Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh quan điểm hồ chí minh về nhà nước của dân,do dân,vì dân và sự vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.3 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,DO DÂN,VÌ
DÂN VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY.


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DO
DÂN, CỦA DÂN, VÌ DÂN..............................................................................2
1.1: Khái niệm...................................................................................................2
1.2: Cơ sở (nguồn gốc) hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân............................................................................................4
1.3: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân,vì dân...........7
1.4: Giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của
dân, do dân, vì dân..........................................................................................11
CHƯƠNG 2 SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HIỆN NAY.....................................................................................................15
2.1: Thực trạng cơng cuộc xây dựng và hồn thiện........................................15
2.2: Những quan điểm và phương hướng xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân.............................................................19
KẾT LUẬN....................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24


A. MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI


Sự bùng phát của dại dịch Covid trên phạm vi toàn thế giới trong
thời gian nửa đầu năm 2020 đã khiến nền kinh tế toàn cầu bị thiệt hại nghiêm
trọng. Mặc dù Việt Nam được đánh giá rất tốt trong cơng tác phịng chống,
chống dịch với phương châm “chống dịch như chống giặc”, nhưng cũng
khơng nằm ngối danh sách các nước bị ảnh hưởng bởi Covid 19. Các hoạt
động thương mại, dịch vụ , …. giảm mạnh so với cùng kì năm trước. Hàng
loạt những doanh nghiệp, công ty, … phải tạm ngừng hoạt động, đóng cửa.
Đời sống người dân bị đảo lộn vì thất nghiệp, khơng có thu nhập giữa mùa
dịch. Lắng nghe những nguyện vọng , ý kiến của nhân dân, Đảng và Nhà
nước ta đã triển khai một số chính sách phù hợp: Hỗ trợ người khơng có trợ
cấp thất nghiệp 1 triệu/tháng, giãn nợ, giảm nợ đối với các doanh nghiệp, hỗ
trợ hồn tồn tiền viện phí với các bệnh nhân nhiễm Covid -19 …..Trong
cuộc chiến chống lại Covid-19 với tinh thần “ khơng ai bị bỏ lại phía sau ”,
càng làm sáng rõ hơn tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta đó là: “ Nhà nước
của dân,do dân,vì dân”. Lý tưởng này cũng chính là điều mà chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn là của
dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Từ tình hình trên, nhận thấy việc nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí
Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là hết sức cần thiết để phát triển và
xây dựng đất nước. Tư tưởng của Người đã đưa sự nghiệp cách mạng của dân
tộc vượt mn trùng khó khăn để đi tới thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử vĩ
đại, là kim chỉ nang cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta.Và tư tưởng
của Người về Nhà nước của dân, do dân, vì dân là tư tưởng xuyên suốt trong
quá trình lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, đã được minh chứng và kiểm nghiệm
trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chính quyền nhà nước
dân chủ nhân dân.
Chính vì lí do đó, đề tài: “Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước
dân, do dân, vì dân” đã được chọn làm đề tài nghiên cứu.

1



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DO DÂN,
CỦA DÂN, VÌ DÂN.
1.1: Khái niệm
1.1.1: Nhà nước của dân.
“Nhà nước của dân” là quan điểm cơ bản, nhất quán của Hồ Chí Minh
về nhà nước kiểu mới của nhà nước ta. Đó là nhà nước mà nhân dân là chủ,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, dân có địa vị cao nhất, có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần
khẳng định tư tưởng của mình: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”. Trong điều I và Điều 32 Hiến Pháp 1946 cũng đã khẳng
định tư tưởng về nhà nước của dân
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh
trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Như vậy nhà nước của dân là xác định vị thế của dân - dân là chủ và
nghĩa vụ của dân - dân làm chủ. Nhân dân bầu mình ra là để làm việc cho dân
chứ không phải để cậy thế với dân, vác mặt làm quan cách mạng, đè đầu cưỡi
cổ dân. Giá trị lớn nhất từ thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là từ đây quyền
lực nhà nước của toàn dân chứ khơng phải trong tay số ít người quyền lực.
Trong Nhà nước của dân, với ý nghĩa đó, người dân được hưởng mọi
quyền dân chủ. Bằng thiết chế dân chủ, nhà nước phải có trách nhiệm bảo
đảm quyền làm chủ của dân, để cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt
ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế, nhắc nhở những người lãnh
đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình,
khơng phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân,

2


“quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là
một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hồ do Hồ Chí Minh khai sing ngày 2 – 9 – 1945
chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năn của dân
tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của dân, nhân dân có vai trị
quyết định mọi cơng việc của đất nước.
1.1.2: Nhà nước do dân.
Nhà nước do dân là nhà nước do nhân dân làm chủ nhà nước, là lực
lượng xây dựng, giữ gìn hồn thiện nhà nước, quy định sức mạnh của nhà
nước quyền làm chủ nhà nước được thể hiện trên những điểm sau:
Dân phát huy quyền làm chủ thông qua tổng tuyển cử, phổ thơng, trực
tiếp, bỏ phiếu kín để bầu ra những đại biểu mà dân cho là xứng đáng để đại
diện vào cơ quan nhà nước. Những điều này còn được nhà nước ta quy định là
“Quyền bầu cử” của nhân dân. Thuật ngữ bầu cử ở Việt Nam có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó với tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Nhà nước do dân”. Dân
hồn tồn có quyền quyết định, bầu cử những người làm việc vì lợi ích của
dân, do dân, vì dân để vào Quốc hội (ở Trung ương) hoặc Hội đồng nhân dân
các cấp (ở địa phương). Và đồng thời, dân cũng có quyền kiến nghị, bãi miễn
đại biểu. cơ quan nhà nước khơng xứng đáng với kì vọng của dân, làm mọi
việc trái ý dân. . Điều 6 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 khẳng định: "Nhân
dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân
là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".
Dân có thể tham gia kiếm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước, tham
gia quản lý nhà nước. Mọi hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước diễn ra trên mọi mặt của xã hội, tác động phần lớn tới cuộc sống của
dân. Do đó hoạt độnng kiểm tra, giám sát cơ quan hành chính nhà nước là một

phần thiết yếu, quan trọng khơng chỉ từ phía những người lãnh đạo, quyền lực
mà cịn phải từ phía Nhân dân để đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc
3


về Nhân dân. Thơng qua q trình này, nếu có những sai sót, khuyết điểm hay
cần sự cải thiện, dân đóng góp ý kiến xây dựng cán bộ, cơng chức và chính
sách pháp luật nhà nước
Nhân dân phải có nghĩa vụ đóng góp đối với nhà nước, đặc biệt là
Thuế để nhà nước hoạt động.
1.1.3: Nhà nước vì dân.
Là nhà nước do nhân dân làm chủ, do đó mọi hoạt động của nhà nước
đều mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Khơng có đặc quyền, đặc lợi,
thực sự trong sạch, cần kiệm, liêm chính,… Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho
dân: việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân
dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước.” Hồ Chí Minh ln ln
tâm niệm: “Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho
dân có chỗ ở phải làm cho dân được học hành.”
Nhà nước vì dân thì mọi chính sách, chủ trương của Nhà nước đều phải
xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Nhà nước vì
dân thì từ Chủ tịch nước đến Bộ trưởng, Thứ trưởng và cán bộ công chức đều
là đầy tớ trung thành của nhân dân tức là phục vụ nhân dân một cách tốt nhất.
Nhà nước vì dân thì phải ln ln giữ cho bộ máy trong sạch, khơng
có bất kỳ đặc quyền, đặc lợi nào: phải chống mọi tiêu cực trong bộ máy nhà
nước như tham ô, lãng phí, quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, vơ cảm,
đùn đẩy trách nhiệm trước khó khăn của dân.
1.2: Cơ sở (nguồn gốc) hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người yêu nước, thương dân nồng

nàn tha thiết. Người đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng niềm tin mãnh liệt:
“Bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất
là chủ nghĩa Lê-nin” và con đường duy nhất mang lại độc lập cho dân tộc, tự
do cho đồng bào là con đường cách mạng vô sản, dùng bạo lực cách mạng để
4


giành chính quyền về tay nhân dân. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng như V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: “Cùng với việc tổ chức xây dựng
Đảng cách mạng thì trong cuộc đấu tranh này, trước hết phải có Đảng cách
mệnh” , “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng” . Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xây dựng nền tảng tư tưởng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương
pháp cách mạng. Trong đó tư tưởng của Người về vấn đề chính quyền nhà
nước hình thành khá sớm và rõ nét. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong xây
dựng nhà nước kiểu mới, trước hết bắt nguồn từ đường lối cách mạng của
Đảng. Một mặt, Người khẳng định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước,
mặt khác Người cũng khẳng định sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng
nhân, tính chất nhân dân và dân tộc của nhà nước pháp quyền vì nó là đại diện
cho toàn thể nhân dân và toàn dân tộc. Bên cạnh đó, q trình hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với những nhận thức, tìm kiếm, lựa chọn một
hình thức, chế độ nhà nước thích hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển
theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội.
Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu
nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý luận cách mạng
tiên tiến nhất của thời đại. Được soi sáng bởi phương pháp luận biện chứng
mácxít, thơng qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phát hiện vị trí lịch sử
của các chế độ nhà nước đang vận hành, trên cơ sở phân tích, so sánh và đặt
chúng trong dòng chảy liền mạch của tiến bộ lịch sử. Trong q trình khảo
cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời: Nhà nước
dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội

chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười 1917.
Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở
Pháp, mặc dầu đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân
chủ và nhân đạo, nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của một số
người, vì lợi ích của thiểu số; đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc lột, nơ dịch cả
ở chính quốc lẫn ở các nước thuộc địa. Tính chất phiến diện nửa vời, khơng
5


triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ
những đối kháng khơng thể điều hịa và chắc chắn sẽ là ngun nhân làm
bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai. Cái gọi là “thiên đường
của dân chủ, tự do”, lý tưởng bình đẳng, bác ái chỉ cịn là những ngơn từ sáo
rỗng, khơng có nội dung xã hội xác thực. Vì vậy, mục đích giải phóng và phát
triển của xã hội Việt Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó.
Những nhận xét và khảo nghiệm của Hồ Chí Minh về nhà nước tư sản mang
tính cách mạng, khoa học, có ý nghĩa phương pháp luận to lớn và ngày nay
vẫn giữ nguyên giá trị.
Đối lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xôviết còn non trẻ, nhưng đã
bộc lộ sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần
chúng cơng - nơng - binh, thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là loại hình nhà
nước của chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi theo. Như vậy,
bằng những khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo,
vào những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con
đường Cách mạng Tháng Mười, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin.
Câu hỏi về con đường xóa bỏ nhà nước thực dân phong kiến và lấy gì để thay
thế đã tìm được lời giải xác đáng. Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận
động của lịch sử, Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính. Đó là tính chất nhân
dân và khả năng của nhà nước trong việc bảo đảm cuộc sống tự do, ấm no,
hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần thế” của nhân dân và con người. Ở Hồ

Chí Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục tiêu giải
phóng con người và phát triển xã hội.
Tính chất sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh
nghiệm Xơ viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Về
mục đích, ngun tắc, Người trung thành với “mơ hình Xơviết”, nhưng lại có
bước đi, cách làm độc lập, khơng giáo điều, rập khn. Có thể nói, Hồ Chí
Minh chỉ lĩnh hội cái “tinh thần Xơviết” để định hình “mơ hình Nhà nước
Việt Nam”. Chính vì thế, năm 1941, khi về nước, trong quá trình xây dựng
6


căn cứ địa cách mạng, Hồ Chí Minh khơng chủ trương xây dựng các Xôviết
đã từng xuất hiện trong phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) mà thành
lập Ủy ban Việt minh, Ủy ban giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng
tỉnh, liên tỉnh. Giữa năm 1945, khu giải phóng Việt Bắc đã hình thành chính
quyền hồn chỉnh. Đồng bào tồn khu được hít thở khơng khí tự do, tự tổ
chức đời sống của mình, từ sản xuất, đánh giặc, quản lý mọi mặt đời sống xã
hội đến bảo vệ chính quyền. Bằng cơng tác thực tiễn chu đáo, thiết thực, các
ủy ban nhân dân, chính quyền kiểu mới cắm rễ trong lịng quần chúng, tạo
nên uy tín và sức mạnh. Chính phủ lâm thời (Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam) do Đại hội quốc dân Tân Trào bầu ra (16-8-1945) và Nhà nước hình
thành theo quy định của Hiến pháp 1946 đều tiếp tục truyền thống này, thực
sự là một nhà nước dân chủ nhân dân.
1.3: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân,vì
dân.
1.3.1: Nhà nước của dân.
Dân chủ là khát vọng mn đời của con người. Hồ Chí Minh quan
niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây
là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn, gọn, đi thẳng vào bản chất của
khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí

Minh cịn cho rằng: “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân
làm chủ”, “chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”, “Nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.
Việc xây dựng nhà nước do nhân dân làm chủ là tư tưởng nhất quán
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và đây cũng là kết luận
mà người đã rút ra trong cuộc khảo sát cách mạng Mĩ, Pháp, Nga . Nhà nước
Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc trong đó có cơng, nơng,
và trí thức là gốc và tất cả mọi người dân Việt Nam không phân biệt gái, trai,
giàu, nghèo, nịi giống, dân tộc, tơn giáo đều là người chủ của Nhà
nước.Chính vì vậy Nhà nước của nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là
7


việc xác lập tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và xã hội đều thuộc về nhân
dân.Người khẳng định nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân và quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.Điều ấy được thể hiện rất
rõ trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa năm
1946 : Tính chất dân chủ nhân dân là một đặc trưng nổi bật của chính quyền
nhà nước kiểu mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Trong nước ta nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực còn các cơ
quan do nhân dân tổ chức ra nhân viên,Nhà nước là người được ủy quyền
thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân và trở thành công bộc của nhân
dân.Trong tác phẩm Thường thức chính trị của Hồ Chí Minh đã nói rất rõ : “
Ở nước ta chính quyền là của nhân dân,do nhân dân làm chủ...Nhân dân là
ơng chủ nắm chính quyền.Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy.Thế là dân chủ”.
Tổng tuyển cử là dịp cho mọi toàn thể quốc dân chọn ra người có
tài,có đức để gánh vác cơng việc nước nhà.Chính vì vậy việc bầu cử ra Quốc
hội,Quốc hội lại cử ra Chính phủ,Chính phủ đó lại lại thực sự là Chính phủ
của tồn thể nhân dân và việc thơng qua bầu bầu Quốc hội ,Chính phủ nhân

dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại
diện.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh quyền lực tối cao không chỉ việc bầu Quốc
hội,Hội đồng Nhân dân các cấp mà còn ở quyền bãi miễn,giám sát,kiểm soát
các đại biểu.Cơ chế dân chủ này làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được
phẩm chất, năng lực hoạt động và Hồ Chí Minh đã khẳng định : “ Nếu Chính
phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” hay “ Nhân dân có quyền
bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu
ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
1.3.2: Nhà nước do dân.
Nhà nước phải do dân lựa chọn ,bầu ra đại biểu của mình.Nhà nước do
dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế đề nhà nước chi tiêu, hoạt động, vận hành bộ
máy phục vụ nhân dân. Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ.
8


Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người
cách mạng là phải làm cho dân hiểu, cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà
nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi
người đều phải có 87 trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi,
quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Với vai trò là chủ nước nhà thực hiện sự ủy quyền của nhân dân,các
đại biểu bầu ra phải có trách nhiệm gần gũi sâu sắc để hiểu dân,lắng nghe ý
kiến của nhân dân với tinh thần trách nhiệm để giải quyết những vấn đề thiết
thực trong xã hội.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh : “ Nhà nước do nhân dân
lập nên, do nhân dân ủng hộ, do nhân dân làm chủ” điều đó thể hiện rất rõ
quan điểm Nhà nước do dân.Để thể hiện nhân dân lao động làm chủ nhà nước
thì đại biểu do dân bầu ra phải có mối quan hệ thường xuyên với nhân dân
nếu thốt li mối quan hệ này thì Nhà nước rất dễ rơi vào quan liêu, trì trệ
đứng trên đầu nhân dân trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có của Nhà

nước kiểu mới.
Hồ Chí Minh đã khẳng định : “ Toàn dân bầu ra Quốc hội – cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp.Trong
tư tưởng của người nhà nước do dân làm chủ còn bao hàm nội dung quan
trọng đó là nhân dân có quyền kiểm sốt nhà nước.Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh : “ Dân dùng đầy tớ làm việc cho mình thì phải giúp đỡ Chính phủ.Nếu
Chính phủ sai thì phải phê bình,phê bình chứ khơng phải chửi”.Người đã
khẳng định rất rõ là người làm chủ nhà nước nhân dân có quyền thơng qua cơ
chế dân chủ dựng sinh quyền lực nhưng đồng thời nhân dân cũng phải có
nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nước làm cho Nhà nước ngày càng hoàn
thiện trong sạch,vững mạnh.Để làm được điều đó nhân dân phải tăng cường
học thức,tăng cường vai trị làm chủ của mình.
Nhà nước do dân thể hiện sự thống nhất biện chứng của quyền lợi và
nghĩa vụ, thể hiện triệt để bản chất dân chủ của nhà nước kiểu mới. Hồ Chí
9


Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách
nhiệm "ghé vai gánh vác một phần". Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi
đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
1.3.3: Nhà nước vì dân.
Nhà nước lấy lợi ích chung, lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục
tiêu, tất cả vì lợi ích của nhân dân là quan trọng nhất, ngồi ra khơng có bất kì
lợi ích nào khác. Qua đó Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân
thì chúng ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh.”
Người thường xuyên căn dặn mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm mang
lại quyền lợi cho nhân dân. Phải chú ý giải quyết các vấn đề dẫu khó khăn đến
đâu cũng khơng nản những vấn đề quan hệ tới đời sống của nhân dân, phải
thực hiện cho dân chăm lo cứu tế nạn đói cho đan chu đáo, trừ nạn mù chữ
cho dân để nâng cao đời sống vật chất cho dân. Người đã khẳng định: “Từ

Chủ tịch nước đến cơng chức bình thường đều phải làm cơng bộc, làm đầy tớ
cho nhân dân.”
Theo Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá chị
của tự do,của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”. Nhà nước vì dân là nhà
nước phục vụ cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, khơng có đặc quyền,
đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính.
Là nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, do đó mọi hoạt động của
Nhà nước đều mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Khơng có đặc
quyền,đặc lợi,thực sự trong sạch,cần kiệm,liêm chính.
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân
dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người
cách mạng là phải làm cho dân hiểu, cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng nhà
nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi
10


người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi,
quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Mọi hoạt động của
chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con
người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm
thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
1.4: Giá trị lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam ngày càng
được củng cố và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật
sự là công cụ quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện
vọng của tồn dân tộc. Trong xây dựng và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh

đã tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất,
có phân cơng, phân nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Căn cứ vào các nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ, Người đã chỉ đạo tổ chức bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, thích
hợp, đủ năng lực và trí tuệ quản lý đất nước.
Hồ Chí Minh ln ln căn dặn cán bộ chính quyền, đồn thể phải tin ở
dân, vì khả năng của dân là to lớn, là vơ tận. Trong tồn bộ hoạt động của
mình với cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh ln ln
khẳng định tư tưởng nước lấy dân làm gốc, lợi ích của nhân dân là trước hết
và trên hết, nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể là phụng sự nhân dân.
Xây dựng một xã hội dân chủ trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có
cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối
với nhân dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có
nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định tổ
chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng. Đảng ta xác định Nhà nước
bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân, thể chế hóa bằng Hiến pháp và
11


pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống. Bảo đảm cho mọi người
bình đẳng trước pháp luật, xử phạt nghiêm minh mọi hành động vi phạm pháp
luật. Đó là yêu cầu xây dựng nhà nước của dân do dân. vì dân theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Mặt khác, kết hợp mở rộng dân chủ đi đôi với pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cũng xác định dứt khốt, rõ ràng bản chất giai cấp cơng
nhân của nhà nước đó. Chúng ta gọi Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân,
vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng có nghĩa là “nhà nước tồn dân”,
nhà nước phi giai cấp. Từ nhận thức chung: “Tính chất của một nhà nước là:

trong nhà nước ấy giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị thống trị. Nhà nước
đó bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào”, Hồ Chí Minh cho
rằng: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội
dung giai cấp của chính quyền”. Người khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà
nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”. Quan điểm này được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần,
cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật và là phương châm chỉ đạo tổ chức,
xây dựng chính quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân quy định bản chất và nội dung giai cấp, đặt ra mục
đích, định hướng hoạt động của Nhà nước ta. Điều này chứng tỏ bản lĩnh và
tinh thần mácxít triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân.
Trong khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta, Hồ
Chí Minh đã khéo xử lý, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc thành một thể
thống nhất. Nhà nước dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo hệ
tư tưởng Mác - Lênin là nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân. Mặt
khác, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam là một nhà nước thống nhất, của
khối đại đoàn kết dân tộc. Cơ sở xã hội của Nhà nước ta khơng bó hẹp trong
phạm vi một giai cấp, tầng lớp, mà là toàn thể dân tộc, cơ sở đó khơng hề thay
đổi trong quá trình vận động đi lên của cách mạng. Quan điểm này phù hợp
12


với truyền thống xây dựng tổ chức nhà nước trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí
Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp
– dân tộc trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới. Sau khi đến Liên Xơ,
Người đã tìm thấy mơ hình nhà nước kiểu mới: “… phát ruộng cho dân cày,
giao công xưởng cho thợ thuyền, … ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành
chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ
được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra trong Chánh

cương vắn tắt của Đảng năm 1930.
Thực tiễn ta có thể thấy rõ sức ảnh hưởng của phong trào Xô viết
Nghệ-Tĩnh. Phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh là một sự kiện lịch sử trọng đại
trong lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những người
cách mạng đã lập ra chính quyền Xơ viết – chính quyền Xơ viết đầu tiên ở
Việt Nam (chính quyền cách mạng sơ khai do giai cấp cơng nhân lãnh đạo).
Chính quyền mới đã ban hành nhiều chính sách mới về chính trị, kinh
tế, văn hóa. Về chính trị nhân dân được quyền tự do hội họp, thảo luận và
hoạt động trong các tổ chức đồn thể như Nơng hội, Cơng hội, Đồn thanh
niên cộng sản…Về kinh tế nhân dân được chia ruộng, bãi bỏ các thứ thuế vô
lý, bất công, thực hiện giảm tơ và xóa nợ cho dân nghèo. Về văn hóa, chính
quyền cách mạng đã tổ chức đời sống mới, mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ,
xóa bỏ các tệ nạn, hủ tục lạc hậu, xây dựng tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau.
Qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh nhìn thấy rất rõ những
căn bệnh phát sinh làm hủy hoại và biến dạng Nhà nước. Người kiên quyết
chống lại, cảnh báo nhiều nguy cơ, đề xuất các giải pháp thiết thực, trừng trị
nghiêm khắc các cán bộ thối hóa, biến chất, đảm bảo cho Nhà nước ta thật
sự trong sạch, vững mạnh. Từ mơ hình nhà nước cơng nơng binh chuyển sang
mơ hình nhà nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là một
bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực

13


tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam.

14



CHƯƠNG 2
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1: Thực trạng công cuộc xây dựng và hoàn thiện.
Sau đổi mới, cùng với sự đổi mới hệ thống chính trị, Nhà nước ta tiếp
tục được xây dựng và hồn thiện, nền hành chính được cải cách một bước.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính
sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở,
bước đầu được mở rộng, thực hiện. Đáng chú ý là hệ thống pháp luật được
đổi mới, bổ sung và tăng cường, chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp được nâng cao; phương thức quản lý, điều hành của bộ máy
nhà nước sâu sát, thực tế hơn, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong xã hội,
các hoạt động của ngành tư pháp, toà án, viện kiểm sát có nhiều tiến bộ...
Việc đổi mới nhà nước đúng định hướng là một trong những nhân tố quan
trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hoá các mặt văn hoá,
xã hội, giữ vững sự ổn định lâu dài của đất nước. Đổi mới cả về nhận thức và
hành động về mối quan hệ giữa Nhà nước và cơng dân, trong đó phải đặt
người dân vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt động của bộ máy nhà nước,
toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước phải được tổ chức trên nền tảng
“phục vụ nhân dân”. Với tinh thần đó, bộ máy nhà nước cần phải tổ chức gọn
nhẹ, rõ ràng về chức năng, cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm; tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp
đến chính quyền địa phương... phải tạo điều kiện để dân dễ tiếp cận, dễ đối
thoại, dễ kiểm tra, giám sát, huy động được tối đa trí tuệ, sáng kiến và sự
đóng góp của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Và khơng
ngừng đổi mới mơ hình tổ chức, hình thức, phương thức hoạt động của các cơ
quan nhà nước ở trung ương, địa phương nhằm hướng tới một bộ máy nhà
nước gọn về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động, đáp ứng ngày càng tích cực
15



hơn các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân phù hợp với các chuẩn mực
của chế độ pháp quyền.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo
của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong q trình
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội 2011 - 2020. Sự xác định mục
tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong Báo cáo chính trị của Đại
hội X khơng chỉ là khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy
mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự
nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới - một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua (đặc biệt trong những năm đổi
mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích cực. Nghị quyết Hội nghị lần thứ III khoá
VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các Văn kiện Đại hội Đảng
khố IX, X đã khẳng định cơng cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ quan trọng. Đã từng bước phát triển
hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật,
Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng
pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phịng... Đã có nhiều
quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và
pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc
giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời

sống nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc
16


bầu các cơ quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các
dự án luật, trong hoạt động của báo chí... Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước, trước hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một
bước điều chỉnh theo yêu cầu của q trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hố tập
trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã có
bước đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát
huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được chuẩn hóa, nâng cao về
chất lượng, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và đã mang lại những kết
quả nhất định, nền hành chính phục vụ đã từng bước khắc phục tình trạng
quan liêu, bao cấp. Việc tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức được
chuyển từ chế độ phân phối học sinh tốt nghiệp và phân công công tác theo kế
hoạch trước đây sang chế độ thi tuyển theo nguyên tắc cạnh tranh, công khai,
khách quan; việc thăng tiến về mặt chức nghiệp của cán bộ, công chức, viên
chức đều phải qua kỳ thi nâng ngạch; đã từng bước thay đổi tư duy về việc bổ
nhiệm cán bộ, công chức, viên chức giữ các chức danh lãnh đạo, quản lý theo
hướng động với quy định thời hạn bổ nhiệm có nhiệm kỳ 5 năm, hết thời hạn
có đánh giá, bổ nhiệm lại hoặc khơng bổ nhiệm lại; quy định và đưa vào nền
nếp về chế độ đánh giá cán bộ, công chức, viên chức và thực hiện chế độ khen
thưởng, kỷ luật và các quy trình, thủ tục, thẩm quyền cụ thể; chế độ đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức được coi trọng; việc sử dụng cán bộ,
công chức, viên chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, nhu cầu...
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động của nhà nước ta cũng đang

bộc lộ nhiều yếu kém. Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh;
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn
chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội cịn bị bng
17


lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta. Quản lý
nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ
mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất
đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và
thất thốt nghiêm trọng. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công
và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp cịn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ,
mối quan hệ, phân cấp trung ương - địa phương còn một số mặt chưa cụ thể
(như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành
và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục
bộ chậm được khắc phục.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng bng lỏng
và bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và
hiệu lực điều hành của bộ máy nhà nước. Có nhiều nguyên nhân gây nên
những yếu kém của hệ thống chính trị, của bộ máy nhà nước, trong đó chủ
yếu là việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta cịn ít, có
nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm.
Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây
dựng nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong
thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như
tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy
nhà nước; thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên
quyết, hợp lý và đủ mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những

khuyết điểm, yếu kém. Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở
khoa học khi quyết định một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ
máy ở trung ương và địa phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả
và tác dụng còn hạn chế. Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách
nhiệm trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng;
18



×