Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Xây dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.54 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phong cách và phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ di sản vơ giá mà Người đã để lại cho dân tộc ta và toàn thể
nhân loại. Phong cách của Người, trong đó có phong cách tư duy đã làm nên nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
khơng thể khơng nghiên cứu phong cách của Người, trong đó có phong cách tư
duy. Đại hội VII của Đảng ta đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Do
đó, nghiên cứu học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết đối với tất cả cán bộ, đảng viên đặc biệt là học
viên đào tạo bậc đại học tại Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay. Học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin không chỉ là học tập những nguyên lý lý luận mà quan trọng
hơn là học tập phương pháp tư duy biện chứng, phương pháp luận của Mác Ăng ghen - Lê nin; học tập tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là học tập những tư
tưởng lý luận của Người mà còn phải học cả phong cách của Người đặc biệt là
phong cách tư duy. Chính nét đặc sắc trong phong cách tư duy của Hồ Chí Minh
đã giúp Người vận dụng sáng tạo và thành công chủ nghĩa Mác - Lê nin ở nước
ta. Vì thế, tìm hiểu phong cách tư duy Hồ Chí Minh, chỉ ra bản chất, đặc trưng
của phong cách tư duy ấy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn đối với
chúng ta hiện nay. Điều đó khơng chỉ góp phần làm rõ thêm tầm vóc vĩ đại của
tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp hiểu rõ vì sao tư tưởng ấy đã trở thành sức mạnh vơ
địch, chinh phục trái tim khối óc của hàng triệu con người mà cịn góp phần
khắc phục căn bệnh kinh nghiệm, giáo điều, duy ý chí … trong cán bộ, đảng
viên nói chung và học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường
sỹ quan Pháo binh nói riêng. Đồng thời, tìm hiểu nghiên cứu phong cách tư duy
Hồ Chí Minh cịn góp phần từng bước xây dựng phong cách tư duy khoa học,
cũng như nâng cao trình độ tư duy lý luận cho học viên đào tạo sỹ quan cấp
phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh.
1



Vì vậy, tơi chọn đề tài: “Xây dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh của
học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội, bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trước đây Đảng ta hay dùng khái niệm tác phong khi bàn về tác phong làm
việc Hồ Chí Minh. Trong văn kiện Đại hội V của Đảng, lần đầu tiên khái niệm
phong cách làm việc được đề cập khi Đảng ta đề ra yêu cầu xây dựng phong cách
làm việc lêninnít [62, 121]. Từ Đại hội VI của Đảng khái niệm phong cách đã
được sử dụng nhiều hơn và thay thế cho khái niệm tác phong [63, 137]. Như vậy
là các văn kiện của Đảng từ Đại hội V đã chính thức sử dụng khái niệm phong
cách thay cho khái niệm tác phong, tuy nhiên phong cách ở đây mới chỉ đề cập ở
phong cách làm việc, phong cách công tác, phong cách lãnh đạo. Về phong cách
Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy của Người nói riêng cịn ít được
nghiên cứu đề cập.
Đồng chí Phạm Văn Đồng trong sách “Hồ Chí Minh - một con người, một
dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” đã phác họa những nét lớn về phong cách
tư duy Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh ln “gắn sự nghiệp cách mạng với lý luận
cách mạng” “gắn lý luận với thực tiễn cả trong tư duy và việc làm” - tư duy Hồ
Chí Minh ln gắn với thực tiễn; tư duy Hồ Chí Minh ln “ứng phó khớp với
diễn biến lịch sử” - tu duy Hồ Chí Minh sáng tạo, gắn với thực tiễn; Hồ Chí
Minh là người “diễn đạt giản đơn, sáng tỏ, dễ hiểu, dễ nhớ có sức thuyết phục
mạnh mẽ” - nội dung và phương pháp tư duy thống nhất với nhau [7, 21].
Trong bài “Những nét đặc sắc trong phong cách tư duy của Hồ Chủ tịch”
[52, 12] của tác giả Cao Thái đã bước đầu khái quát những biểu hiện đặc trưng
của phong cách tư duy Hồ Chí Minh: Tư duy Hồ Chí Minh vượt lên trên mọi
thành kiến tư tưởng; tư duy Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa tình cảm cách
mạng trong sáng và lý trí khoa học; mỗi suy nghĩ của Hồ Chí Minh đều hướng
tới hành động cải tạo và xây dựng xã hội mới; Hồ Chí Minh ln tổng kết kinh
nghiệm để làm giàu tri thức của mình.
2



Trong các bài “Theo phong cách Hồ Chí Minh”, “Phong cách lý luận Hồ
Chí Minh” của tác giả Song Thành đã khẳng định: “Hồ Chí Minh đã tạo được
cho mình phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo và bước đầu chỉ ra được
những cơ sở lý luận của phong cách tư duy ấy. Đó là sự tiếp thu vận dụng những
nét đặc sắc của văn hóa phương Đơng nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng,
của phương pháp biện chứng duy vật mác - xít”[54, 16].
Các tác giả trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh và thời đại” do Ban khoa
học xã hội thành ủy thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1992, mặc dù khơng
nghiên cứu riêng về phong cách tư duy Hồ Chí Minh, song đã ít nhiều đề cập
đến những nét đặc sắc cũng như cơ sở phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Chẳng
hạn như ở Hồ Chí Minh có phương pháp tư duy kiểu “vỏ ngơn”. Đó là “nếp tư
duy trực cảm, trực giác phương Đông…; cái tinh túy của phương pháp tư duy
phương Đông của dân tộc được Người rèn luyện kỳ cơng, trau dồi trở thành cái
“thần” của mình…[59, 35].
Các tác giả trong cuốn “Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh” do GS.TS Lê
Hữu Nghĩa chủ biên, được nhà xuất bản Lao Động ấn hành năm 1997 không đặt
nhiệm vụ nghiên cứu phong cách tư duy Hồ Chí Minh, nhưng ở những góc độ
khác nhau đã đề cập tới phong cách tư duy của Người. Đó chính là nghệ thuật sử
dụng mâu thuẫn, nắm bắt thời cơ, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các quan điểm
toàn diện, phát triển, lịch sử, cụ thể, quan điểm kế thừa…[60, 50].
Các tác giả trong cuốn “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” do
GS Đặng Xuân Kỳ chủ biên, được NXB CTQG Hà Nội, 1997 ấn hành (thực
chất đây là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học KX.02.03 do GS Đặng Xuân
Kỳ là chủ nhiệm) lần đầu tiên đã đề cập tới hệ thống phong cách Hồ Chí Minh
một cách khá hồn chỉnh trong đó có phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Các tác
giả đã chỉ ra rằng “nét đặc sắc nhất của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo”. Mặc dù vậy, phong cách tư duy Hồ Chí Minh
cũng mới chỉ đề cập một cách khái quát.


3


Qua các cơng trình khoa học đó, có thể phác họa được một số nét cơ bản
về phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói chung làm cơ sở nghiên cứu vấn đề xây
dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân
đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh nói riêng.
Những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên về phong cách tư
duy Hồ Chí Minh cũng như về thực trạng phong cách tư duy của cán bộ, đảng
viên có giá trị khoa học, ý nghĩa thực tiễn nhất định và là những tài liệu quan
trọng để học tập, kế thừa. Tuy nhiên, đây là một vấn đề rộng, khó và phức tạp
cho nên vẫn chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu, phân tích một
cách có hệ thống phong cách tư duy Hồ Chí Minh và sự vận dụng xây dựng
phong cách tư duy của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở
Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu bản chất, đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh cũng như
thực trạng phong cách tư duy của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại
học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay, trên cơ sở đó xác định những yêu cầu
và một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những yếu kém trong tư duy và
từng bước xây dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viên đào tạo sỹ
quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu khái niệm phong cách, phong cách tư duy. Bản chất và đặc trưng
phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Làm rõ thực trạng phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viên đào tạo sỹ
quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay.
Nêu lên một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những yếu kém trong

tư duy và từng bước xây dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh cho học viên đào
tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu về bản chất, đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí
Minh và vận dụng xây dựng phong cách tư duy Hồ Chí Minh của học viên đào
tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu bản chất, đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí
Minh và việc vận dụng xây dựng phong cách tư duy khoa học cho học viên đào tạo
sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh. Trong đó tập trung
phân tích thực trạng tư duy (chủ yếu là những hạn chế) của đội ngũ học viên đào
tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh từ năm 2005 đến
năm 2010. Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm từng bước hình thành
ở họ một phong cách tư duy khoa học theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và chỉ thị, nghị quyết
của Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ quốc phịng, Tổng
cục chính trị và các tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của các nhà lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Đồng thời, nghiên cứu, tham khảo kết quả của
các cơng trình khoa học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa trên những số liệu điều tra, khảo sát và thống kê thực tế của tác giả
về thực trạng rèn luyện phong cách tư duy của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội
bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh hiện nay để đề xuất giải pháp phù hợp

* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lơ gíc và lịch sử, đồng thời
sử dụng một số phương pháp như phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng
hoá và khái quát hoá, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia...
5


6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở lý luận khoa học giúp
cấp uỷ, chỉ huy các cấp của Nhà trường trong chỉ đạo và tổ chức xây dựng phong
cách tư duy của học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan
Pháo binh theo phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Đề xuất một số giải pháp cơ bản xây dựng phong cách tư duy cho học
viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở Trường sỹ quan Pháo binh theo
phong cách tư duy Hồ Chí Minh làm cơ sở để họ tiếp tục nâng cao chất lượng
học tập và rèn luyện trong q trình hồn thiện phẩm chất nhân cách người sỹ
quan Pháo binh.
7. Kết cấu của đề tài: Mở đầu, 2 chương (04 tiết), kết luận, kiến nghị,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

6


Chương 1
BẢN CHẤT VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA PHONG CÁCH TƯ
DUY HỒ CHÍ MINH
1. 1. Bản chất phong cách tư duy Hồ Chí Minh
1.1.1. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách tư duy Hồ Chí Minh nói
riêng chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu. Đến nay, chưa có một cơng trình

nghiên cứu chuyên sâu về phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Từ Đại hội V của
Đảng khái niệm phong cách mới được đặt ra khi yêu cầu xây dựng phong cách
làm việc Lê nin nít. Đến Đại hội VI của Đảng khái niệm phong cách gần như đã
thay thế cho khái niệm tác phong. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ
phận trong hệ thống phong cách của Người và là một trong những di sản vô giá
mà Người để lại cho chúng ta. Nghiên cứu phong cách tư duy Hồ Chí Minh sẽ
góp phần làm rõ hơn tầm vóc vĩ đại của Hồ Chí Minh, đồng thời tạo cơ sở cho
việc từng bước hình thành, xây dựng phong cách tư duy khoa học cho cán bộ,
đảng viên nói chung và học viên đào tạo sỹ quan cấp phân đội bậc đại học ở
Trường sỹ quan Pháo binh nói riêng.
* Về phong cách và phong cách tư duy
Khái niệm phong cách có nguồn gốc từ tiếng Latinh là Stylus, tiếng Hy
Lạp là Stylos. Ở phương Tây khái niệm phong cách đã được đề cập từ lâu và
thường được hiểu như một hiện tượng độc đáo, cá biệt trong văn học nghệ thuật.
Theo “ Từ điển tiếng Nga”, do nhà xuất bản “Tiếng Nga” ấn hành bằng tiếng
Nga năm 1984, phong cách được hiểu với ý nghĩa sau:
1. Tổng thể các dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu
hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sỹ; hoặc tổng thể các dấu hiệu
đặc trưng, đặc biệt, những thuộc tính của riêng ai đó khác với người khác.
2. Tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng của
một nhà văn, một tác phẩm nào đó.
3. Thể hiện nét đặc sắc có tính chất chức năng của ngơn ngữ nghệ thuật.
7


4. Cách thức thực hiện những biện pháp riêng của mình.
5. Cách thể hiện mình như cách nói, cách mặc… [61, 266].
Theo “Từ điển triết học” do Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va ấn hành
năm 1975, khái niệm phong cách cũng chỉ được hiểu chủ yếu trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật.

Trong “Đại từ điển tiếng Việt” do Nhà xuất bản Văn hóa - Thơng tin ấn
hành năm 1999, khái niệm phong cách được hiểu theo các nghĩa sau:
1. Vẻ riêng trong lối sống, làm việc của một người hay một hạng người
nào đó.
2. Phiên dạng của ngơn ngữ có những đặc điểm trong lựa chọn, kết hợp và
tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên quan tới giao tiếp.
3. Tồn bộ các thủ pháp sử dụng phương tiện ngơn ngữ đặc trưng cho
từng nhà văn, tác phẩm, thể loại.
4. Việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ.
Trong tác phẩm “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”, các tác giả
cho rằng, phong cách khơng chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn trong văn
học nghệ thuật mà “còn được hiểu theo nghĩa rộng tức là lề lối, cung cách, cách
thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nề nếp ổn định của một
người hay một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao
động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói và viết)… tạo nên những giá trị,
những nét riêng biệt của chủ thể đó” [6, 154]. Với cách hiểu này, chúng ta có thể
nói tới phong cách của bất cứ ai và của bất cứ hoạt động nào.
Như vậy, phong cách có thể được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn trong
văn học, nghệ thuật và theo nghĩa rộng được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt
động của con người. Với nghĩa rộng như vậy thì tác phong làm việc, tác phong
công tác chỉ là một bộ phận trong của phong cách con người nói chung. Vì vậy,
tác phong nhìn chung đều được hiểu là lối làm việc và cách sống riêng của mỗi
người hay sinh hoạt của một số nghề nghiệp, tổ chức. Như vậy, đề cập tới tác
phong chủ yếu là đề cập cách sống, đặc trưng sinh hoạt, lối làm việc, còn phong
8


cách là nét riêng được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động của con người. Do
vậy, yêu cầu đối với phong cách của học viên đào tạo bậc đại học sẽ bao gồm
nhiều nội dung khác nhau chứ không chỉ là phong cách làm việc, phong cách

công tác.
Song dù được hiểu theo nghĩa hẹp hay rộng thì phong cách ln là cái
riêng, độc đáo có tính hệ thống, ổn định và đặc trưng của chủ thể đó. Tất nhiên,
phong cách của một người luôn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố như truyền thống
văn hóa, lối sống, thói quen, điều kiện sống, sự trải nghiệm thực tiễn, dấu ấn cá
nhân… Phong cách không được sinh ra bẩm sinh mà được hình thành bởi sự
phấn đấu, rèn luyện, trau dồi không ngừng của chủ thể.
Vậy phong cách tư duy là gì? Phong cách tư duy là những đặc điểm riêng
có tính hệ thống, ổn định trên cơ sở của một cách thức thực hiện phương pháp
tư duy của một người nào đó.
Vì vậy, trong phong cách tư duy có sự thống nhất giữa cách thức thực
hiện phương pháp tư duy và nội dung, kết quả của tư duy. Cũng vì lẽ đó phong
cách tư duy bao giờ cũng được thể hiện ra thành những biểu hiện đặc trưng cụ
thể. Do vậy, phong cách tư duy có quan hệ mật thiết với phương pháp tư duy,
nhưng không đồng nhất với nó. Vì phương pháp tư duy khác phong cách tư duy
ở chỗ, nó là một hệ thống các nguyên tắc, xuất phát từ các quy luật tồn tại, vận
động của bản thân sự vật, hiện tượng, được con người nhận thức, vận dụng để
định hướng, điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của
mình, nhằm biến đổi sự vật, hiện tượng theo mục đích đã định. Phương pháp
biện chứng duy vật là phương pháp phổ biến nhất, khoa học nhất, hiện chưa có
phương pháp khoa học nào vượt qua phương pháp này. Vì vậy, hiện nay phương
pháp duy vật biện chứng vẫn là phương pháp duy nhất giúp con người hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả nhất. Chính cách vận dụng phương
pháp tu duy để định hướng, điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn sẽ là cơ sở để tạo nên phong cách tư duy. Vì vậy, có thể có nhiều
phong cách tư duy khác nhau ở những người khác nhau, mặc dù ở họ có chung
9


một phương pháp tư duy. Vì lẽ đó mà nói tới phong cách tư duy là nói đến nét

độc đáo, nét cá nhân, nét riêng tư duy của ai đó.
* Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong di sản
tư tưởng của Người nhưng còn chưa được nghiên cứu nhiều. Tác giả Cao Thái
trong bài “Những nét đặc sắc trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh” [53, 31] đã
bước đầu phác thảo những nét lớn của phong cách tư duy Hồ Chí Minh: Tư duy
Hồ Chí Minh vượt lên mọi thành kiến tư tưởng; có sự thống nhất giữa tình cảm
cách mạng và lý trí khoa học; gắn lý luận với thực tiễn; tổng kết kinh nghiệm để
làm giàu tri thức. Cố vấn Phạm Văn Đồng trong cuốn “Hồ Chí Minh một con
người, một dân tộc, một thời đại” đã đề cập tới phong cách tư duy Hồ Chí Minh
ở những nét sau: gắn lý luận cách mạng với thực tiễn cách mạng; tính hệ thống;
diễn đạt giản đơn, sáng tỏ, dễ hiểu, dễ nhớ, có sự thuyết phục mạnh mẽ. Tác giả
Song Thành trong bài: “Theo phong cách Hồ Chí Minh” (tạp chí Cộng sản số
6/1987) và các tác giả trong cuốn “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”
đều thống nhất nêu nét đặc trưng của phong cách tư duy Hồ Chí Minh: Độc lập,
tự chủ, sáng tạo.
Qua nghiên cứu thấy rằng, phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ
phận quan trọng tạo nên phong cách của Người, đấy là phong cách tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Chính nét
đặc sắc này đã làm cho phong cách tư duy của người vừa mang tính thời đại,
vừa có tính dân tộc, vừa có giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo với
sắc thái rất riêng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Bản chất phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Từ các nội dung cơ bản mà các tác giả trên đã đề cập cho thấy, bản chất
phong cách tư duy của Hồ Chí Minh là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Tinh thần độc lập, tự chủ
trong tư duy Hồ Chí Minh, thể hiện rất rõ là khơng bắt chước, không phụ thuộc,
không theo đuôi, không an phận trong suy nghĩ và cả trong hành động.
10



Ngay từ khi mới 16 tuổi (năm 1906) Hồ Chí Minh vào Huế học trường
Quốc học, nhưng Người đã sớm nhận rõ nhà trường này chỉ đào tạo ra những
mẫu người “ngoan ngoãn” thừa hành mệnh lệnh của thực dân phong kiến, nên
Người đã bỏ học vào Phan Thiết dạy học ở một trường tư. Không bao lâu sau,
Người thôi dạy vào Sài Gịn tìm chỗ học nghề. Rõ ràng, ngồi những ngun
nhân khác thì phải có tư duy độc lập, tự chủ mới vượt lên trên những thành kiến,
những quan niệm thời bấy giờ để giúp Người quyết định như vậy. Bởi lẽ, ở thời
điểm ấy nghề dạy học vẫn là một nghề cao quý, lao động chân tay vẫn bị coi là
hèn kém. Trong xã hội thực dân phong kiến như vậy mà Hồ Chí Minh đã sớm
nghĩ đến việc phải sang các nước Tây Âu “Xem họ làm như thế nào rồi trở về
giúp đồng bào” mình. Như vậy là cùng với sự ham hiểu biết muốn đi biết đó
đây, cùng với lịng u nước… ở Người, khi đó đã sớm thể hiện một lối tư duy
độc lập, tự chủ. Cho nên, chúng ta dễ hiểu, vì sao Người không đi theo con
đường Đông du sang Nhật. Chỉ có tư duy độc lập, tự chủ mới giúp Người, khi
đó đã hiểu được theo Lương Khải Siêu là nửa vời, là cải lương, chưa phải là
cách mạng; dựa vào Nhật khác nào “rước ác vào nhà”.
Trước Hồ Chí Minh, chưa có một ai kể cả Trương Cơng Định, Phân Bội
Châu, Tống Duy Tân, Phan Chu Trinh phân biệt được sự khác nhau giữa thực
dân Pháp với nhân dân lao động Pháp. Vì vậy, với họ cách mạng là chống lại
người Pháp nói chung. Hồ Chí Minh với tư duy độc lập tự chủ khi đó đã biết
vượt lên trên lập trường của tất cả các giai tầng như: giai cấp phong kiến thất thế
(Phan Đình Phùng), giai cấp nơng dân (Hồng Hoa Thám). Giai cấp tư sản dân
tộc (NguyễnThái Học)… để đứng trên lập trường giai cấp công nhân mà nhìn
nhận vấn đề. Phan Bội Châu chỉ nhìn thấy mâu thuẫn mầu da, giữa châu Á và
châu Âu; Phan Chu Trinh lại muốn “nhờ Pháp” giúp đánh phong kiến. Nguyễn
Ái Quốc với tư duy độc lập tự chủ đã sớm nhận thức rõ chủ nghĩa đế quốc là kẻ
thù chung của các dân tộc bị áp bức, của giai cấp vơ sản tồn thế giới “… dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột
và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thơi: tình

11


hữu ái vô sản” [8, 226]. Cũng từ nhận thức như vậy mà ngay từ năm 1921,
Nguyễn Ái Quốc đã hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa phong trào cách mạng
ở châu Á với phong trào cách mạng ở châu Âu: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân
dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn
thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và
trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em của mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn” [9, 36].
Với tư duy độc lập, tự chủ đã làm cơ sở cho tư duy của Người trở nên
sáng tạo. Những sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh là sáng tạo trên nền thực
tiễn cách mạng. Vì vậy, cùng với tính sáng tạo thì tư duy của Người luôn thiết
thực và gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Hồ Chí Minh khơng chỉ độc lập,
tự chủ trong tư duy mà còn rất sáng tạo. Trong “Những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa”, Lênin đã chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận của cách mạng vô sản và những người cộng sản phải có nhiệm vụ giúp đỡ
phong trào giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và khơng chỉ
dừng ở đó. Người cịn phát triển sáng tạo với luận điểm: cách mạng giải phóng
dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính
quốc và bằng thắng lợi đó, tác động mạnh mẽ tới cách mạng vơ sản ở chính
quốc. Cho nên, trong bài phát biểu tại phiên họp thứ 8 Đại hội lần thứ V Quốc tế
Cộng sản ngày 23/6/1924 Hồ Chí Minh đã “phê phán” một số đảng viên chưa
thấm nhuần quan hệ sâu sắc giữa vơ sản chính quốc và vơ sản ở các nước thuộc
địa. Đồng thời Người chỉ rõ: “… hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc
tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc” [10,
274]. Mặc dù vậy, ngay cả khi đó Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vẫn thể hiện
rõ tính độc lập, tự chủ trong nhận thức và đặc biệt là trong hoạt động cách mạng:
“Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng cậy

vào lực lượng của bản thân mình” [55, 31]. Với tư duy độc lập, tự chủ, Hồ Chí
Minh đã thấy rõ tính chủ động tích cực, sự tự lập của các dân tộc thuộc địa trong
12


việc lật đổ chủ nghĩa thực dân để tự giải phóng mình, tất nhiên phải biết tranh
thủ thời cơ và sự giúp đỡ quốc tế. Vì vậy, trong “Tun ngơn của hội liên hiệp
thuộc địa”, Người đã viết: vận dụng cơng thức của Các Mác, chúng tơi xin nói
với anh em rằng, cơng cc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nỗ lực của bản thân anh em” [24, 128]. Độc lập, tự chủ, sáng tạo không chỉ
trong tư duy mà cả trong hành động cách mạng, trong kháng chiến chống xâm
lược và trong xây dựng đất nước - đây là nét bản chất rất Hồ Chí Minh. Năm
1946 khi trả lời các phóng viên nước ngồi về vấn đề: Việt Nam có nhận được
sự giúp đỡ từ bên ngồi khơng? Có sợ bị nước ngồi thống trị khơng? Hồ Chí
Minh đã nói: Độc lập của Việt Nam là nhờ lực lượng của Việt Nam. Bởi vì,
chúng tơi bao giờ cũng trơng ở sức mình. Chúng tơi khơng sợ ai cả. Khơng nước
nào có thể thống trị được chúng tôi. Đặc biệt, chúng ta phải thấy rằng chính tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đã giúp Hồ Chí Minh cùng Đảng ta chèo lái con
thuyền cách mạng Việt Nam đi giữa hai ngọn sóng Xơ - Trung trong thập kỷ 60.
Tính thiết thực trong tư duy Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ở chỗ sau cách
mạng tháng tám năm 1945, Người đã tìm mọi cách để ngăn chặn một cuộc chiến
tranh có thể xẩy ra. Người “đã sử dụng đến mức tối đa sự mềm dẻo xung quanh
tấm thảm xanh để thăm dò những khả năng cho một giải pháp hịa bình có thể
thực hiện được bằng thỏa hiệp” [5, 94]. Người đã tham dự và chỉ đạo ký hiệp
định sơ bộ ngày 6/3/1946, hịa đàm Phơng ten nơ blơ từ 4/7 đến 4/9/1946, Người
đã sẵn sàng đi tới một giải pháp không bạo lực, đến một nền hịa bình thương
lượng. Nhưng khi thực dân Pháp gây hấn ở Hải Phịng thì người có thái độ kiên
quyết: “Chúng ta muốn hịa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
một lần nữa! không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ không chịu mất nước,

không chịu làm nô lệ” [27, 480].
Nhưng tính thiết thực khơng loại trừ tính sáng tạo, khơng loại trừ sự nhìn
xa, trơng rộng ở Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, ngay cả trong đấu tranh chống thực dân
Pháp Người vẫn tìm cách duy trì quan hệ hữu nghị với nhân dân Pháp. Đối với
13


nhân dân Mỹ Người cũng có thái độ như vậy. Rõ ràng là đứng trước nhũng vấn
đề cấp bách cần giải quyết, nhưng Hồ Chí Minh vẫn nhìn rõ là sau chiến tranh
cần có sự hợp tác, quan hệ hữu nghị để phát triển kinh tế, chính trị và khắc phục
hậu quả chiến tranh.
Phong cách tư duy thiết thực gắn liền với thực tiễn đất nước đã giúp Hồ
Chí Minh rất sáng tạo trong vận dụng và phát triển những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - lê nin. Mọi suy nghĩ của Người ln xuất phát từ những điều kiện,
hồn cảnh lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi đề cập tới việc phát triển phong trào cách
mạng ở phương Đông, Hồ Chí Minh ln lưu ý ban phương Đơng của quốc tế
cộng sản rằng: “Nói chung thì các dân tộc Phương Đơng đều giàu tình cảm, và
đối với họ một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền” [11, 263]. Tính thiết thực, gắn với thực tiễn là nét đặc trưng nội tại của
phong cách tư duy độc lập, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện rất rõ
trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Chúng ta thấy rằng, khi
đề cập tới việc các Đảng cộng sản giúp đỡ phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa, Người đã lưu ý rằng: “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông
qua những nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như trước
vẫn làm thì chưa đủ. Chúng ta cần có biện pháp cụ thể” [12, 281].
Tính thiết thực, ln gắn với thực tiễn đất nước và thời đại trong phong
cách tư duy Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở chỗ, Người ln luôn đứng trên “mảnh
đất thực tiễn” cách mạng Việt Nam, trên nền của văn hóa dân tộc nói riêng, văn
hóa phương Đơng nói chung để vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin. Vì thế, ngay
từ khi cịn đang hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã từng

viết: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch
sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn
thể nhân loại… Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đơng… dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung “cơ sở
lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở
thời mình khơng thể có được” [13, 465]. Nhưng điều quan trọng là liền ngay sau
14


đó, Người đã khẳng định “… chủ nghĩa Mác sẽ cịn đúng cả ở đó” (ở Phương
Đơng) [14, 465]. Cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước Phương Đông không diễn
ra giống như ở Phương Tây. Ở Phương Đông chủ nghĩa dân tộc sẽ là động lực
lớn của đất nước [15, 465].
Điều đó cho thấy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, khơng muốn dựng lên
bức hàng rào Đơng - Tây mà với phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và thời đại đã đem lại nội dung và hình thức
dân tộc cho chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, Hồ Chí Minh ln ln căn dặn cán
bộ, đảng viên phải biết xuất phát từ thực tiễn nước ta để đề ra chủ trương, đường
lối đúng, tránh giáo điều, rập khn, máy móc. Người phê phán những người
“Thấy người ta làm thế nào cũng một mực bắt chước làm theo thế ấy, thí dụ: nghe
người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà
khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” [30, 272].
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và
thời đại của Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ở chỗ, Người luôn luôn biết đề xuất ý
kiến mới, dám từ bỏ lối mòn quen thuộc trong cách nghĩ, cách nhìn và dám nhận
lấy trách nhiệm khai phá con đường nhận thức mới. Chẳng hạn, Người đã thẳng
thắn phê bình Đảng cộng sản Pháp và các Đảng cộng sản khác ở châu Âu chưa
thực hiện tốt “Luận cương của Lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, “chưa
giúp được nhiều cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa”[16, 31]. Vì
vậy mà thái độ của Người đối với cái cũ và cái mới cũng rất rõ ràng, đúng đắn,

dứt khoát. Đối với cái cũ, nếu thực tiễn chỉ ra là sai thì Người sẵn sàng vứt bỏ.
Cái cũ, nếu cịn phù hợp thì Người kiên quyết kế thừa, lọc bỏ, bổ sung phát
triển: “Cái cũ mà xấu thì bỏ, cái cũ khơng xấu nhưng gây phiền phức thì phải
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới” [28, 94]. Cho nên, Hồ Chí
Minh đã từng viết: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của
Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng xong những điều hay trong đó thì chúng ta
nên học” [36, 46]. Chính phong cách tư duy, độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực
gắn với thực tiễn đất nước và thời đại giúp Hồ Chí Minh biết tìm ra cái mới phù
15


hợp với thực tiễn, biết phát triển những luận điểm, những tư tưởng cũ trong điều
kiện mới. Chẳng hạn, Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển, nâng cao những luận
điểm tiến bộ về quyền tự do, bình đẳng của con người trong triết học Phương
Tây cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Trong lời mở đầu của bản “Tun ngơn
độc lập”, Hồ Chí Minh đã trích luận điểm bất hủ của Tô Mát Giephecxon, nhà
khai sáng nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh của nhân dân Mỹ: “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể
xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” [25, 1]. Nhưng Hồ Chí Minh khơng chỉ dừng ở đó,
Người đã phát triển thêm: “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do” [26, 1].
Nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất
nước và thời đại mà Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
truyền thống và hiện đại, giữa kế thừa và đổi mới. Hồ Chí Minh cũng khơng chỉ
dừng lại ở đó mà cịn luôn nhậy bén với cái mới và ủng hộ cái mới. Vì thế,
Người đã chủ động phát động phong trào “Người tốt, việc tốt”, đồng thời viết
báo phổ biến gương người tốt việc tốt… Tính thiết thực gắn với thực tiễn đất
nước và thời đại trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh cịn thể hiện rõ ở chỗ

Người ln luôn tổng kết kinh nghiệm để làm giàu tri thức của mình, để đảm
bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Ngay từ những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí
Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “… Cơng việc gì bất kỳ thành công hay
thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tích thấy rõ ràng rồi kết
luận. Kết luận đó là cái chìa khóa phát triển cơng việc và để giúp cho cán bộ tiến
tới”[31, 243]. Khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên học tập lý luận, Người ln
căn dặn rằng, học tập lý luận thì phải biết vận dụng lý luận đã học được để phân
tích những thắng lợi và thất bại trong công tác, những mặt đúng, sai về lập
trường, quan điểm và phương pháp của mình. Theo Người, “làm như thế là tổng
16


kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn
và cơng tác có kết quả hơn” [42, 498]. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, cán bộ “…
Cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực
hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ, dồi dào thêm” [35,
417]. Điều đó cho thấy, đây khơng chỉ thể hiện tính thiết thực, gắn với thực tiễn
của phong cách tư duy Hồ Chí Minh, mà cịn thể hiện sự kế thừa có chọn lọc, có
phát triển những tư tưởng, quan điểm, kinh nghiệm cũ nhằm làm giàu trí tuệ của
mình. Tính thiết thực, gắn với thực tiễn trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh
cịn thể hiện ở chỗ, tư duy của Người ln hướng tới việc xây dựng xã hội mới.
Với phong cách tư duy như vậy, ngay từ những ngày còn ở châu Âu tìm đường
cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tích cực tham gia thành lập Đảng
cộng sản Pháp; Hội liên hiệp thuộc địa; hoạt động tích cực trong Quốc tế cộng
sản. Ở Trung Quốc, Người thành lập “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu
Á”. Tại Quảng Châu - Trung Quốc, Người đã mở nhiều lớp huấn luyện thanh
niên, sáng lập tổ chức “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên”. Cũng chính Hồ
Chí Minh là người sáng lập Đảng cộng sản Đông Dương. Sau này cũng chính
Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; Quân đội nhân dân; Nhà nước Việt

Nam dân chủ cộng hịa và ln chăm lo củng cố các tổ chức đó về mọi mặt.
Cũng xuất phát từ mục đích xây dựng xã hội mới mà Hồ Chí Minh chú trọng
xây dựng các loại hình tổ chức để tập hợp quần chúng nhằm phát huy tính sáng
tạo của quần chúng trong cách mạng. Đó là tổ chức của thanh niên; tổ chức của
công nhân; tổ chức của nông dân; tổ chức của phụ nữ và nhiều tổ chức khác tùy
thuộc vào yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng và lợi ích của quần chúng.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước
được hình thành rất sớm ở Hồ Chí Minh. Nhưng khi bắt gặp chủ nghĩa Mác Lênin thì phong cách ấy ngày càng được củng cố, phát triển. Thông qua quá
trình rèn luyện, trau dồi, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước đã trở thành đặc điểm cố
hữu, bản chất nội tại, thuộc tính bền vững của phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
17


Từ tư duy độc lập, tự chủ không bị ảnh hưởng bởi những thành kiến, những
quan niệm, những uy tín đang thịnh hành, Người đến với tư duy sáng tạo.
Nhưng tư duy sáng tạo của Hồ Chí Minh được đặt trên nền thực tiễn cách mạng
Việt Nam và thời đại, vì vậy nó xa lạ đối với ảo tưởng, với chủ nghĩa chủ quan,
giáo điều xơ cứng, cơ hội, xét lại. Bởi vậy, tư duy đó cũng rất thiết thực. Nếu
nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”, là “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”; là giải phóng dân tộc,
giải phóng người lao động, thì tư duy Hồ Chí Minh là nhằm phục vụ cho mục
đích cao cả ấy. Cho nên, tư duy Hồ Chí Minh ln có sự thống nhất giữa tình
cảm cách mạng và lý trí khoa học; ln hướng tới xây dựng một xã hội mới;
luôn được làm giàu tri thức bằng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của đất nước và
thời đại, lại được diễn đạt đơn giản, trong sáng, rõ ràng nhưng khơng thơ thiển.
Những thuộc tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất
nước và thời đại đã hòa quện với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau để cùng nhau
tạo nên nét độc đáo riêng biệt Hồ Chí Minh. Thực tế lịch sử cho thấy, có những
nhà hoạt động cách mạng quốc tế, cũng có được lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng

tạo nhưng không thiết thực và không gắn với thực tiễn đất nước họ cũng như
thời đại, cho nên cuối cùng họ lại rơi vào ảo tưởng, chủ quan, nóng vội. Ngược
lại, có người có tư duy thiết thực gắn với thực tiễn đất nước nhưng lại không độc
lập, tự chủ, sáng tạo nên cuối cùng rơi vào hoặc là xét lại, hoặc là thực dụng,
thiển cận. Giáo sư Bécna Đam trường Đại học Passan cộng hòa liên bang Đức
hồn tồn có lý khi chỉ ra rằng: “so với Tan Ma-La-Ka (nhà quốc tế chủ nghĩa
In-đơ-nê-sia), Hồ Chí Minh thiết thực hơn, gắn với thực tiễn hơn, hường về hành
động hơn và nhận thức sâu sắc hơn về thời cơ cách mạng. Nếu Xu-các-nô là
người truyền giáo khi tiến hành cách mạng tháng Tám năm 1945 ở In-đơ-nê-sia
thì Hồ Chí Minh là người tổ chức, lãnh đạo cách mạng tháng Tám năm 1945 ở
Việt Nam. So với A-Ung-Xan (nhà cách mạng Miến Điện) thì Hồ Chí Minh
khơn ngoan nhưng hành động thận trọng hơn” [5, 75]. Từ đó có thể khẳng định,
một trong những yếu tố làm cho Hồ Chí Minh hơn hẳn các nhà cách mạng
18


đương thời ở Đơng Nam Á chính là phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại của Người.
Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo nhưng Hồ Chí Minh khơng xa rời
phương pháp biện chứng duy vật, không xa rời chủ nghĩa Mác Lê nin. Đồng thời
với tư duy thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại, nhưng Hồ Chí Minh
khơng rơi vào xét lại, không rơi vào chủ nghĩa dân tộc, không thực dụng. Cho
nên, phong cách tư duy Hồ Chí Minh thấm đượm phong cách tư duy Việt Nam,
tư duy Phương Đông nhưng cũng rất hiện đại. Nó vừa có giá trị độc đáo riêng
nhưng lại vừa có giá trị bền vững, phổ biến. Chính Hồ Chí Minh và Đảng ta
cùng những học trò xuất sắc của Người đã làm phong phú chủ nghĩa Mác Lê nin
bằng những nội dung và hình thức rất Việt Nam. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự dìu dắt của Người, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác, làm nên những chiến công vẻ vang trong lịch sử tiến bộ của nhân loại.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn

đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh được hình thành từ phong cách tư duy
Việt Nam nói riêng và phong cách tư duy Phương Đơng nói chung; từ chủ nghĩa
Mác - Lênin mà đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật và từ chính bản sắc
cá nhân của Hồ Chí Minh.
Giáo sư Song Thành khẳng định, một trong những đặc điểm của tư duy
Việt Nam và Phương Đông là thường suy nghĩ và diễn đạt thiên bằng hình ảnh
hơn là bằng khái niệm. Hơn nữa quảng đại quần chúng nhân dân lao động Việt
Nam trước cách mạng là mù chữ, thất học, nếu diễn đạt bằng lý luận cao siêu họ
sẽ khơng hiểu. Căn cứ vào tình hình của thực tiễn đất nước, vào trình độ dân trí
cũng như ưu thế của lối tư duy bằng hình ảnh phương Đơng, Hồ Chí Minh
thường hay vận dụng phương pháp so sánh bằng hình ảnh khi diễn đạt lý luận.
Chẳng hạn, khi đề cập đến bản chất ăn bám, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế
quốc đối với người lao động ở cả chính quốc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã dùng
hình ảnh con đỉa hai vịi: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vịi bám
vào giai cấp vơ sản ở chính quốc và một cái vịi bám vào giai cấp vơ sản ở các
19


nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta đồng thời cắt cả cả
hai vòi” [23, 298]. Với cách so sánh giản đơn điển hình này, Hồ Chí Minh đã
diễn đạt một cách dễ hiểu mối quan hệ giữa cách mạng ở chính quốc và thuộc
địa. Với hình ảnh con đỉa hút máu, bất cứ người Việt Nam bình thường nào cũng
có thể hiểu và cảm nhận được bản chất bóc lột, ăn bám của chủ nghĩa thực dân
đế quốc.
Khi giải thích cho đồng bào thiểu số về công tác bảo vệ cán bộ và khu căn
cứ cách mạng, Hồ Chí Minh đã dùng phương pháp so sánh rất gần gũi với bà
con: “Đồng bạc trắng q thật, muốn giữ kín chơn dấu ở đâu cung được. Nếu
mất có thể tìm hoặc làm ra được. Nhưng cán bộ, bộ đội cứu quốc quân về bản
hoạt động cịn q hơn cả bạc trắng. Nếu có họ thì có tất cả. Họ cùng ta đánh
Tây, đuổi Nhật, họ là tôi tớ của dân. Nếu nước nhà được độc lập, dân có tự do,

thì nhà cửa, trâu bị, tiền bạc đều có. Vậy ta phải dấu họ cho kín đáo” [2, 83].
Khi luận giải nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng như
tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên tắc này, cũng như về vai trị của lý
luận. Hồ Chí Minh đã dùng các hình ảnh so sánh: “Lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn
hoặc bắn lung tung cũng như không có tên” [32, 235]. “Lý luận cốt là để áp
dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tiễn là lý luận
suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển sách lý luận, nếu không biết
đem ra thực hành, thì khác nào một cái hịm đựng sách” [33, 234]. “Lý luận như
cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế.
Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” [34, 234]. “Làm mà khơng
có lý luận thì khơng khác gì đi mị trong đêm tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp
váp” [37, 47]…
Như vậy, Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng hết sức tài tình kiểu tư duy
bằng hình ảnh của Việt Nam và phương Đơng. Cho nên, dù vấn đề phức tạp,
khó hiểu hay vấn đề giản đơn, Người đều có thể dùng hình ảnh so sánh để dễ
hiểu, dễ nhớ nhưng khơng thô thiển.
20



×