ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
DƯƠNG MINH NGỌC
ĐƯỜNG LỐI CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN
PHÁP
(QUA VĂN KIỆN ĐẢNG 1945 - 1954)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
...................................................................
DƯƠNG MINH NGỌC
ĐƯỜNG LỐI CHIẾN TRANH NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
(QUA VĂN KIỆN ĐẢNG 1945 - 1954)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5.03.16
LUẬN VĂN THẠC SĨ SỬ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG HỒNG
HÀ NỘI - 2004
LI CAM OAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Công trình này đ-ợc thực hiện d-ới sự h-ớng dẫn của Tiến sĩ
Sử học Hoàng Hồng.
Các kết quả nêu trong luận văn ch-a đ-ợc công bố trong công
trình nào khác.
Các số liệu, tài liệu đ-ợc sử dụng trong luận văn là trung thực,
bảo đảm tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ
rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2004.
Tác giả luận văn
D-ơng Minh Ngọc
Mục lục
Trang:
Mở đầu
Ch-ơng 1
1
Văn kiện Đảng 1945-1954 và nguồn tài liệu về đ-ờng
lối chiến tranh nhân dân của Đảng...................................
1.1.
Văn kiện Đảng 1945-1954, nguồn tài liệu lịch sử quan
trọng......................................................................................
1.2.
7
Hệ thống tài liệu về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của
Đảng trong văn kiện Đảng 1945-1954 .................................
Ch-ơng 2
7
26
Những vấn đề cơ bản về đ-ờng lối chiến tranh nhân
dân của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp (qua văn kiện Đảng 1945-1954) .......................
2.1.
50
Mục đích, tính chất, nhiệm vụ và đối t-ợng của cách mạng
Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm l-ợc ..............................................................................
2.2.
51
Ph-ơng châm chiến l-ợc của chiến tranh nhân dân Việt
Nam chống thực dân Pháp xâm l-ợc d-ới sự lãnh đạo của
Đảng ....................................................................................
70
2.3.
Triển vọng kháng chiến .......................................................
119
Ch-ơng 3
Giá trị thực tiễn và lý luận của đ-ờng lối chiến tranh
nhân dân của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp ....................................................................
3.1.
Giá trị thực tiễn của đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của
Đảng thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp .................
3.2.
125
125
Giá trị lý luận của đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của
Đảng thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp .................
141
Kết luận. ......................................................................................................
158
Tài liệu tham khảo
163
......................................................................................
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã có lịch sử phát triển lâu dài. Đó là
một thứ bảo bối của dân tộc Việt Nam, giúp dân tộc Việt Nam đánh bại
những đội quân xâm l-ợc lớn mạnh.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, chiến tranh nhân dân Việt Nam đã phát huy cao độ sức mạnh của mình.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l-ợc, đ-ờng lối
chiến tranh nhân dân của Đảng đã phát triển ngày càng phong phú, đáp ứng
yêu cầu của kháng chiến nên đã giành thắng lợi to lớn.
Nội dung đ-ờng lối chiến tranh nhân dân Việt Nam đ-ợc thể hiện một
cách rõ ràng, cơ bản, sâu sắc và khoa học trong các văn kiện Đảng ở thời kỳ
này. Nghiên cứu, tìm hiểu về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân Việt Nam qua
văn kiện của Đảng trong những năm 1945 - 1954, chúng ta sẽ thấy rõ cơ sở
thực tiễn và chứng cứ để tạo dựng sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống lại thực dân Pháp xâm l-ợc.
Văn kiện Đảng Toàn tập (xuất bản lần thứ nhất từ năm 1998) là bộ
sách lớn trong di sản t- t-ởng - lý luận của dân tộc mà tác giả là Đảng Cộng
sản Việt Nam[20, VI]. Bộ sách bao gồm những tài liệu chính thức và xác
thực của Đảng, thể hiện bản chất cách mạng, tính khoa học và tính sáng tạo
của Đảng, thể hiện sự thống nhất về t- t-ởng và chính trị trong Đảng. Nghiên
cứu và tìm hiểu về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp thông qua văn kiện Đảng thời kỳ 1945 - 1954 (Văn kiện Đảng
Toàn tập từ Tập 8 đến Tập 15) sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn chân thực,
toàn diện và có hệ thống về những hoạt động cách mạng của Đảng và nhân
dân. Từ đó, chúng ta sẽ nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò và công lao to
2
lớn của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cũng nh- trong toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong xây dựng nền khoa học quân sự Việt Nam hiện đại, không thể
bỏ qua việc nghiên cứu đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là qua nguồn t- liệu chính thống
của Đảng - văn kiện Đảng 1945 - 1954.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: Đ-ờng lối chiến
tranh nhân dân của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp (qua văn kiện Đảng 1945 - 1954) để tìm hiểu và làm sáng tỏ hơn bản
chất cách mạng và tinh thần sáng tạo thể hiện trong đ-ờng lối chiến tranh
nhân dân của Đảng lãnh đạo và chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Qua đó, khẳng định vai trò và công lao to lớn của Đảng trong sự nghiệp
cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời, góp phần củng cố niềm tin vững
chắc vào sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đ-ờng lối chiến tranh nhân dân Việt Nam nói chung và đ-ờng lối
chiến tranh nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng là
một vấn đề rất lớn, đ-ợc nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau
của khoa học lịch sử và khoa học quân sự quan tâm. Có thể tổng hợp các
công trình nghiên cứu và tác phẩm liên quan đến vấn đề này thành những
nhóm cơ bản sau:
Một là, các công trình và hồi ký của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà
n-ớc, các nhà cách mạng lão thành, những ng-ời từng sống và hoạt động
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Tiêu biểu là các tác phẩm:
Chiến tranh nhân dân Việt Nam của Hồ Chí Minh (NXB Quân đội nhân dân,
1980); Bàn về chiến tranh nhân dân và lực l-ợng vũ trang nhân dân của Hồ
Chí Minh, Lê Duẩn, Tr-ờng Chinh,... (NXB Quân đội nhân dân, 1966); Kháng
3
chiến nhất định thắng lợi của Tr-ờng Chinh (NXB Sự thật, 1947); Chiến tranh
nhân dân của Lê Duẩn (NXB Trần Phú, Nam Bộ, 1951); Chiến tranh nhân
dân và quân đội nhân dân (NXB Sự thật, 1959); Đ-ờng lối quân sự của Đảng
là ngọn cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở n-ớc ta (NXB
Quân đội nhân dân, 1973); Sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân Việt
Nam trong thời đại mới (NXB Sự thật, 1976);... của Võ Nguyên Giáp; Lịch sử
nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong 30 năm chiến tranh chống Pháp, Mỹ
của Hoàng Minh Thảo chủ biên (NXB Quân đội nhân dân, 1995); v.v.. Đây là
các tác phẩm có giá trị lý luận chính trị quân sự.
Hai là, những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học về lịch sử
dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử quân sự... đề cập đến lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, đến đ-ờng lối kháng chiến chống thực dân Pháp, đ-ờng
lối chiến tranh nhân dân Việt Nam. Tiêu biểu là các tác phẩm: Thắng lợi vĩ
đại của chiến tranh nhân dân Việt Nam (NXB Quân đội nhân dân, 1973);
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954 (NXB Quân đội nhân dân,
1994); Hậu ph-ơng chiến tranh nhân dân Việt Nam của Viện lịch sử quân sự
Việt Nam (NXB Quân đội nhân dân, 1997); Bí mật về sức mạnh huyền thoại
của chiến tranh nhân dân Việt Nam của Nguyễn Đức Quý (NXB Mũi Cà
Mau, 2001); v.v..
Các công trình đ-ợc công bố d-ới nhiều hình thức khác nhau nh-: sách
nghiên cứu, hồi ký, bài viết đăng trên các tạp chí, báo cáo hội thảo khoa học...
Nhìn chung, các công trình đều tập trung làm sáng rõ nội dung đ-ờng lối của
cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta và vai trò của Đảng trong việc đề
ra chủ tr-ơng đ-ờng lối và tổ chức thực hiện nó trong thực tiễn. Các công trình
đã khái quát những nội dung lớn về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng,
khẳng định sức mạnh vô địch của nó là nhân tố quyết định thắng lợi trong
cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm l-ợc.... Những vấn đề liên quan đến nội
dung, vị trí, vai trò của chiến tranh nhân dân trong lịch sử cũng đ-ợc các nhà
4
nghiên cứu đề cập và b-ớc đầu chỉ ra những giá trị thực tiễn trong việc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân.
Ngoài các công trình nghiên cứu của tác giả trong n-ớc, còn có một số
tác phẩm của các tác giả n-ớc ngoài nghiên cứu về cuộc chiến tranh của nhân
dân Việt Nam chống lại chiến tranh xâm l-ợc của thực dân Pháp nh-: Paris Sài Gòn - Hà Nội (tài liệu l-u trữ của cuộc chiến tranh 1944-1947) của
Philippe Devillers; Chiến tranh Việt Nam thời kỳ thứ nhất 1889-1954 của
Chest (N.Y, 1976); Chiến tranh cách mạng Cộng sản - Việt Minh ở Đông
D-ơng của George K: Tanhan (NXB Prages - New York, 1962); v.v.. Đặc biệt,
còn có một số tác phẩm, bài viết của t-ớng lĩnh quân đội Pháp từng tham gia
cuộc chiến tranh xâm l-ợc của Pháp tại Đông D-ơng nh-: Đông D-ơng hấp
hối 1953-1954 và Thời điểm của những sự thật của Hăng-ri Na-va (NXB
Plông, Pari, 1956 và 1979); Đông D-ơng trong cơn lốc của Pôn Ê-ly (NXB
Plông, Pari, 1964); Cuộc chiến tranh Đông D-ơng của Lucien Bodard (xuất
bản tại Pari những năm 1963-1965-1967);v.v.. Đây là các công trình chủ yếu
nghiên cứu và phản ánh về mặt lịch sử chiến tranh. Trong đó, các tác giả đều
cố gắng để tìm ra một lời giải đáp thích đáng cho câu hỏi về nguyên nhân vì
sao quân đội lớn mạnh của thực dân Pháp đã bị đánh đến đại bại bởi một dân
tộc Việt Nam nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu. Các tác giả đ-a ra nhiều cách giải
thích khác nhau. Song, dù là bằng cách này hay cách khác thì cuối cùng, cả về
phía những ng-ời đã từng đứng bên kia chiến tuyến trong cuộc kháng chiến
của chúng ta, cũng đều phải đi đến sự thừa nhận, hay là sự chấp nhận một thực
tế mà nh- t-ớng H. Nava của Pháp đã thừa nhận, rằng: sự thua trận của Pháp
cũng nh- của cả Mỹ sau này là do đã phải đối đầu với một cuộc chiến tranh
toàn diện, đối đầu với một sức mạnh lớn từ một lực lượng mà ở đó chính
quyền, dân chúng và quân đội là một. [12, 64]
Có thể nói rằng, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về chiến tranh
nhân dân Việt Nam, về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân
5
Việt Nam. Với đề tài này, có thể nghiên cứu thông qua nhiều nguồn tài liệu
khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay, trong số các công trình đã công bố, ch-a
có một công trình chuyên khảo nào đi sâu vào việc nghiên cứu đ-ờng lối chiến
tranh nhân dân thông qua tập hợp sử liệu trong nguồn văn kiện Đảng thời kỳ
1945 - 1954.
Vì vậy, việc tiếp tục tìm hiểu đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng
thông qua s-u tầm, mô tả sử liệu qua các văn kiện Đảng thời kỳ 1945 - 1954
sẽ góp phần làm sáng tỏ đ-ờng lối đúng đắn, sáng suốt của Đảng trong lãnh
đạo, chỉ đạo kháng chiến; đồng thời, góp phần cung cấp một nguồn t- liệu
đ-ợc hệ thống và dễ tiếp cận cho các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu về vấn
đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài: tìm hiểu quá trình hình thành đ-ờng lối chiến
tranh nhân dân của Đảng thông qua việc khảo cứu nguồn văn kiện Đảng 19451954 nhằm góp phần làm rõ tính độc đáo, đặc sắc của chiến tranh nhân dân
Việt Nam, tính đúng đắn, sáng tạo của đ-ờng lối kháng chiến; khẳng định sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp và trong
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của dân tộc; từ đó, củng cố niềm tin vào sự lãnh
đạo của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới của đất n-ớc.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Nhận thức, đánh giá về nguồn tài liệu phản ánh đ-ờng lối chiến tranh
nhân dân của Đảng trong văn kiện Đảng 1945 - 1954.
+ Trình bày nội dung đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng thông
qua việc khảo sát nguồn tài liệu văn kiện Đảng 1945 - 1954.
+ Nêu kết quả, tác dụng của đ-ờng lối đó đối với cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc, những đóng góp về mặt lý luận của nó đối với nền khoa
học quân sự hiện đại Việt Nam.
6
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp (qua văn kiện Đảng 1945 - 1954) đi sâu tìm hiểu
về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng đã đ-ợc hình thành và hoàn chỉnh
trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Đề tài không đi sâu tìm
hiểu việc tổ chức và thực hiện đ-ờng lối trong thực tiễn kháng chiến.
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã vận dụng nhiều ph-ơng pháp
nghiên cứu. Trong đó, nổi bật là ph-ơng pháp lịch sử kết hợp với ph-ơng pháp
lo-gic, thống kê, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp...
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài đ-ợc
chia làm 3 ch-ơng nh- sau:
Ch-ơng I. Văn kiện Đảng 1945 - 1954 và nguồn tài liệu về đ-ờng lối
chiến tranh nhân dân của Đảng
Ch-ơng II. Những vấn đề cơ bản về đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của
Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (qua văn kiện Đảng
1945 - 1954)
Ch-ơng III. Giá trị lý luận và thực tiễn của đ-ờng lối chiến tranh nhân
dân của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
7
Ch-ơng 1
Văn kiện Đảng 1945 - 1954 và nguồn tài liệu về
đ-ờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng
1.1.
Văn kiện Đảng 1945 - 1954, nguồn tài liệu lịch sử quan trọng
1.1.1. Bối cảnh hình thành nguồn tài liệu văn kiện Đảng 1945- 1954
Mùa thu năm 1945, những diễn biến mới của tình hình thế giới đã tạo
ra điều kiện đặc biệt thuận tiện cho cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo
sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Đông D-ơng, toàn thể dân tộc Việt
Nam đã đoàn kết và hăng hái đứng lên chiến đấu với ý chí quyết tâm dù có
phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập. Từ giữa tháng 8 - 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn
ra hết sức sôi nổi và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ta đã giành thắng lợi cơ bản
trên toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám thành công.
Cách mạng Tháng Tám thành công đã lật nhào ngai vàng phong kiến
tồn tại hàng nghìn năm, phá tan xiềng xích nô lệ thực dân gần 100 năm, giành
lại chính quyền cho nhân dân, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc
Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến tới chủ nghĩa xã hội; đem lại
một cuộc đổi đời chưa từng có đối với mỗi người Việt Nam[16, 13], đưa
nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ lên địa vị những ng-ời làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn
trong lịch sử của nước ta[26, 20]. Với thắng lợi này, Chẳng những giai cấp
lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu
tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một
đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toàn quốc.[26, 19]
8
Cách mạng Tháng Tám thành công, chúng ta đã tiến một b-ớc dài trên
con đ-ờng lịch sử, đánh đổ đế quốc và chế độ phong kiến, nhiệm vụ tiếp theo
là phải kiến thiết một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.[22, 5] Ngày 2-91945, tại v-ờn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm
thời đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh n-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
tuyên bố trước thế giới quyền phải được tự do!, phải được độc lập! của
dân tộc Việt Nam; đồng thời khẳng định: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực l-ợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy.[21, 436- 437]
N-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thành lập, bao nhiêu xiềng xích
đã đ-ợc cởi bỏ, Chính phủ cùng với nhân dân cả n-ớc hân hoan, phấn khởi bắt
tay ngay vào việc xây dựng, tổ chức lại đất n-ớc, cải thiện đời sống cho nhân
dân. Tuy nhiên, do hậu quả của chính sách cai trị của thực dân và phát xít, sự
tàn phá của chiến tranh và thiên tai, nên việc kiến thiết lại n-ớc nhà gặp vô số
khó khăn.
Về mặt chính trị, chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân do Chủ tịch
Hồ Chí Minh đứng đầu, tuy có uy tín to lớn trong nhân dân cả n-ớc, nh-ng
vừa mới thành lập, nên còn non trẻ, còn thiếu nhân tài, cán bộ còn lúng túng
và ch-a có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý và xây dựng đất n-ớc.
Lực l-ợng chính trị quần chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất tuy đã phát
triển nhanh, nh-ng còn phải tiếp tục đ-ợc củng cố vững chắc và mở rộng hơn
nữa. Bên cạnh đó, Nhà n-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời ch-a đ-ợc
n-ớc nào trên thế giới công nhận, nên ch-a nhận đ-ợc sự ủng hộ, giúp đỡ từ
các lực l-ợng cách mạng thế giới.
Về mặt quân sự, lực l-ợng vũ trang quân đội đang trong quá trình xây
dựng, nên còn rất mỏng, tổ chức ch-a đ-ợc chu đáo, trang bị vũ khí, kỹ thuật
còn thô sơ. Lực l-ợng vũ trang đ-ợc phát triển lên từ các đội vũ trang đánh du
kích, vốn chủ yếu là để hỗ trợ nhân dân đấu tranh chính trị và khởi nghĩa
9
giành chính quyền; hầu hết họ đều xuất thân từ giai cấp nông dân, cho nên
kinh nghiệm chiến đấu còn quá ít và kết quả huấn luyện còn kém. Mặt khác,
chúng ta còn ch-a có một nền công nghiệp sản xuất vũ khí, ch-a có một nền
kinh tế, tài chính phục vụ chiến tranh, cũng nh- thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ
quân sự đ-ợc đào tạo chính quy, có kinh nghiệm chỉ huy, tác chiến.
Về kinh tế và tài chính, sau gần một thế kỷ d-ới ách cai trị, bóc lột tàn
bạo của thực dân Pháp và chính sách vơ vét đến cùng kiệt của phát xít Nhật,
nền kinh tế n-ớc ta vốn đã rất nghèo nàn, lạc hậu lại càng thêm xơ xác tiêu
điều; hạn hán, lũ lụt liên tiếp, đã đẩy đến nạn đói khủng khiếp từ cuối năm
1944 đến đầu năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta chết đói; hơn 50%
ruộng đất trong Nam và 25% ruộng đất ngoài Bắc bị bỏ hoang. Nền công
nghiệp n-ớc ta hầu nh- không có gì, tiểu thủ công nghiệp đình đốn. Nền tài
chính kiệt quệ, kho bạc hầu nh- trống rỗng, chỉ còn vẻn vẹn 1.230.720 đồng
tiền giấy, trong đó có đến 586.000 đồng rách nát không tiêu đ-ợc. Ngân hàng
Đông D-ơng vẫn nằm trong tay t- bản Pháp. Thêm vào đó, bọn T-ởng tung
tiền quan kim vào thị tr-ờng càng làm cho thị tr-ờng giá cả, tiền tệ rối loạn
thêm.
Về xã hội, đời sống của nhân dân lao động hết sức khó khăn, thiếu
thốn; nạn đói, nạn thất nghiệp, nạn mù chữ (hơn 90% dân ta mù chữ) và các tệ
nạn xã hội khác do chế độ cũ để lại hết sức nghiêm trọng.
Từ những ngày đầu tiên của n-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu nhiệm vụ cấp bách của n-ớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà: thứ nhất là phải giải quyết nạn đói; thứ hai là phải giải quyết
nạn dốt; thứ ba là phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu; thứ t- là phải giáo dục lại tinh thần nhân dân; thứ
năm là bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, tuyệt đối cấm hút thuốc phiện; thứ sáu
là thực hiện tự do tín ng-ỡng và đoàn kết l-ơng giáo.[22, 1-3]
10
Đó là những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết để khắc phục những khó
khăn trở ngại cho việc bảo vệ đất n-ớc và xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên,
trong công cuộc bảo vệ đất n-ớc và xây dựng xã hội mới, khó khăn lớn nhất,
mối nguy hại lớn nhất bao trùm lên tất thảy chính là mối hoạ ngoại xâm.
Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai gần kết thúc, bọn đế quốc thực dân
phản động Anh, Pháp, Mỹ, Tàu đã ngồi lại thoả hiệp với nhau, trong đó có
thoả thuận việc trả lại quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. Như một
màn mây xám xịt, cuộc thoả thuận của các thế lực phản động đang đòi che tắt
đi ánh sáng của hoà bình và tự do đã đ-ợc đổi bằng cả thế kỷ tranh đấu của
dân tộc Việt Nam mới có đ-ợc. Tuy nhiên, âm m-u đen tối của bọn chúng đã
đ-ợc Đảng ta dự đoán đúng ngay từ rất sớm.
Từ ngày 1-7-1945, trong Lời kêu gọi của Uỷ ban quân sự cách mạng
Bắc kỳ, Đảng đã dự đoán: bọn Pháp Đờ Gôn đang lăm le trở lại, tái lập ách
của chủ nghĩa đế quốc Pháp lên cổ đồng bào. Quân Đồng minh sẽ vào Đông
D-ơng đánh Nhật. N-ớc ta sẽ biến thành sân khấu của những cuộc chiến đấu
gay go.[21, 552] Toàn quốc hội nghị Đảng Cộng sản Đông D-ơng, ngày 158-1945, cũng dự đoán: Sự mâu thuẫn giữa Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô có thể
làm cho Anh, Mỹ nhân nh-ợng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông
Dương.[21, 427] Hiệu triệu của đại biểu Việt Minh đọc tr-ớc 20 vạn đồng
bào Hà Nội, ngày 19-8-1945, cũng khẳng định: bọn đế quốc Pháp nuôi
cuồng vọng khôi phục chủ quyền ở Đông D-ơng đang ngóc đầu lăm le hoạt
động, chúng ta cần phải có một thái độ thật rõ rệt, thật đ-ờng hoàng, thật
cương quyết!, nếu cần, phải quyết chiến, chống những cuộc xâm lăng của
chúng cũng như của tất cả các đế quốc khác[21, 566-567].
Tổng bộ Việt Minh hô hào quốc dân trong ngày độc lập cũng sớm xác
định: quyền độc lập của chúng ta hãy còn đương mong manh lắm. Giành
chính quyền là một việc khó. Nh-ng giữ vững chính quyền lại càng khó hơn.;
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tất còn gặp nhiều khó khăn nguy hiểm,
11
còn phải đối phó với âm m-u của Pháp chực khôi phục lại nền thống trị, cũng
như phải ngăn ngừa mọi trở lực ngăn cản bước đường tiến của chúng ta;
Giặc Pháp ngấp nghé trở lại Đông D-ơng đè đầu c-ỡi cổ ta một lần nữa. Ta
phải chuẩn bị đánh tan kế hoạch xâm lược dã man của chúng.[21, 569-570]
Sau đó, Chỉ thị của Ban chấp hành Trung -ơng về Kháng chiến kiến quốc,
ngày 25-11-1945, còn khẳng định lại: tháng Tám vừa rồi, nhờ được những
điều kiện đặc biệt thuận tiện nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa rồi t-ơng
đối dễ thắng lợi. Nh-ng việc giành chính quyền càng dễ bao nhiêu thì việc giữ
chính quyền càng khó bấy nhiêu.[22, 23]
Và thực tế đã diễn ra đúng nh- dự đoán của Đảng ta từ hồi đầu tháng 71945. Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và cũng là lúc dân tộc
Việt Nam d-ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông D-ơng đã chớp thời cơ
cách mạng chín muồi, tiến hành Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi to lớn, lập
nên n-ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì quân Đồng minh lũ l-ợt kéo vào
Đông D-ơng để giải giáp quân đội phát xít Nhật.
Từ cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1945, khoảng 20 vạn quân T-ởng
do t-ớng L- Hán cầm đầu, đã tiến vào miền Bắc n-ớc ta, đóng từ vĩ tuyến 16
trở ra. ở phía nam vĩ tuyến 16, ngày 6-9-1945, quân đội đế quốc Anh (và núp
sau l-ng quân đội Anh là quân đội Pháp) cũng kéo vào lãnh thổ n-ớc ta. Lợi
dụng danh nghĩa là quân Đồng minh giải giáp quân đội phát xít Nhật, các thế
lực này đã vào Đông D-ơng - Việt Nam cùng với những toan tính xấu xa,
đen tối.
Do Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc
và dân chủ thắng lợi đầu tiên ở một n-ớc thuộc địa tại Đông Nam á[26, 52],
lập nên chính quyền nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo; do tính cách
mạng triệt để của nó đồng nghĩa với việc cách mạng Việt Nam đi đầu trong
phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở khu vực, Chính vì thế nên bọn đế
quốc thế giới lo sợ và tích cực can thiệp, nguyện làm cho nó thất bại[26, 52].
12
Dù cho giữa chúng có những m-u đồ riêng và mâu thuẫn với nhau, nh-ng các
thế lực này vẫn câu kết với nhau để chống phá cách mạng Việt Nam hết sức
quyết liệt.
Đông D-ơng vốn là một thuộc địa giàu có của n-ớc Pháp, đ-ợc coi là
viên ngọc đẹp nhất trong chuỗi ngọc Viễn Đông. Vì thế, Pháp coi việc trở
lại khôi phục chủ quyền của mình ở Đông Dương là một phần nằm trong kế
hoạch khôi phục lại vị thế n-ớc Pháp sau chiến tranh.
Về phía đế quốc Anh, do lo sợ Đông D-ơng sau khi ra khỏi tay Nhật thì
sẽ lọt vào tay Mỹ làm cho so sánh lực l-ợng giữa Anh và Mỹ trong khu vực
này bất lợi cho mình. Cho nên, khi chiến tranh thế giới thứ hai đang tiếp diễn,
Anh đã chủ tr-ơng trao Đông D-ơng lại cho Pháp, để đổi lại Pháp sẽ nhân
nh-ợng cho Anh một số quyền lợi ở Trung Cận Đông và Châu Phi. Mặt khác,
Anh chủ tr-ơng trao lại Đông D-ơng cho Pháp còn là để ngăn chặn mối lo sợ
của các nước đế quốc, rằng: phong trào đòi độc lập ở Đông Dương sẽ làm
gương cho các thuộc địa, trong đó có những thuộc địa của Anh ở Đông Nam
á. Ngày 24-8-1945, Anh ký một thoả hiệp với Pháp về nguyên tắc và cách
thức khôi phục lại quyền lực của Pháp tại Đông D-ơng. Nh- vậy, m-ợn tiếng
là vào Đông D-ơng lột vũ trang của quân Nhật, nh-ng sự thật quân đội đế
quốc Anh là đội viễn chinh giúp thực dân Pháp m-u c-ớp lại n-ớc ta. [26, 21]
Về phía Mỹ, tuy cũng muốn tranh giành quyền lợi với Anh, Pháp ở
Đông D-ơng và Đông Nam á, nh-ng vì một lí do quan trọng hơn là Mỹ muốn
hoà hoãn với Anh, Pháp để cùng lập mặt trận bao vây Liên Xô. Do đó, Mỹ đã
quyết định hy sinh quyền lợi bộ phận ở Đông D-ơng, đứng về phía Pháp, ủng
hộ cuộc chiến tranh xâm l-ợc của n-ớc Pháp đối với Đông D-ơng. Bề ngoài,
tuy rằng vẫn nói dối Đông Dương là giữ thái độ trung lập, song thực chất
Mỹ đã ngầm giúp Pháp trở lại Đông D-ơng bằng cách cho Pháp m-ợn tàu đ-a
quân sang Đông D-ơng.[22, 24]
13
Về phía Trung Hoa dân quốc, mặc dù luôn có âm m-u thôn tính n-ớc
ta, song trong tình hình phải chuẩn bị cuộc nội chiến để tiêu diệt Đảng Cộng
sản Trung Quốc và đàn áp phong trào cách mạng trong n-ớc sau khi Mỹ và
Liên Xô rút quân, nên chính quyền T-ởng Giới Thạch cũng tỏ ý hoà hoãn,
thông đồng với Pháp trong việc Pháp trở lại Đông D-ơng. Quân T-ởng cũng
m-ợn danh nghĩa vào Đông D-ơng giải giáp quân đội Nhật, nh-ng kỳ thực
chúng có ba mục đích hung ác là: tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh và
giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập ra một
chỉnh phủ phản động làm tay sai cho chúng.[26, 21] Vì thế, khi vào n-ớc ta,
chúng đã kéo theo bè lũ ng-ời Việt phản động sống l-u vong ở Trung Quốc
(bọn Việt Quốc do Vũ Hồng Khanh và Nguyễn T-ờng Tam cầm đầu và bọn
Việt Cách do Nguyễn Hải Thần cầm đầu) ra sức tiến hành các hoạt động
chống phá chính quyền cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Ngoài lực l-ợng của quân đội T-ởng, Anh và Pháp, ở các thành phố,
các đô thị quan trọng trên lãnh thổ n-ớc ta còn có hơn 6 vạn quân Nhật. Đám
tàn quân này tuy đã đầu hàng Đồng minh nh-ng vẫn nguyên vũ khí, và một bộ
phận của chúng đã đ-ợc quân đội Anh sử dụng để đánh vào lực l-ợng vũ trang
của ta, dọn đ-ờng cho thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Sài Gòn.
Và ngay từ ngày 2-9-1945, giữa lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng
ngày tuyên bố độc lập thì bọn thực dân Pháp phản động đã núp trong các khu
nhà, xả súng vào đồng bào ta làm 47 ng-ời chết và nhiều ng-ời bị th-ơng.
Đến ngày 23-9-1945, nhận đ-ợc sự yểm trợ của quân Anh và quân Nhật, quân
Pháp đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh
xâm l-ợc n-ớc ta lần thứ hai.
Kể từ ngày 23-9-1945, nhân dân Nam Bộ đã phải đứng dậy kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm l-ợc. Đảng ta và nhân dân cả n-ớc đồng tâm kháng
chiến, h-ớng về Nam Bộ, sẵn sàng làm hết sức mình vì miền Nam thân yêu.
14
Nh- vậy, sau ngày giành đ-ợc độc lập ch-a đầy một tháng, n-ớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối phó với không chỉ thực dân Pháp xâm
l-ợc, mà còn phải đối phó với đế quốc Anh, Tàu... can thiệp và chống phá
quyết liệt. -ớc tính có khoảng 30 vạn quân quân đội n-ớc ngoài chiếm đóng
trên lãnh thổ Việt Nam. Chúng là những đội quân đế quốc phản động, đồng
loã, hà hơi tiếp sức cho bọn phản động ng-ời Việt ngóc đầu dậy chống phá
chính quyền cách mạng Việt Nam, giúp sức cho bọn thực dân Pháp trở lại
xâm l-ợc Việt Nam. Trong khi nội lực của n-ớc Việt Nam mới vẫn còn ch-a
kịp đ-ợc củng cố và phát triển, thì sự trở lại của thực dân Pháp xâm l-ợc và sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã đẩy cách mạng Việt Nam vào
tình thế hết sức gay go. Nh- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát, chính quyền
cách mạng ta đang phải đương đầu với ba thứ giặc- giặc đói, giặc dốt, giặc
ngoại xâm. Vận mệnh của dân tộc, của cách mạng n-ớc ta đang bị đặt tr-ớc
tình thế ngàn cân treo sợi tóc.
Tình thế hiểm nguy của vận mệnh Tổ quốc, vận mệnh dân tộc đặt ra
cho Đảng ta nhiều điều mới mẻ và rất phức tạp. Đảng đã phải dùng mọi cách
để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và hiệu quả hơn
[26, 21]. Trong một thời gian dài (từ ngày 11-11-1945 đến tháng 2-1951),
Đảng phải tạm rút lui vào hoạt động bí mật d-ới các danh nghĩa Hội, Đoàn thể
để lãnh đạo chính quyền và nhân dân chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ và
củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Để có thể lãnh đạo thành công công cuộc chống thù trong giặc ngoài,
bảo vệ chính quyền cách mạng, điều tr-ớc hết và cơ bản nhất là Đảng phải
vạch ra đ-ợc một đ-ờng lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo để đánh thắng
kẻ thù.
Mặc dù đã sớm nhận định đ-ợc tình hình và âm m-u của chúng, nh-ng
trong hoàn cảnh đất n-ớc còn ch-a đủ thực lực để có thể tiến hành ngay cuộc
kháng chiến trên phạm vi cả n-ớc, nên tr-ớc mắt, Đảng chủ tr-ơng ta phải hết
15
sức đề phòng, vừa tích cực chuẩn bị, vừa tìm mọi cách để tránh, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh, kiên trì đấu tranh chính trị và ngoại giao, nhằm triệt để tranh
thủ khả năng hoà bình, xây dựng thực lực cho cách mạng.
Đánh giá âm m-u và thủ đoạn hành động của các kẻ thù, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân
Pháp xâm l-ợc. Quân T-ởng tuy có m-u đồ hung ác đối với ta, nh-ng trong
nội bộ chúng đang có mâu thuẫn và có nhiều khó khăn, nên chúng không thể
thực hiện đ-ợc m-u đồ của mình. Do đó, để tập trung lực l-ợng chống Pháp,
chúng ta cần hợp tác tích cực với quân T-ởng trong việc giải giáp quân Nhật
và tự kiềm chế tr-ớc những hành động khiêu khích của chúng, tránh xảy ra
xung đột quân sự.
Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng,
giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập, thống nhất đất
n-ớc, Đảng và Chính phủ ta đã nhân nh-ợng cho quân T-ởng những quyền lợi
về kinh tế và cả những quyền lợi về chính trị cho bọn tay sai ng-ời Việt của
chúng. Đó là một sách l-ợc hết sức mềm dẻo của Đảng. Nhờ đó, Đảng ta
không những đã làm thất bại âm m-u của T-ởng, mà còn tạo điều kiện để ta
tập trung sức kháng chiến ở Nam Bộ, đồng thời giữ vững chính quyền dân chủ
nhân dân và củng cố chính quyền về mọi mặt.
Bên cạnh việc đ-a ra sách l-ợc hoà hoãn với quân T-ởng để tập trung
đánh Pháp, Đảng ta còn dự đoán chính xác những thủ đoạn hành động tiếp
theo của kẻ thù. Từ chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Đảng đã dự
đoán: trước sau, Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp,
miễn là Pháp nhân nhượng cho Tàu nhiều quyền lợi quan trọng[22, 25].
Đúng nh- dự đoán của Đảng, ngày 28-2-1946, Pháp - T-ởng đã mặc cả với
nhau và ký hiệp ước để cho quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam. Chúng định
hãm ta vào thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc [22, 43].
16
Từ cuối tháng 6-1946, sau khi toàn bộ quân T-ởng rút về n-ớc, thì
thực dân Pháp càng tăng c-ờng mở rộng chiến tranh xâm l-ợc ra cả n-ớc ta.
Tình hình trở nên hết sức gay go và cấp bách. Lúc này, Đảng không thể do
dự. Do dự là hỏng hết. Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những
ph-ơng pháp - dù là những ph-ơng pháp đau đớn - để cứu vãn tình thế.[26,
21] Ngày 3-3-1946, trong văn kiện Tình hình và chủ tr-ơng, sau khi phân
tích một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong n-ớc và ngoài
nước[22, 44], Đảng đi đến chủ trương giàn hoà với Pháp, đồng thời nhấn
mạnh: Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những
không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc
nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến sửa soạn công việc ấy, và nhất định
không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của
dân tộc ta.[22, 46] Ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện
Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp, đặt cơ sở cho việc đàm phán đi
đến một hiệp -ớc chính thức. Chỉ thị Hoà để tiến của Ban T.V.T.W, ngày 93-1946, nói rõ: Tổ quốc gặp những bước khó khăn. Nhưng con thuyền cách
mạng đang luồn những mỏm đá ghềnh để lướt tới. Chúng ta hoà với nước
Pháp để giành thời gian, bảo toàn thực lực, giữ vững lập tr-ờng càng mau
tiến tới độc lập hoàn toàn.[22, 56]
Với việc ký kết Hiệp định sơ bộ 6-3, ta đã lợi dụng đ-ợc mâu thuẫn
giữa Pháp và T-ởng, gạt nhanh quân T-ởng và bè lũ tay sai của chúng về
n-ớc, đồng thời tranh thủ đ-ợc thời gian để xây dựng lực l-ợng chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến lâu dài. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Hiệp định diễn ra
phức tạp, trong khi ta tìm mọi cách tránh xung đột, để trì hoãn, không cho
chiến tranh lan rộng ra, thì phía Pháp lại ngày một lấn tới. Cuộc đàm phán ở
Fôngtenbờlô nhằm ký kết một hiệp -ớc chính thức Việt - Pháp nh- dự tính
đã bị thực dân Pháp phá hoại. Nh-ng để cứu vãn tình hình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh tiếp tục ký với Pháp Tạm -ớc 14-9-1946, nh-ợng bộ thêm cho chúng
17
một b-ớc nữa để tạo điều kiện cho nhân dân trong n-ớc có thêm thời gian
chuẩn bị lực l-ợng, đồng thời, để tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế
giới, của các tầng lớp nhân dân Pháp đối với sự nghiệp chính nghĩa của dân
tộc Việt Nam.
Nh-ng, với dã tâm của kẻ đi xâm l-ợc, thực dân Pháp không bao giờ có
thể thoả mãn với những nhân nh-ợng của Chính phủ Việt Nam. Bất chấp
những hiệp -ớc và tạm -ớc đã ký, bọn thực dân Pháp vẫn ráo riết chuẩn bị và
tăng c-ờng các hoạt động mở rộng chiến tranh. Tháng 11-1946, chúng tăng
thêm quân và đổ bộ lên Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà. Ngày 20-11-1946, chúng
toả ra đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn. Ngày 17-12-1946, chúng gây hấn
ở Thủ đô Hà Nội, bắn vào trụ sở tự vệ của ta, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng
Bún. Đỉnh điểm của sự khiêu khích là ngày 18-12-1946, thực dân Pháp đánh
chiếm trụ sở Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính, và cũng trong tối
hôm đó, Moóc-li-e đ-a ra tối hậu th- đòi Chính phủ ta giao cho chúng quyền
giữ an ninh ở Thủ đô Hà Nội. Với hành động trắng trợn này, thực dân Pháp đã
không còn dấu diếm âm m-u tái xâm l-ợc Việt Nam nữa, chúng đã ra lời
tuyên chiến với nhân dân Việt Nam.
Tr-ớc tình hình một nền hoà bình mong manh, vận mệnh dân tộc tr-ớc
nguy cơ mất còn, Đảng và Chính phủ ta xác định rõ: lúc này, nhân nh-ợng là
mất nước, là phạm đến chủ quyền của nước, là hại đến quyền lợi cao trọng
của dân tộc[22, 148]. Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm l-ợc trên phạm vi toàn quốc.
Ngày 19-12-1946, h-ởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếng súng toàn quốc kháng chiến đã bùng nổ. Từ đây,
cả dân tộc ta đi vào cuộc tr-ờng chinh suốt chín năm không ng-ng nghỉ.
Nhìn chung, cuộc kháng chiến chín năm của toàn Đảng, toàn dân ta đã
trải qua ba giai đoạn chiến l-ợc và mỗi giai đoạn là một b-ớc tiến mới, là một
nấc thang đi lên của con đ-ờng chiến thắng.
18
Từ Nam Bộ kháng chiến đến chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947 là
giai đoạn thứ nhất của cuộc kháng chiến. ở giai đoạn này, nhân dân ta d-ới sự
lãnh đạo của Đảng đã ra sức giữ gìn và củng cố lực l-ợng, kết hợp kháng
chiến ở miền Nam với xây dựng và bảo vệ chế độ mới trên cả n-ớc, tiến lên
phát động toàn quốc kháng chiến, đánh thắng chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp.
Giai đoạn thứ hai đ-ợc bắt đầu từ sau chiến thắng Việt Bắc đến chiến
thắng Biên giới Thu Đông 1950. Đây là giai đoạn đẩy mạnh cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích, từng b-ớc tiến lên vận
động chiến, làm thất bại một b-ớc âm m-u kéo dài, mở rộng chiến tranh và
âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh
của thực dân Pháp. Trong giai đoạn này, đặc biệt với sự kiện Cách mạng
Trung Quốc thành công (năm 1949) đã cổ vũ lớn lao đối với cuộc kháng chiến
của nhân dân ta. Và kể từ năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã
nhận đ-ợc sự ủng hộ, giúp đỡ hết sức thiết thực từ các n-ớc xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là từ Liên Xô và Trung Quốc. Cũng từ năm 1950, đế quốc Mỹ ngày
càng rót nhiều viện trợ về trang bị và vũ khí vào chiến tr-ờng Đông D-ơng
cho Pháp, can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến. Những chuyển biến
này đã tác động không nhỏ tới cuộc chiến đấu của nhân dân ta.
Giai đoạn thứ ba là từ chiến dịch Biên giới đến kháng chiến thắng lợi
(1954). Đây là giai đoạn phát triển tiến công và phản công, giữ vững và phát
huy quyền chủ động trên chiến tr-ờng chính Bắc Bộ, trong sự phối hợp chung
của các chiến tr-ờng trong toàn quốc cùng chiến tr-ờng Lào và Campuchia,
tiến lên mở cuộc tiến công chiến l-ợc Đông Xuân 1953-1954 với trận quyết
chiến Điện Biên Phủ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, quân ta đã làm thất bại
nỗ lực chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc thực dân
Pháp phải ngồi vào bàn th-ơng l-ợng Hội nghị Giơ-ne-vơ và ký Hiệp nghị
chấm dứt cuộc chiến tranh ở Đông D-ơng ngày 21-7-1954.
19
Trong giai đoạn thứ ba của cuộc kháng chiến đã diễn ra một sự kiện đặc
biệt quan trọng đó là Đại hội lần thứ hai Đảng Cộng sản Đông D-ơng đã đ-ợc
triệu tập từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang, chiến khu Việt Bắc. Th- của Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi Đại hội trù bị nêu rõ: Đại hội ta là Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính
của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng
Lao động Việt Nam[26, 2]. Theo sự định hướng, chỉ đạo đó, Đại hội đã thảo
luận và thông qua các quyết định quan trọng: Đảng Cộng sản Đông D-ơng
công khai ra lãnh đạo cách mạng, đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam;
định ra đ-ờng lối cách mạng Việt Nam; thông qua Chính c-ơng, Điều lệ
Đảng, Tuyên ngôn của Đảng; bầu Ban chấp hành Trung -ơng, Bộ Chính trị,
Ban Bí th-, Chủ tịch Đảng, Tổng Bí th- của Đảng. Nhiều văn kiện quan trọng
về các vấn đề chiến l-ợc của cách mạng Việt Nam đã đ-ợc Đại hội thảo luận
và thông qua. Những nội dung ấy đã đ-ợc phát huy trong thực tiễn chiến đấu
và dẫn dắt kháng chiến đến thắng lợi.
Sau chín năm tr-ờng kỳ kháng chiến, dân tộc ta đã giành thắng lợi vẻ
vang với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Có thể khẳng định
rằng, nguyên nhân hàng đầu làm nên thắng lợi vĩ đại ấy chính là nhờ sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Bằng
đ-ờng lối chính trị và quân sự đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
vững vàng, khéo léo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam v-ợt qua thác
ghềnh hiểm trở, từng b-ớc tiến lên và giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Là lực l-ợng tiên phong, gánh trên vai sứ mệnh lãnh đạo giai cấp, lãnh
đạo dân tộc đấu tranh giải phóng, Đảng ta vừa động viên, xây dựng quyết tâm
kháng chiến của toàn dân, vừa xây dựng đ-ờng lối kháng chiến. Trên cơ sở
đánh giá đúng, phân tích chính xác, toàn diện, cụ thể tình hình trong n-ớc và
quốc tế theo quan điểm biện chứng t-ơng quan lực l-ợng giữa ta và địch, giữa
cách mạng và phản cách mạng, Đảng ta đã phát động kháng chiến kịp thời,
20
đúng lúc. Ngay từ đầu, những vấn đề cơ bản của đ-ờng lối kháng chiến đã
đ-ợc Đảng xác định và thể hiện trong các văn kiện chủ yếu của Đảng. Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc xác định mục tiêu, đối t-ợng đấu tranh, mối quan hệ
giữa kháng chiến và kiến quốc. Công việc khẩn cấp bây giờ h-ớng toàn dân,
toàn Đảng vào việc chuẩn bị sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm l-ợc
trên quy mô toàn quốc đang đến gần. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến nêu lên
đ-ờng lối chung chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến tiến hành trên tất cả các
mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa. Và đặc biệt là Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đ-ợc phát đi trên toàn quốc vào đêm
19-12-1946, đã đề ra đ-ờng lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, tr-ờng kỳ, tự
lực cánh sinh là chính với quyết tâm sắt đá thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ[56, 480]. Sau đó, đồng
chí Tr-ờng Chinh - Tổng Bí th- của Đảng - đã có nhiều bài viết giải thích về
đ-ờng lối kháng chiến và sau đ-ợc tập hợp thành tác phẩm quan trọng là
Kháng chiến nhất định thắng lợi (9-1947); trong đó đã nêu lên tính chất,
nhiệm vụ, đ-ờng lối tổ chức lực l-ợng, ph-ơng pháp đấu tranh cách mạng để
giành chính quyền và vạch ra đ-ờng h-ớng phát triển cho đất n-ớc sau khi
giành đ-ợc độc lập. Ngoài ra, đ-ờng lối kháng chiến còn thể hiện ở nhiều văn
kiện quan trọng khác của Đảng. Tất cả những văn kiện nói trên đều có thể
đ-ợc coi là sự chuẩn bị quan trọng nhất cho cuộc kháng chiến đi đến thắng
lợi. Trải qua thực tiễn đấu tranh, đ-ờng lối kháng chiến của Đảng tiếp tục
đ-ợc bổ sung, sửa đổi và dần hoàn chỉnh. Đặc biệt, với sự chỉ đạo của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ II (2-1951), đ-ờng lối kháng chiến của Đảng đã hoàn
chỉnh về cơ bản và phát huy tác dụng mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến ở giai
đoạn sau. Sự hoàn chỉnh về đ-ờng lối cũng đã đ-ợc xác định và thể hiện cụ
thể trong các văn kiện của Đại hội, đặc biệt là: Báo cáo chính trị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Luận c-ơng chính trị của đồng chí Tổng Bí th- Tr-ờng Chinh,
Chính c-ơng của Đảng Lao động Việt Nam...
21
Nh- vậy, tr-ớc những diễn biến mới đầy phức tạp và hiểm nguy của
tình hình đất n-ớc sau Cách mạng Tháng Tám và trong quá trình của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l-ợc, Đảng ta đã đề ra những chủ
tr-ơng, đ-ờng lối để chỉ đạo, lãnh đạo toàn thể dân tộc đấu tranh nhằm thực
hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Văn kiện Đảng 19451954 đã đ-ợc hình thành nên từ trong quá trình đó. Văn kiện Đảng 1945-1954
là sự phản ánh đầy đủ, chân thực và trực tiếp sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả
các mặt của kháng chiến. Đây là một nguồn tài liệu đặc biệt quan trọng của
Đảng, của lịch sử cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm l-ợc của dân tộc Việt Nam, cũng nh- nghiên cứu về
sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các mặt đối với cuộc kháng chiến, chúng ta
có thể thông qua rất nhiều nguồn t- liệu lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu thông qua khảo sát nguồn tài liệu văn kiện Đảng là việc làm hết
sức cần thiết và là một yêu cầu mang tính khoa học trong công tác nghiên cứu,
đặc biệt là đối với chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2. Vị trí của văn kiện Đảng 1945-1954 trong bộ Văn kiện Đảng Toàn
tập và những nội dung cơ bản của nó
Xuất phát từ những yêu cầu phát triển của nhiều lĩnh vực công tác đảng,
của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn, của công tác đối nội và đối
ngoại, và do kết quả s-u tầm, xác minh, giám định văn kiện Đảng trong những
năm qua cũng đã bổ sung nhiều văn kiện, làm sáng tỏ nhiều sự kiện, nhiều vấn
đề lịch sử, nên Bộ Chính trị, Ban Bí th- Trung -ơng Đảng (khóa VII) chủ
tr-ơng xuất bản Văn kiện Đảng Toàn tập.
Theo quyết định của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung -ơng Đảng
Cộng sản Việt Nam, số 25-QĐ/TW, ngày 3 tháng 2 năm 1997, Văn kiện Đảng
Toàn tập đ-ợc xuất bản lần thứ nhất. Đây là một bộ sách lớn trong di sản tt-ởng - lý luận của dân tộc, phản ánh tập trung, chính xác, khách quan, t-ơng
đối đầy đủ, toàn diện, có hệ thống, bảo đảm tính khoa học và tính lịch sử quá