ Thị Kim Anh

15


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

thực hành chiến đấu đạt hiệu quả cao trong các lực lượng vũ trang và bán vũ trang
ở địa phương.
3.3. Võ đạo
Về võ đạo, còn gọi là cái đạo của người học võ. Ngồi những đức tính mà con
người đề cao trong rèn luyện đạo đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, võ đạo còn thể
hiện ở các mặt truyền thống: thượng võ, chống ngoại xâm; uống nước nhớ nguồn;
trọng nhân nghĩa….
3.3.1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm

Mỗi con người chúng ta đều gắn liền với quê hương, xứ sở, luôn tự hào về
truyền thống tốt đẹp của quê hương, xứ sở mình, và đều mang trong mình dịng
máu của cha ơng, của dân tộc.
Mỗi khi đất nước có họa ngoại xâm, thì mọi người già trẻ trai gái đều hăng
hái tập luyện võ nghệ, sử dụng các loại binh khí, các miếng võ bí truyền và ai có
súng dùng súng, ai khơng có súng thì gươm, giáo, mác, gậy, gộc, đồng lòng chung
sức nhất tề đánh đuổi quân thù và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh đến hơi thở cuối
cùng, nhưng khi quân thù bại trận thì dân ta rất mực khoan hồng, độ lượng, hành
sự đúng mực trượng phu.
Truyền thống đó được hun đúc qua 4000 năm lịch sử đấu tranh oanh liệt,
chống ngoại xâm, chống bất công, áp bức, cường quyền, cùng nhau chung lưng
đấu cật, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết xây dựng cuộc sống và bảo tồn giống nịi Lạc
Việt.
Từ đó, cho dù ở phương trời nào, chúng ta cũng nhớ về cội nguồn, tổ tiên,
luôn tự hào về các bậc tiền nhân đã dày công dựng nước, giữ nước, đánh đuổi quân
thù, thu phục giang sơn về một mối, trong đó có các võ quan, võ tướng, các võ sư,
võ sĩ đã không tiếc máu xương vun đắp nên truyền thống võ hào hùng của dân tộc
Việt Nam mãi mãi trường tồn.
3.3.2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn
Dân tộc ta có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng
cây”. Nhắc lại chuyện xưa: khi Nguyển Ánh lên ngơi, đã hủy diệt tồn bộ thành
Đỗ Thị Kim Anh

16


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam


quả của nhà Tây Sơn, trong đó có sự nghiệp võ học lẫy lừng của nhà Tây Sơn,
nhưng người dân Bình Định, nhất là các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhân sĩ,
trí thức, các võ sư, võ sĩ, đã một lịng một dạ trung thành với những di sản và tinh
hoa võ học chân truyền của nhà Tây Sơn, vẫn tôn thờ vị hoàng đế Quang Trung.
Nhiều người khi được dụ hàng để được hưởng ân sủng, chức tước, bổng lộc của
nhà Nguyễn, đều từ chối và quyết tâm chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng,
lưu lại tiếng thơm cho muôn đời sau.
Nhiều nhà thi đỗ tiến sĩ, cử nhân võ nhưng không ra làm quan mà vẫn trung
thành với “chủ cũ” đã tìm mọi cách để tập hợp tư liệu, biên soạn lại sách, giáo
trình, các bài thiệu, các bài thuốc võ, bí mật truyền bá, lưu truyền cho các thế hệ
mai sau, khỏi mất gốc, nhờ vậy, mà võ cổ truyền Bình Định khơng bị mai một, bế
tắc mà còn ăn sâu bén rễ và trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu được trong
đời sống văn hóa của nhân dân Bình Định.
Người Bình Định, từ người có võ cơng cao cường, đến người hiểu biết võ
nghệ chút ít đều ln một lịng tơn kính giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dịng võ cổ truyền Bình Định, ra sức truyền bá và bảo tồn võ đạo, võ lý, võ y,
võ thuật, võ nhạc và những tinh hoa độc đáo của tổ tiên, tiếp tục truyền lại cho các
thế hệ mai sau.
3.3.3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa
Đây là truyền thống cực kỳ quý báu đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt
Nam, trong đó có người dân “đất võ”. Trong lĩnh vực võ học, người học võ trước
tiên phải là người có bản lĩnh, ln lấy tâm đạo để chế ngự tà đạo, phải có cốt cách
diện mạo của con nhà võ. “Tâm đạo” là nói đến tu luyện tư duy đạo đức làm
người, sống phải cao thượng, trung với nước, hiếu với dân. Trung thực với môn
phái, truyền dạy những điều hay, việc nghĩa. Một võ sĩ chân chính là một cơng dân
tốt. Cịn “Tà đạo” là sự đam mê tửu sắc, dâm ô trụy lạc, rượu chè say sưa, gây lộn
đánh người, phá rối xã hội, bất chấp kỷ cương phép nước. Đây là những điều cấm
kỵ đối với mơn sinh học võ cổ truyền Bình Định. Ngồi ra, người võ sĩ đạo cịn
phải được truyền thụ thuần thục về tâm pháp và thực hiện nghiêm túc những điều
cần làm và cấm làm:

Đỗ Thị Kim Anh

17


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

– Phải giữ gìn bản thân ln trong sáng, thuần khiết.
– Phải chun cần tập luyện võ công suốt đời và trung thành với môn phái.
– Phải phát huy và truyền dạy võ cơng của mơn phái theo “chính đạo”.
– Khơng phản thầy, hại bạn, hà hiếp người khác.
– Khơng khoe mình, chê người.
– Khơng có tư tưởng thắng thì làm “vua”, thua thì làm “giặc”.
Khi thâu nhận võ sinh, người thầy bao giờ cũng chú trọng tướng diện, cử chỉ,
lời nói, cung cách xử sự, nhân thân, lai lịch của người học trị để truyền dạy hay từ
chối khơng truyền dạy, hoặc chỉ truyền dạy một ít thảo thức thơng thường (ngay cả
người thân trong dòng họ cũng vậy). Sau khi được thử thách để tuyển chọn, môn
sinh phải lễ cúng tổ và được thử thách về sức chịu đựng, sự kiên trì, gan dạ, về đạo
đức, tư cách, về sự trung thành với môn phái, tuân thủ môn quy, đặc biệt là sự tôn
sư trọng đạo. Lễ cúng tổ được tổ chức trang nghiêm và theo nghi thức võ cổ truyền
Bình Định, người thầy đứng lên đọc văn tế ông Tổ nghề võ. Sau khi cúng Tổ, đệ tử
làm lễ khởi động tay chân…
Người xưa thường nói: “Đệ tử tầm Sư dị, Sư tầm đệ tử nan” – người muốn
học võ, nghe thầy giỏi tìm đến khơng khó; thầy muốn truyền dạy võ thuật cho đệ
tử không phải dễ, bởi lẽ thầy phải “chọn mặt gửi vàng”, phải chọn người có đạo
đức trong sáng, hành động đúng mực trượng phu.
Mỗi bài tập đều có phần “lễ Tổ” và “bái Tổ”. Bái Tổ chính là thể hiện sự tơn
kính tổ tiên, mơn phái, kính thầy, u q đồng mơn. Những người giỏi võ cuộc

sống thường rất bình dị, tài võ nghệ chỉ tiềm ẩn bên trong con người giàu lòng vị
tha, khiêm tốn, ít khi lộ diện ra bên ngồi. Ngồi ra, họ cịn có các đức tính như:
Tín-Nghĩa-Hiệp-Dũng, đây chính là tinh thần và mục đích của người võ sĩ đạo
chân chính. Chữ “Tín” ở đây muốn nói lên từ cái tâm của con nhà võ, lời nói phải
đi đơi với hành động, không đem võ ra “bán” theo dạng võ Sơn Đông. Không hại
người, không ỷ mạnh hiếp yếu, luôn bảo tồn võ đạo, uy tín mơn đồ, mọi việc đều
xử sự một cách trong sáng, chính nghĩa, khơng làm điều phi nghĩa, thất nhân, thất
đức – đó là “nghĩa”. Cịn “hiệp”, “dũng” là những đức tính khơng thể thiếu được
Đỗ Thị Kim Anh

18


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

của con nhà võ, luôn sẵn sàng diệt gian, trừ ác, thấy sự bất bình khơng khoanh tay
đứng nhìn.
Nói tóm lại, võ đạo chính là đạo đức trong sáng, đức tính cao cả, tâm hồn hỷ
xả của con người có võ, người có võ mà thiếu đạo đức thì sẽ trở thành một tai họa
không thể lường hết được và sự nguy hại khơng những cho bản thân, gia đình mà
cho cả xã hội nữa.
3.4. Võ lý
Về võ lý, võ cổ truyền Bình Định vận dụng triệt để học thuyết âm – dương,
lấy phép ngũ hành và phép bát quái làm nguyên lý cơ bản của “Song thủ ngũ hành
vi bản”, “Lưỡng túc bát bộ vi căn” là cơ sở võ lý cho luyện tập bộ tay và bộ chân
trong võ cổ truyền Bình Định: Tấn pháp trong bát quái và Thủ pháp trong Ngũ
hành, có sự phối hợp cả hai phương diện ngoại cơng và nội cơng.
3.5. Về khía cạnh võ thuật

Võ Bình Định thể hiện rõ tính liên hồn, tinh tế, uyên thâm, kết hợp nhuần
nhuyễn giữa cương và nhu, giữa công và thủ, giữa mạnh và yếu, giữa bên trong
(tinh, khí, thần) với bên ngồi cơ thể (thủ, nhãn, chỉ và thân). Về võ lý, võ cổ
truyền Bình Định vận dụng triệt để học thuyết âm - dương, lấy phép ngũ hành và
phép bát quái làm nguyên lý cơ bản của "Song thủ ngũ hành vi bản", "Lưỡng túc
bát bộ vi căn" là cơ sở võ lý cho luyện tập bộ tay và bộ chân trong Võ Bình Định:
Tấn pháp trong Bát quái và Thủ pháp trong Ngũ hành, có sự phối hợp cả hai
phương diện ngoại công và nội công.

Đỗ Thị Kim Anh

19


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

PHẦN KẾT LUẬN

Đỗ Thị Kim Anh

20


Bài tiểu luận

Cơ sở văn hóa Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO


Đỗ Thị Kim Anh

21



×