Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận tác phẩm hồ chí minh và văn kiện đảng về chính trị tư tưởng chính trị chủ yếu trong tác phẩm “ tuyên ngôn độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.69 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: GIỚI THIỆU CÁC TÁC PHẨM HỒ CHÍ MINH VÀ VĂN
KIỆN ĐẢNG VỀ CHÍNH TRỊ

Đề tài:
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CHỦ YẾU TRONG TÁC PHẨM “
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” CỦA HỒ CHÍ MINH? Ý NGHĨA
CỦA CÁC TƯ TƯỞNG ĐĨ


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Tun ngơn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá tuyên bố trước quốc
dân đồng bào và thế giới về quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam và
khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do ấy.
- Tun ngơn độc lập là kết tinh lí tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc
và tinh thần yêu chuộng độc lập, tự do .
- Thể hiện tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc của Bác về truyền
thống đấu tranh kiên cường của nhân dân trong công cuộc chống ngoại xâm.
- Là một áng văn chính luận mẫu mực.
- Tun ngơn độc lập có vai trị quan trọng trong lịch sử hiện đại Việt
Nam. Đây là biểu tượng cho sự chấm dứt cai trị của các thế lực ngoại quốc ở
Việt Nam. Bản tuyên ngôn đã đưa tới cho người đọc và người nghe một thế
giới quan kịch tính, một lịch sử cơ đặc, một vài khẳng định táo bạo, những cụm
từ sinh động, và hình tượng đầy cảm xúc. Tun ngơn độc lập cịn khẳng định
với thế giới cơ sở pháp lý về quyền của dân tộc Việt Nam được hưởng tự do
độc lập, đồng thời cũng vạch ra cơ sở thực tế là Việt Nam đã là một nước tự do
và độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ nước nào. Đồng thời, bản Tuyên ngôn
cũng khẳng định nhân dân Việt Nam sẽ giữ nền độc lập, tự chủ mới giành được
bằng mọi giá.
2. Mục tiêu


- Phân tích tư tưởng chính trị cơ bản của tác phẩm “ Tuyên ngôn độc
lập”
- Đề ra những ý nghĩa của tư tưởng chính trị trong tác phẩm
3. Đối tượng
- Tác phẩm “ Tuyên ngôn độc lập”
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc và thu thập thông tin từ tác phẩm
1


II. NỘI DUNG
Đảng ta, khi tuổi mới 15 đã lãnh đạo tồn dân đứng lên tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước, chấm dứt chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ
và thốt ách nơ lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm. Cách mạng tháng Tám năm
1945 là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, là trang sử
vẻ vang nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Từ đó Tun ngơn
độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời. Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945
của Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra
một kỷ nguyên mới cho đất nước ta, dân tộc ta vững bước tiến lên trong sự
nghiệp cách mạng vẻ vang. Trong bản Tuyên ngôn độc lập thể hiện những tư
tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trước hết, Tuyên ngôn độc lập khẳng định: Dân tộc Việt Nam cũng như
bất cứ dân tộc nào trên thế giới đều có quyền được sống, quyền độc lập, tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc. Bác Hồ trích dẫn một đoạn nổi tiếng trong bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ sau khi các dân tộc Bắc Mỹ giành được
độc lập, tự do, thoát khỏi ách thống trị của thực dân Anh: “Tất cả mọi người
đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể
xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp đó, Bác đã nêu một câu bất hủ trong bản
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của cách mạng Pháp sau khi nhân dân

Pháp giành thắng lợi trong cuộc cách mạng năm 1789 xóa bỏ chế độ phong
kiến Pháp, thực hiện nền dân chủ tư sản: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao ý nghĩa nhân văn to lớn trong hai bản
Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp chính là nêu lên một nguyên lý cơ bản, khẳng định
nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là một lẽ đương nhiên, một điều tất yếu,
không ai chối cãi được. Đồng thời Bác cũng đặt cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 của Việt Nam sánh ngang với hai cuộc cách mạng tiến bộ điển hình
2


của thế giới, là cách mạng giải phóng dân tộc của Mỹ (1776) và cách mạng dân
chủ tư sản của Pháp (1789). Đây cũng là điều thể hiện niềm tự hào và tự tơn dân
tộc có cơ sở lịch sử và rất chính đáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đanh thép lên án tội ác của thực dân
Pháp đối với nhân dân ta, đồng thời thể hiện lịng u nước, thương dân vơ hạn
của Người. Bọn thực dân đã “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa”. Hàng loạt tội ác nham hiểm của bọn xâm lược đối với nhân dân
ta cứ tầng tầng lớp lớp bị phơi bày và lên án, khiến bọn thực dân không thể
chối cãi và người người đều căm giận: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không
cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp
dã man… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém
giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa
của ta trong những bể máu… Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy,
khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều…”.
Một tư tưởng nổi bật trong Tuyên ngôn độc lập là Bác Hồ khẳng định và
đề cao nhân nghĩa, chính nghĩa và văn hóa Việt Nam. Dù bọn thực dân vô cùng
tàn ác đối với nhân dân ta, nhưng “đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ
một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt

Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều
người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Tội
ác của kẻ thù càng chồng chất thì mầm cách mạng của nhân dân ta càng trỗi
dậy. Vì thế, cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 là một hành động lịch sử tất
yếu của nhân dân ta để giành lấy các quyền lợi chính đáng của mình: “Dân ta
đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ
mà lập nên chế độ dân chủ cộng hịa”.
Tun ngơn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước thế giới
về quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền
3


hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Đấy cũng chính là tinh thần “Khơng có
gì q hơn độc lập, tự do” mà Bác Hồ đã kêu gọi nhân dân ta trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ xâm lược.
Tun ngơn độc lập khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc
trên thế giới anh dũng đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, “đem sức ta mà giải
phóng cho ta”! Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc điển hình và triệt để đầu tiên ở Đơng Nam Á. Từ đây, nhân dân
nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Phi và Mỹ La-tinh noi gương
Việt Nam, đã nổi dậy tiến hành cuộc cách mang dân tộc và dân chủ của nước
mình, làm suy yếu chủ nghĩa thực dân trên tồn thế giới.
Tun ngơn độc lập của Bác Hồ nhắc nhở chúng ta: Giành được độc lập
đã khó, nhưng giữ vững được độc lập, để đất nước phát triển bền vững, nhân
dân được hạnh phúc và tự do cịn khó khăn gấp bội phần. Muốn thực hiện được
điều lớn lao đó, phải tiến hành cuộc cách mạng triệt để, dựa vào sức mạnh đoàn
kết của toàn dân và phải ln ln vì quyền lợi của nhân dân. Đấy cũng là ý

nghĩa sâu xa của Tuyên ngôn độc lập.
Tuyên ngôn độc lập thể hiện sáng ngời tư tưởng của Hồ Chí Minh về
quốc quyền, nhân quyền, tinh thần nhân văn và chính nghĩa Việt Nam, tỏ rõ ý
chí của dân tộc ta quyết tâm bảo vệ nền độc lập, quyền tự do.
Tuyên ngôn độc lập nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế,
gắn liền đất nước Việt Nam với tên tuổi Hồ Chí Minh, khích lệ chúng ta vững
bước đi tới tương lai tươi sáng.
1. QUYỀN CON NGƯỜI THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG VỚI
QUYỀN DÂN TỘC
Bản Tuyên ngơn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc ngày 2/9/1945 khơng chỉ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
4


lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc, bởi tư tưởng
về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân gắn với quyền
bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc; tinh thần và ý chí đấu tranh cho độc lập,
tự do của nhân dân Việt Nam trong hành trình giành lại quyền tự do, độc lập.
Khẳng định về quyền con người và quyền của mỗi dân tộc là chính đáng,
mở đầu Tun ngơn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm tư duy sâu
sắc, vượt gộp khi trích dẫn Tun ngơn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 rằng:
“Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng
ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Với lập
luận này, Người đi đến khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và “Đó là những lẽ phải khơng ai chối

cãi được”. Và vì thế, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam đều có
những quyền chính đáng ấy; khơng ai có thể tước đoạt được; và nếu bị tước
đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đồn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại và
quyết tâm bảo vệ.
Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo thực dân Pháp: “Thế mà hơn
80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối khơng cho nhân dân ta một
chút tự do dân chủ nào… Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc
để ngăn cản việc thống nhất nước nhà, để ngăn cản dân ta đoàn kết. Chúng lập
ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu
nước thương nòi... Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, đề làm cho nòi giống ta suy nhược...Chúng
bóc lột dân ta đến xương tủy... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý... Chúng
5


không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột cơng nhân ta một
cách vơ cùng tàn nhẫn”. Khơng chỉ dừng ở đó, mùa thu năm 1940, khi phát xít
Nhật đến Đơng Dương, thực dân Pháp lại quỳ gối đầu hàng và “thế là chẳng
những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước
ta hai lần cho Nhật”, khiến cho nhân dân ta càng thêm cực khổ, khiến cho “hơn
hai triệu đồng bào ta bị chết đói”.
Kiên cường đấu tranh cho độc lập và tự do, sự thật là: 1) “Từ mùa thu
năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của
Pháp nữa”; 2) “Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy
giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”; 3) “Dân ta lấy
lại nước Việt Nam tự tay Nhật, chứ không phải tự tay Pháp”; 4) “Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ

quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hịa” và Việt Nam
đã là một quốc gia độc lập.
Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tun bố “thốt ly hẳn quan hệ với
Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất
cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”; đồng thời nhấn mạnh,
“các nước đồng minh đã cơng nhận những ngun tắc dân tộc bình đẳng ở các
Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể khơng cơng nhận quyền
độc lập của dân Việt Nam”. Vì, “Một dân tộc đã gan góc chống ách nơ lệ của
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống
phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc
lập!”, nên “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”. Lời thề độc lập - Lời thề giữ nước thiêng liêng và tinh thần bất diệt của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã vang vọng khắp non sông, đất nước, cho
đến mãi muôn đời sau.
6


Lịch sử cho thấy, quyền tự do và bình đẳng là lý tưởng nhân văn của xã
hội loài người từ khi có giai cấp. Đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng của con
người nói riêng, của mỗi dân tộc nói riêng là mục tiêu nhân văn, là lý tưởng của
nhân loại tiến bộ. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn hai bản Tun
ngơn của Mỹ và Pháp cho thấy, quyền con người và quyền của dân tộc là một
hiện thực khách quan của nhận thức chân lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát
từ quyền con người, thông qua quyền con người để xác lập quyền dân tộc và đấu
tranh cho quyền dân tộc, bởi quyền con người chính là cơ sở nền tảng để thiết
lập quyền dân tộc. Vì thế, khi mở rộng và phát triển từ quyền của con người đến
quyền độc lập, tự do của dân tộc; khẳng định quyền con người và quyền dân tộc
ln gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất biện chứng với nhau, tầm cao tư

tưởng, tính nhân văn triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh đã được kết tinh trong
Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Kết tinh của tinh thần, ý chí và khát vọng độc lập, tự do; kiên trì đấu
tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng
định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam, ý chí sắt đá
khơng gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc
đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc.
-

Ý nghĩa

Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo ngay giữa
lòng Hà Nội, tại số nhà 48 phố Hàng Ngang của nhà tư sản yêu nước Trịnh
Văn Bô. Văn kiện quan trọng này được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi, lấy ý
kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng, các thành
viên Chính phủ lâm thời, trong quần chúng nhân dân và ý kiến tham khảo của
A. Patti - đại diện cho quân Đồng minh. Tun ngơn Độc lập có 1.120 chữ,
được sắp xếp trong 49 câu. Đây là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn
gọn, chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý
vững chắc để không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam
trước thế giới mà còn mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta, nhân dân ta trên
7


con đường xây dựng và phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh
hùng, bất khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập,
tự do mà còn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào
cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ

thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, Tuyên
ngôn Độc lập không chỉ gắn liền với Hồ Chí Minh mà cịn mở ra thời đại Hồ
Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân Việt Nam kiên định con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn Độc lập cũng khẳng định rõ vai trị, sức mạnh của khối tồn
dân đồn kết trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do. Trong hành trình gian khó
ấy, có Đảng lãnh đạo, với một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, với
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ và phát huy sức mạnh dân tộc và
thời đại, dân tộc ta đã thủ tiêu toàn bộ chế độ thực dân, phong kiến, “lấy lại tên
trên bản đồ thế giới”. Vì thế, Tun ngơn Độc lập khơng chỉ là một mốc son
chói lọi, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà
còn làm cho nền văn hiến Việt Nam: “Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng
sững/Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa/Trong và thật, sáng hai bờ suy
tưởng/Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa” được khẳng định và lan tỏa cùng
thời đại.
Với Tuyên ngôn Độc lập, một nước Việt Nam hồi sinh sau bao mất mát,
hy sinh tiếp tục hướng đến tương lai tươi sáng, đấu tranh vì hịa bình, độc lập,
tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong hành trình ấy, thấm nhuần tư tưởng Hồ
Chí Minh về “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng” trong
Tun ngơn Độc lập; về điều mong muốn cuối cùng "toàn Đảng, toàn dân đoàn
kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"
trong Di chúc gắn với “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc”, coi lợi
8


ích quốc gia, dân tộc là tối thượng, là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có
nghĩa định hướng hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực, Việt Nam đã
luôn kiên định và sẵn sàng hợp tác với tất cả các nước, kể cả các nước có quá
khứ là thù địch nhưng công nhận nền độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ

của Việt Nam. Đó chính là truyền thống bao dung, nhân ái Việt Nam, là xóa bỏ
hận thù và gác lại quá khứ để cùng nhau hướng đến tương lai.
Lịch sử ghi nhận rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tun bố “thốt ly hẳn
quan hệ thực dân với Pháp” trong Tuyên ngôn Độc lập, song cũng chính Người
đồng thời nhấn mạnh, Việt Nam sẵn sàng và chủ động xây dựng tình hữu nghị
Việt - Pháp, thật lịng hợp tác và hợp tác tồn diện với chính phủ, nhân dân
Pháp và “hoan nghênh những người Pháp muốn mang tư bản (vốn) vào nước ta
khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác… chúng ta có thể mời
những nhà chun mơn Pháp cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc
cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia. Nhưng, phải nhắc lại rằng, điều
kiện chính vẫn là họ phải thừa nhận nền độc lập của xứ này. Nếu khơng vậy,
thì khơng thể nói chuyện gì được cả”…
Từ việc khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng,
quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do trong Tuyên ngơn Độc
lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền con người chỉ thực sự được
bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc. Thấm nhuần tư
tưởng của Hồ Chí Minh về quyền con người, lời căn dặn "đầu tiên là công việc
đối với con người", chăm lo cho con người trong bản Di chúc lịch sử, trong
gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh
bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiến hành thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước,v.v.. kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt, trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với những
thành tựu về mọi mặt, Việt Nam đã và đang ngày càng chủ động và tham gia
9


tích cực tại Liên hợp quốc về quyền con người, đảm nhiệm vai trò thành viên
Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016, tham gia vào quá

trình xây dựng Tun ngơn Nhân quyền ASEAN, Ủy ban liên chính phủ
ASEAN về quyền con người, đóng góp tích cực trong các Ủy ban ASEAN về
phụ nữ và trẻ em, về lao động di cư… Ở trong nước, quyền con người đã được
thực thi, được hiến định. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con
người, quyền công dân được triển khai xun suốt, đồng bộ thơng qua các
chương trình xây dựng luật, pháp luật của Quốc hội. Trong quá trình xây dựng
và sửa đổi Hiến pháp, quyền con người và quyền công dân luôn là một vấn đề
căn cốt của các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến
pháp 1992, Hiến pháp 2013. Trong Hiến pháp 2013, lần đầu tiên các quyền con
người, quyền và nghĩa vụ công dân đã được Quy định trong chương II. Tiếp
đó, thể chế hóa Hiến pháp 2013, Quốc hội cũng đã sửa đổi và xây dựng nhiều
luật trên cơ sở bảo đảm quyền con người gắn với bảo vệ chế độ xã hội như Bộ
luật Hình sự (2015), Luật Báo chí (2016); Luật Tiếp cận thơng tin (2016)…
Đặc biệt, có thể nói, mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là q trình hiện
thực hóa “quyền sung sướng”/“dân giàu” và “quyền tự do”/“dân chủ”, quyền là
chủ, quyền làm chủ của nhân dân/quyền con người được Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định trong Tun ngơn Độc lập năm 1945, phù hợp luật pháp quốc
tế về quyền con người, bảo vệ quyền con người.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình hình thế giới và khu vực cịn nhiều diễn
biến rất phức tạp, khó lường, quan hệ quốc tế vừa có những thuận lợi vừa có
nhiều thách thức hiện nay, trên cơ sở xác định mục tiêu tối thượng là bảo vệ độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền biển, đảo gắn liền với bảo đảm
quyền con người, cuộc sống hịa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục kiên trì đường lối, chủ trương độc lập tự
chủ, hịa bình, hữu nghị với các nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
10



2.

Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên

ngôn độc lập
Tuyên ngôn độc lập năm 1945 thể hiện tầm nhìn chiến lược về ngoại
giao và nghệ thuật đấu tranh với kẻ thù của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm
đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.Cách đây
58 năm, ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thay mặt nhân dân Việt Nam long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước toàn thế giới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn về
nhiều lĩnh vực như: chính trị, pháp lý, ngoại giao, tư tưởng, văn hóa... đồng
thời là một tác phẩm chính luận mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc, góp
phần tích cực đặt nền tảng cho một trật tự pháp lý hiện đại trong thế kỷ
20.Ngay trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trích dẫn lời bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 Của
nước Mỹ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyển tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người còn trân trọng
viện dẫn trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước
Pháp một triết lý nổi tiếng, đó là: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". “Đó là
những lẽ phải khơng ai có thể chối cãi được".
Việc trân trọng viện dẫn những tinh hoa trong hai cuộc cách mạng tiêu
biểu của nước Pháp và nước Mỹ để mở đầu cho Tuyên ngơn lập quốc của nước
mình, vừa thể hiện nét độc đáo, sáng tạo, đầy tính nhân văn cao cả và cử chỉ
ngoại giao rất tinh tế, sắc bén của chủ nhân một quốc gia độc lập; nhưng cũng
vừa mang tính chủ động tiến công cách mạng của một nhà lãnh đạo có tầm

nhìn chiến lược sâu rộng trên nhiều lĩnh vực chính trị, ngoại giao, văn hóa,
qn sự...
11


Bằng tầm nhìn chiến lược về ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay
mặt tồn thể nhân dân Việt Nam tuyên bố mong muốn xây dựng mối quan hệ
thân thiện giữa nước ta với nước Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Điều đó
càng thêm sáng ngời tư tưởng đại nghĩa, lòng khoan dung cao cả của nhân dân
Việt Nam.
Bởi vì, trong hơn 30 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước,
Người đã hiểu thấu tận tim gan bản chất bóc lột dã man, tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc. Nhưng đến khi thực dân Pháp thất thế và rút chạy, nhân dân
Việt Nam vẫn độ lượng khoan hồng, dang tay cứu giúp cho nhiều người Pháp
và tài sản của họ thoát khỏi bàn tay tàn bạo của phát xít Nhật lúc đó.Đối với
nhân dân Mỹ, họ rất tự hào về nhà tư tưởng vĩ đại Thomas Jefferson, người đã
khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Niềm tự hào đó càng được đề cao khi trong bản Tuyên ngôn Độc lập của
nước Việt Nam mới lại được mở đầu bằng chính những nội dung tinh túy nhất
trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, đúng vào thời điểm qn Đồng minh
vừa chiến thắng phe phát-xít.
Nhưng điều cịn lý thú hơn, chính vị lãnh tụ của nhân dân Việt Nam đã
cho người đại diện của quân đội Mỹ ở Hà Nội khi đó là thiếu tá tình báo L.A
Patti, được xem trước bản Tuyên ngôn Độc lập mà Người sẽ đọc tại cuộc mít
tinh lớn ở Hà Nội, khiến cho Patti thú thực rằng "khơng cịn tin ở tai mình
nữa”. Sau hơn ba thập kỷ với biết bao chính biến thăng trầm của lịch sử, viên sĩ
quan tình báo Mỹ L.A Patti đã công khai tự thuật sự kiện trên một cách sinh
động, hấp dẫn và nghiêm túc trong tác phẩm Why Việt Nam? (Tại sao Việt
Nam?). Rõ ràng, ngay trong thời kỳ đầu lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động đặt nền móng mối quan hệ ngoại

giao thân thiện giữa Việt Nam với Chính phủ và nhân dân các nước trên thế
giới, trong đó có nước Mỹ và nước Pháp. Thế nhưng, cơ hội lịch sử đó đã bị
chính phủ đương thời ở Mỹ và ở Pháp bỏ qua, đúng vào thời điểm nhân dân
Việt Nam cùng sát cánh đứng về phía phe Đồng minh để loại trừ chủ nghĩa
12


phát xít tàn bạo.Như vậy, xét trên nhiều phương diện, có thể khẳng định bản
Tun ngơn Độc lập ngày 2-9-1945 là sự kết tinh tâm huyết của dân tộc Việt
Nam trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; thể hiện truyền thống, khí
phách quật cường, bản lĩnh và ý chí quyết tâm sắt đá trong đấu tranh để giành
và giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc.
Nhưng thực dân Pháp vẫn không chịu từ bỏ âm mưu biến Việt Nam
thành thuộc địa vĩnh viễn của chúng. Lúc này, đế quốc Mỹ cũng đang thừa cơ
lăm le tìm mọi thủ đoạn để nhảy vào độc chiếm Đông Dương nói chung và
xâm chiếm nước Việt Nam độc lập nói riêng. Trong bối cảnh lịch sử đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ đối tượng kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của
cách mạng Việt Nam và của nhân dân u chuộng hịa bình trên thế giới. Nếu
như trong hơn 30 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung lên án đối tượng
kẻ thù chủ yếu của cách mạng là chủ nghĩa thực dân Pháp, với bản "Yêu sách 8
điểm" nổi tiếng, gửi Hội nghị Versailles vào đầu năm 1919; hay "Bản án chế
độ thực dân Pháp” năm 1925..., thì nay, trước tình hình thế giới và trong nước
phát triển rất mau chóng, bằng sự nhạy cảm về chính trị và tầm nhìn chiến lược
sâu rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và nhận rõ nguy cơ nền độc lập
của dân tộc vừa mới giành được đang đứng trước sự đe dọa từ đối tượng kẻ thù
mới là đế quốc Mỹ. Chính vì vậy, Người đã làm tất cả để phân hóa kẻ thù,
tranh thủ từng đối tượng, kể cả khi long trọng khởi đầu bản Tun ngơn Độc
lập của dân tộc mình bằng sự viện dẫn những nội dung tinh túy nhất trong
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.Trên cơ sở pháp
lý và chính nghĩa, Tun ngơn Độc lập năm 1945 đã trở thành một văn kiện

mẫu mực về nghệ thuật phân hóa,cơ lập kẻ thù để loại bỏ từng kẻ thù nguy
hiểm của cách mạng. Đứng trước dã tâm xâm lược trở lại Việt Nam của thực
dân Pháp, bản Tuyên ngôn Độc lập cũng đã lột rõ bộ mặt "bảo hộ" giả nhân,
giả nghĩa, núp dưới bóng cờ quân Đồng minh của thực dân Pháp.
Bằng những lập luận đanh thép và vững chắc, Tuyên ngôn Độc lập đã
chỉ cho toàn thế giới thấy rõ một thực tế lịch sử là: Từ mùa thu năm 1940, thực
13


dân Pháp đã quỳ gối đầu hàng, dâng đất nước ta cho bọn phát xít Nhật. Cho
nên, sự thực cũng từ đó, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Nhật. Chính từ
đây, Mặt trận Việt Minh đã lãnh đạo toàn dân đứng lên đấu tranh để giành lại
nước Việt Nam từ tay phát xít Nhật.Do đó, cơ sở pháp lý về sự tồn tại quyền
lợi của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng như trên tồn Đơng Dương khơng còn
nữa. Các Hiệp nghị Teheran và Cựu Kim Sơn đã chỉ rõ: nếu các nước Đồng
minh đã công nhận quyền dân tộc tự quyết của các nước đã bị phát xít chiếm
đóng, thì "quyết khơng thể khơng cơng nhận quyền độc lập của dân Việt
Nam".Những lập luận dựa trên cơ sở pháp lý quốc tế và rất đanh thép đã đặt cả
chủ nghĩa thực dân cũ và mới vào tư thế của những kẻ can thiệp và xâm lược,
khi chúng núp dưới bóng cờ của qn Đồng minh để thơn tính đất Việt Nam.
Vì vậy, bản Tun ngơn Độc lập đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về xác định rõ đối tượng cần tranh thủ, cần phân hóa;
đồng thời, thể hiện tính chủ động, linh hoạt, cần kíp trong tiến cơng cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết thúc bản Tun ngơn Độc lập hùng tráng bằng lời
tuyên bố trịnh trọng và đanh thép, đáp ứng nguyện vọng thiết tha ngàn đời của
nhân dân Việt Nam: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy".Đã 58 năm trôi qua kể từ khi bản Tun ngơn Độc lập được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-9-1945,

đất nước Việt Nam ta đã có nhiều đổi thay lớn lao trên con đường tiến lên cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh" , dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuyên
ngôn Độc lập năm 1945; đã đóng góp xứng đáng vào cuộc đấu tranh chung của
nhân loại vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế quốc; mở ra một
kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên
đất nước Việt Nam thân yêu.
14


- Ý nghĩa
- Bản Tuyên ngôn Độc lập là thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với
chủ nghĩa Mác -Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
- Bản Tun ngơn cịn cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm nhìn
chiến lược về sự phát triển của đất nước, có những dự báo thiên tài về tương lai
của cách mạng cũng như quá trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam vào phong
trào cách mạng thế giới.
- Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), do Chủ tịch Hồ Chí
Minh trực tiếp soạn thảo và cơng bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế
giới cho thấy trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc của Người. Đây là kết quả của một quá
trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất quán một chân lý hết sức
giản dị nhưng có tầm khái quát cao là: Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người mãi mãi soi sáng đường chúng ta đi.
-

73 năm đã trôi qua, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tun


ngơn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng
trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
-

Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực cịn nhiều

diễn biến rất phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời
cơ và thách thức. Toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường củng cố quốc
phòng-an ninh; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Tuyên ngôn Độc lập cùng lời hiệu triệu đanh thép và trường tồn
ấy vẫn ln ln tươi rói trong sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
15


Tun ngơn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định về mặt
pháp lý quyền làm chủ của nhân dân ta, từ địa vị nô lệ đứng lên giành độc lập,
tự tổ chức ra nhà nước của mình. Áng hùng văn bất hủ này thực sự là một Di
sản văn hóa và tư tưởng Việt Nam để khẳng định quyền tự chủ của dân tộc.
Đọc TNĐL của Bác Hồ, chúng ta nhận ra qua từng lời văn với ngơn ngữ rất
chắt lọc của Bác, khơng những mang tính pháp lý hiện đại, có tầm quốc tế về
nội dung, mà cịn mang đậm hồn Việt, bản sắc văn hóa dân tộc Việt.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại cuộc
kháng chiến giành độc lập của Hoa Kỳ, do Thô-mat Giê-phe-son soạn thảo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thay đổi một ý so với bản tuyên ngôn của Thô-mat
Giê-phe-son. Câu “Chúng tôi ủng hộ một sự thật hiển nhiên rằng mọi người

đều sinh ra bình đẳng” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngắn gọn, dễ hiểu
hơn:“Mọi dân tộc sinh ra đều bình đẳng”. Quả là một sự thay đổi khéo léo và
sáng suốt theo văn phong Việt, phong cách Việt, tính quần chúng hóa rất cao.
Từ chỗ mọi người, Bác đã đưa ra khái niệm lớn hơn, bao quát hơn: Mọi
dân tộc, mang đầy đủ ý nghĩa quốc tế vơ sản. Đó là một sự suy rộng mang
đậm nét Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguyên văn trong TNĐL, Bác Hồ dùng cách
diễn đạt “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là giấy khai sinh cho một Nhà nước Việt
Nam theo thể chế Dân chủ vì mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà cịn
đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại bằng sự suy rộng ra thành chân lý
mang tầm thời đại. Cũng theo quan điểm, tư tưởng quốc tế vơ sản, từ cách nhìn
“tồn cầu hóa”, tháng 5-1969, trong Di chúc để lại cho muôn đời con cháu mai
sau, Người đã viết: “... Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần
đắc lực vào việc khơi phục lại khối đồn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình. Tơi tin chắc
rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”.
16


Giá trị rất quan trọng của TNĐL là một văn bản pháp lý rất hiện đại phù
hợp với sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của tất cả các dân
tộc bị áp bức, bị nô dịch trên thế giới. Nó khẳng định địa vị pháp lý của nền
độc lập và chủ quyền một quốc gia với toàn thế giới, nhất là cộng đồng các
quốc gia, các dân tộc đang vươn tới giành tự do, độc lập. Đánh giá về quá trình
khởi thảo bản TNĐL, một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ, ơng A-Pat-ti, phụ trách
đơn vị OSS cộng tác với Việt Minh trong những năm kháng chiến chống thực
dân Pháp, cho rằng: Ngay sau khi nhận được tin phát xít Nhật đầu hàng, nhận
thấy thời cơ đã tới, Hồ Chí Minh “đã hành động một cách kiên quyết và nhanh

chóng, vì ơng phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng vững chắc ở Hà Nội,
Huế, Sài Gịn. Ơng Hồ biết rằng, ơng phải làm cho mọi người thấy rõ cả tính
hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào...”.
Để nâng cao giá trị của bản TNĐL vừa mang tính hiện đại, khoa học,
dân tộc và đại chúng, sau khi soạn thảo, Bác đã đem bản thảo trao đổi để lấy ý
kiến khơng chỉ đối với các đồng chí trong đồn thể của mình mà cịn đọc cho
những người dân bình thường nghe, với lịng mong muốn nó đến được với
mọi đồng bào của mình để làm cho họ có ý thức về một biến cố lịch sử rất to
lớn đối với vận mệnh của cả dân tộc.“Tơi nói đồng bào nghe rõ
khơng?”... Riêng câu nói đó trước khi chính thức đọc bản TNĐL tại Quảng
trường Ba Đình đã tốt lên tính dân tộc, tính đại chúng trong cách nói và viết
của Người. Nó thực sự gần gũi với vận mệnh của mỗi con người, nay đã được
gọi là công dân của một nước độc lập theo mục tiêu của một thể chế ưu việt:
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Trích dẫn những câu chữ rất chọn lọc trong Tuyên ngôn Độc lập của
nước Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp,
Bác Hồ muốn mọi công dân Việt Nam và các dân tộc trên thế giới hiểu rằng:
Hai nước thực dân, đế quốc to trên thế giới “tuyên bố” như thế, nhưng lại đi
xâm lược, tước đoạt quyền tự do, độc lập của các dân tộc khác. Từ đó, lên án
thực dân Pháp, đứng sau là quan thầy Mỹ, đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng,
17


bác ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta trong 80 năm, trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa. Sử dụng những trích dẫn ấy, vị Chủ tịch của Nhà nước
Việt Nam độc lập còn muốn khẳng định rằng ngay cách mạng Việt Nam cũng
là sự nối tiếp trên con đường phát triển tất yếu của nhân loại. Những gì đã diễn
ra sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã minh chứng một sự thực về
nguyện vọng giải phóng của các nước nhỏ khỏi sự đè nén của các nước lớn.
Để chứng minh cái quyền tất yếu của dân tộc ta: "Tất cả mọi người đều

sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hố cho họ những quyền khơng ai có thể xâm
phạm được. Đó là “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. Đây là một Tuyên bố Nhà nước, một văn bản Quốc gia chính thức. Vì
thế, theo thơng lệ của các chuẩn mực, người viết đã chọn dùng ngôn ngữ luật
pháp chứ khơng phải ngơn ngữ hành chính để thể hiện. Theo đó, tác giả đã
khơng xuất phát từ cái ý chủ quan của riêng mình mà bắt đầu văn bản bằng
việc nêu lên một chân lý khách quan, vốn đã thấy trên chính trường quốc tế.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã khai sinh ra một nước Việt Nam
độc lập. Nước Việt Nam độc lập thì tiếng Việt cũng được độc lập. Độc lập là
tiếng nói và chữ viết trở thành chính danh. Mệnh đề ấy rất đơn giản nhưng lại
hồn tồn khơng đơn giản chút nào trong sự nghiệp đấu tranh cho văn hoá của
dân tộc Việt Nam.
Đã là tun ngơn thì phải nói ngay được cái chân lý, cái cốt lõi. Các
phân tích ngơn từ triển khai tiếp theo sẽ bám vào đó mà thể hiện các lập luận.
Ngôn ngữ văn bản này được viết rất giản dị nhưng tổ chức cực kỳ chặt chẽ.
Các liên kết lô gích và liên kết mạch lạc làm nịng cốt cho việc triển khai các
lập luận cơ bản. Đó liên tục là một chuỗi của các lập luận: Lập luận về quyền
dân tộc, lập luận về việc thực dân Pháp vi phạm các quyền đó, lập luận về thời
cơ của vận nước, lập luận về quyền và trách nhiệm của dân tộc Việt Nam, lập
luận về quyết tâm của chính phủ và nhân dân Việt Nam trong việc giữ gìn
quyền độc lập và tự do. Một đặc trưng khác là cùng với lập luận chặt chẽ, lời
văn của Tuyên ngôn hết sức trang trọng.
18


Ngôn ngữ của Tuyên ngôn Độc lập là ngôn ngữ của một văn kiện chính
trị lớn, hướng đến một cơng chúng lớn mà đối tượng đích là “Quốc dân và Thế
giới”. Nội dung truyền thông trong bản bố cáo rất lớn lao, có ý nghĩa vận mệnh
của Quốc gia và Dân tộc. Dễ dàng nhận ra là tác giả đã viết văn bản trong một
sự hào sảng cao độ, các cảm xúc như trào lên ngọn bút quanh hai từ Độc lập và

Tự do. Ngôn ngữ luật pháp được vận dụng triệt để, các phát ngơn đầy tính nhân
văn và lịch lãm, nhưng không màu mè và giả tạo, không lên gân mà rất tự
nhiên, trung thực. Quan điểm của người nói khi phát ngơn rất chân thành và tha
thiết nhưng cũng rất kiên định và cương quyết.
Đã 66 năm, từ Bản “Tun ngơn Độc lập” do Bác Hồ kính yêu của
chúng ta soạn thảo và đã đọc tại Quảng trường Ba Đình, dân tộc ta đã trải qua
hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ với biết bao hy sinh mất mát, nhưng
đã “đánh thắng hai để quốc to là Pháp và Mỹ”, mọi người dân Việt Nam đều
thấm nhuần sâu sắc và ln ln mang bên mình như một thứ hành trang
khơng thể thiếu được. Đó là lời hiệu triệu của Bác: “Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do độc lập ấy”. Giá trị của Tuyên ngôn Độc lập cùng lời hiệu triệu
đanh thép và trường tồn ấy vẫn luôn luôn tươi rói trong sự nghiệp đổi mới,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-

Giá trị thời đại của bản tuyên ngôn độc lập

Tuyên ngôn độc lập đã trực tiếp khẳng định với thế giới về các quyền cơ
bản mà nhân dân Việt Nam vừa giành được. Nhưng xét theo nội dung, tính
chất và cả thời điểm ra đời, Bản tuyên ngơn hồn tồn khơng phải là một sự
kiện riêng lẻ, cá biệt mà là một xu thế tất yếu của thời đại.
Các quyền dân tộc cơ bản được khẳng định mạnh mẽ trong Tuyên ngôn
độc lập Việt Nam không phải là một cái gì chỉ riêng biệt Việt Nam. Trước và
cả khi Tuyên ngôn độc lập Việt Nam được truyền đi rộng rãi đến các quốc gia
trên thế giới thì các cường quốc thực dân, nhân danh những kẻ thắng trận và
những kẻ tự phong cho mình “sứ mệnh” bảo vệ các dân tộc đang toan tính với
19




×