Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Tổ chức và hoạt động của ủy ban của quốc hội việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.26 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH
-----------***------------

VŨ THỊ TRUNG HIẾU
MSSV: 1953801011072

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN
CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM

Khố luận tốt nghiệp cử nhân luật

Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn: Ths. Trương Thị Minh Thùy

TP.HCM – Năm 2023


LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy Cơ trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
đã giảng dạy cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Cô Trương Thị Minh Thùy –
giảng viên khoa Luật Hành chính – Nhà nước, đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, góp
ý và giúp đỡ em hồn thành khố luận này.
Bên cạnh đó, cũng xin được gửi lời cảm ơn đến gia đình, các anh chị và bạn
bè đã đồng hành cùng em trong suốt q trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn.


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật với đề tài “Tổ chức và
hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính
tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ths. Trương Thị Minh Thùy. Khóa luận có sử
dụng, trích dẫn ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thơng tin này đều
được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thơng tin được sử dụng trong
Khóa luận là hồn tồn khách quan, trung thực.

Tác giả

Vũ Thị Trung Hiếu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM ..........................................4
1.1. Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
Việt Nam.....................................................................................................................4
1.1.1. Vị trí, vai trị của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam............................................4
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội. ............8
1.1.3. Yêu cầu đối với tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội. ..................12
1.2. Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
ở Việt Nam. ..............................................................................................................16
1.2.1. Về tổ chức của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ............................................16
1.2.2. Về hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ........................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................40
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN
CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .......................41
2.1. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
Việt Nam...................................................................................................................41

2.1.1. Thực trạng về tổ chức của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ..........................41
2.1.2. Thực trạng về hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ......................46
2.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
Việt Nam...................................................................................................................56
2.2.1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ...............56
2.2.2. Giải pháp hoàn thiện hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam. ...........60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................67
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Điều 69 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 có
quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Theo đó, Quốc hội thực hiện
các quyền lực của mình thơng qua các cơ quan của Quốc hội là Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đoàn đại
biểu Quốc hội.
Trong gần 77 năm tồn tại và phát triển, Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu
tuy nhiên, bên cạnh đó cũng gặp khơng ít những khó khăn. Nhưng hơn hết, Quốc hội
ln cố gắng thực hiện các biện pháp khắc phục những hạn chế làm ảnh hưởng đến
hoạt động để xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là nơi thể hiện ý
chí nguyện vọng của cử tri trên khắp cả nước. Trong quá trình đổi mới hiện nay, Quốc
hội đang tiếp tục xây dựng và củng cố về tổ chức, hoạt động của các cơ quan, trong
đó, Ủy ban của Quốc hội được Quốc hội đặc biệt quan tâm nhằm tăng cường khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc
xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính vì điều đó, đặt ra những nhiệm vụ quan trọng cho Quốc hội trong việc
xây dựng các Ủy ban của Quốc hội trở thành một cơ quan hoạt động tích cực và hiệu
quả. Những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu nhằm đề ra những biện pháp để
thực hiện mục tiêu trên. Với những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu về “Tổ
chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp của mình. Khóa luận sẽ góp phần cung cấp những thơng tin cơ bản về tổ chức,
hoạt động của Ủy ban, có những đề xuất kiến nghị để kiện toàn tổ chức, hoạt động của
Ủy ban. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho những hoạt động nghiên cứu tiếp theo về
cơ quan này. Trong quá trình nghiên cứu, tuy đã cố gắng nhưng khóa luận vẫn cịn
nhiều điểm thiếu sót do sự tiếp cận tài liệu còn hạn chế, kiến thức bản thân chưa đáp
ứng được mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài, vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ phía thầy cơ và những người nghiên cứu khác để đề tài được hồn thiện
hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với chủ trương lớn được nêu trong các văn kiện của Đảng về đổi mới tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn được
đặt ra liên quan đến hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội. Cho đến nay, đã có một


2

số đề tài đã nghiên cứu về vấn đề liên quan đến hoạt động của các Ủy ban của Quốc
hội. Đó là luận án tiến sĩ “Hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của tác giả Trần Văn Thuân năm
2015 và luận án tiến sĩ “Tổ chức và hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội theo Hiến pháp 2013” của tác giả Lê Huỳnh năm 2016. Trong hai luận
án này, các tác giả tập trung vào nghiên cứu hoạt động của Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội, tuy nhiên ở phần phạm vi nghiên cứu đã loại trừ Ủy ban lâm

thời ra khỏi đối tượng nghiên cứu. Hầu hết các đề tài đều có phạm vi nghiên cứu
tương đối rộng đó là nghiên cứu về tổ chức hoạt động của cả Hội đồng dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội nên việc nghiên cứu này chưa tập trung nói về Ủy ban của Quốc
hội.
Bên cạnh đó cịn có các bài báo khoa học được đăng lên các tạp chí chuyên
ngành như bài viết “Tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa” năm 2009 của tác giả Phan Trung Lý đăng trên Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, bài viết “Một số giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động
của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội” năm 2006 của tác giả Đặng Đình
Luyến. Tuy nhiên đã mười mấy năm trơi qua, bối cảnh nước nhà đã có nhiều sự thay
đổi, biến động lớn, nên một số nội dung đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn tổ chức
bộ máy nhà nước.
Vì vậy, đề tài “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam” sẽ
tập trung chú trọng nghiên cứu về tổ chức và hoạt động cơ quan này ở giai đoạn hiện
nay. Trong q trình nghiên cứu, khóa luận của tác giả có sự học hỏi, vận dụng các
kiến thức từ các cơng trình nghiên cứu trên.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của Ủy ban của Quốc hội từ đó đưa ra định hướng và đề xuất những giải pháp
cụ thể nhằm hoàn thiện cho quá trình đổi mới về mặt tổ chức và hoạt động của cơ
quan này với một tầm nhìn dài hạn và mang tính lý luận để phục vụ việc xây dựng
Nhà nước Việt Nam một cách hiệu quả.
Để đạt được mục đích đó, khóa luận có những nhiệm vụ chủ yếu sau: Nghiên
cứu về vị trí, vai trị, tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội nhằm chỉ ra
những thiếu sót cịn tồn tại, đề xuất những giải pháp góp phần hồn thiện và phát huy
vai trị của Quốc hội trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.


3


4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
So với các nước có truyền thống Nghị viện lâu đời như Anh, Mỹ, Pháp,… Ủy
ban của Quốc hội Việt Nam là một thiết chế còn khá mới. Tổ chức và hoạt động của
Ủy ban của Quốc hội có nội dung rộng và phức tạp. Khóa luận chỉ tập trung vào
những vấn đề lý luận và thực tiễn của các Ủy ban của Quốc hội đặt trong bối cảnh
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Tác giả trọng
tâm nghiên cứu tổ chức hoạt động của các Ủy ban trong các nhiệm kỳ Quốc hội gần
gây, kể từ thời điểm Hiến pháp năm 1992 được ban hành (Quốc hội khóa X) cho đến
hiện nay là Quốc hội khóa XV.
5. Ý nghĩa của khóa luận
Về mặt khoa học, sau khi hồn thành, khóa luận sẽ góp phần làm rõ hơn những
vấn đề lý luận về hoạt động của các Ủy ban, nhận diện rõ đặc điểm hoạt động, các
yêu cầu đặt ra trong hoạt động của những cơ quan này.
Về mặt thực tiễn, các nội dung được đưa ra phân tích và trình bày trong khóa
luận là những tư liệu được nghiên cứu và tìm hiểu kỹ càng, có hệ thống dưới góc độ
lý luận và lịch sử để lý giải về các nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban của Quốc
hội. Kết quả của khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc nghiên cứu lý luận chung về nhà nước và pháp luật, luật hiến pháp.
6. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về tổ chức và hoạt động của Quốc hội
trong thời kỳ đổi mới. Nội dung của khóa luận được trình bày trên cơ sở nghiên cứu
của cá nhân với sự tham khảo có chọn lọc các tài liệu của các tác giả trong và ngoài
nước.
Phương pháp mà tác giả sử dụng để nghiên cứu bao gồm các phương pháp:
phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp hệ
thống, phương pháp so sánh… và đặc biệt là phương pháp phân tích được thực hiện
xuyên suốt tồn bộ khóa luận.

7. Kết cấu của khóa luận
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của
Quốc hội.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt
Nam và giải pháp hoàn thiện.
Danh mục tài liệu tham khảo.


4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ỦY BAN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt
Nam.
1.1.1. Vị trí, vai trị của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam.
Thiết chế Ủy ban của Quốc hội có vai trị quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của mỗi quốc gia. Phương Tây là nơi thiết chế Nghị viện phát triển sớm nhất,
xuất phát từ xu hướng vận động và phát triển của nền dân chủ và thẩm quyền ngày
càng to lớn của Nghị viện, như câu ngạn ngữ Anh thường được các nhà nghiên cứu
nhắc đến khi nói về thẩm quyền, vai trị của Nghị viện: “Nghị viện có thể làm được
tất cả, trừ việc biến đàn ông thành đàn bà”, nên nhu cầu về việc phân công lao động
trong nội tại Nghị viện/Quốc hội mang tính khách quan. Tìm hiểu về vị trí, vai trị
của Ủy ban của Quốc hội chính là việc tìm hiểu tại sao lại có sự ra đời của các Ủy
ban của Quốc hội. Vị trí, vai trị ngày càng tăng lên của hệ thống Ủy ban trong hoạt
động của Quốc hội là một thực tế khách quan. Điều này phản ánh mức độ chun
mơn hóa, phân cơng lao động trong q trình phát triển lâu dài của thiết chế Nghị
viện/Quốc hội.
Xu thế ngày càng mở rộng về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn các Ủy ban của
Quốc hội và sự hình thành, phát triển về số lượng, cơ cấu tổ chức là minh chứng cho

ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của các cơ quan này trong hoạt động của Quốc hội
Việt Nam. Xét đến cùng, đại biểu Quốc hội về bản chất mới thực sự là trung tâm
trong mọi hoạt động của Quốc hội. Mà khối lượng công việc nhà nước rất lớn, mỗi
đại biểu Quốc hội đều phải đối mặt với rất nhiều công việc, các quyết định đưa ra
phải đúng đắn và có độ chính xác cao. Trong trường hợp này, nếu thiếu vắng, khơng
có kết quả tham mưu, tư vấn của Ủy ban thì có thể sẽ đưa đến những kết quả không
mong muốn. Mặt khác, một trong những lý do để Quốc hội thành lập các Ủy ban là
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội nếu được giải quyết bằng cách tập trung tất cả các
đại biểu Quốc hội thì nhiều khi khơng những khơng có hiệu quả cao mà cịn tốn kém.
Về khía cạnh thực tế, với số lượng khoảng 500 đại biểu như những năm gần đây, thì
rõ ràng, như có ý kiến đã nhận định: một đại biểu thì q ít, mà cả Quốc hội thì lại
q nhiều. Đó là ngun nhân vì sao các Ủy ban là hình thức hoạt động hiệu quả ở
Quốc hội trong trường hợp liên quan đến chuyên môn1. Việc thiết lập và vận hành hệ
thống các Ủy ban trên thực tế đã làm thay đổi đáng kể cách thức hoạt động và cũng
là cách thức thực hiện quyền lực của Quốc hội. Như Woodrow Wilson, Tổng thống
Văn phòng Quốc hội (2006), Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, tr.162.
1


5

thứ hai mươi tám của Hoa Kỳ, khi nói về vai trò, ý nghĩa của hệ thống Ủy ban đối
với Quốc hội/Nghị viện đã nhấn mạnh: “Quốc hội phiên toàn thể là phiên trình diễn,
Quốc hội trong Ủy ban là Quốc hội làm việc. Hệ thống Ủy ban mạnh sẽ tạo cho Quốc
hội/Nghị viện khả năng tốt hơn để gây ảnh hưởng về mặt chính sách đối với cơng
chúng và để giám sát Chính phủ”2.
Theo kết quả khảo sát của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) vào năm 1986,
có đến 81/83 nước được khảo sát đã thành lập hệ thống Ủy ban trong cơ cấu Nghị
viện. Hệ thống Ủy ban của Quốc hội/Nghị viện được tổ chức phong phú, đa dạng với

nhiều loại hình khác nhau như: tổ chức theo chức năng của Quốc hội/Nghị viện (như
Ủy ban Lập pháp, Ủy ban Ngân sách…); theo lĩnh vực hoạt động (như Ủy ban tư
pháp, Ủy ban Kinh tế…); theo đối tượng (như Ủy ban các vấn đề về cựu chiến binh,
Ủy ban đặc biệt về người cao tuổi…); tổ chức theo nhiệm kỳ (như Ủy ban cố định,
Ủy ban lâm thời…) hoặc tổ chức theo mơ hình kết hợp nhiều cách thức khác nhau.
Các Ủy ban có nhiệm vụ, quyền hạn xem xét những vấn đề thuộc thẩm quyền của
Quốc hội/Nghị viện và báo cáo ý kiến nhận xét, đánh giá của Ủy ban để Quốc
hội/Nghị viện xem xét, quyết định; ý kiến của các Ủy ban có giá trị tham mưu cho
Quốc hội/Nghị viện về các lĩnh vực chuyên môn. Như Viện Dân chủ quốc gia Hoa
Kỳ đã nhận định: “Hầu hết các Nghị viện dân chủ trên thế giới đều dựa vào hệ thống
các Ủy ban để tiến hành các hoạt động của mình. Các quyết định của Ủy ban có ảnh
hưởng rất lớn đến quyết định của Nghị viện”. Đồng thời, như hai tác giả Roger. H.
Davidson và Walter J.Oleszer đã nhận định khi nghiên cứu về các Ủy ban của Quốc
hội Mỹ: “…các Ủy ban là phương tiện mà nhờ đó Quốc hội có thể xem xét kỹ lưỡng
hàng núi các dự án luật, đề xuất và vấn đề, điều không thực hiện được nếu thiếu vắng
phương tiện này”. Tuy nhiên, tác giả tán thành với một nghiên cứu đã phân tích thì
cùng với sự phát triển của Quốc hội/Nghị viện thì vai trị của các Ủy ban cũng đã biến
đổi theo chiều hướng phức tạp hơn, chun mơn hóa nhiều hơn. Trong điều kiện hiện
nay, nội dung các nhiệm vụ và chức năng của các Ủy ban cho thấy những cơ quan
này không chỉ đơn thuần là cơ quan mang tính trợ giúp. Nhiều hoạt động của các Ủy
ban trở thành những công đoạn mang tính bắt buộc trong quy trình lập pháp, quy trình
quyết định những vấn đề quan trọng và quy trình giám sát 3. Nhận định này có thể
thấy qua thực tiễn tại một số nước như Italia, Tây Ban Nha… với hệ thống Ủy ban có

2

Xem: Woodrow Wilson, Congressional Government, (Baltimore, the Johns Hopkins University
Press, 1981), p. 69. Originally published in 1885.
3
Trần Thị Quốc Khánh (Chủ nhiệm đề tài), (2013), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và

hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đề tài cấp bộ, Viện Nghiên cứu Lập
pháp, Hà Nội, Tr. 13.


6

những vai trò đặc biệt trong hoạt động lập pháp, dự luật có thể được thơng qua ngay
trong giai đoạn xem xét tại Ủy ban nếu được Nghị viện cho phép.
Bên cạnh đó, do Quốc hội hoạt động khơng thường xuyên, mỗi năm hai kỳ
họp. Vì vậy, hầu hết các vấn đề nảy sinh giữa hai kỳ họp có liên quan đến thẩm quyền
của Quốc hội đều phải đợi đến kỳ họp tiếp theo để trình, để thảo luận và quyết định.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, xu hướng phát triển luôn biến đổi không ngừng,
bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi và diễn biến bất ngờ, khó có thể
lường. Từ đó đặt ra vấn đề cho bộ máy nhà nước là phải có phản ứng mau lẹ, đáp ứng
kịp thời các tình huống phát triển. Điều này đòi hỏi Quốc hội nước ta phải có đủ năng
lực và điều kiện để có thể đưa ra quyết định về các vấn đề trọng đại của đất nước theo
thẩm quyền của mình. Do vậy, việc thiết lập và vận hành hệ thống Ủy ban là xu hướng
phát triển tất yếu của Quốc hội. Hầu như tất cả các hoạt động của Quốc hội đều có sự
tham gia của các Ủy ban. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến quan niệm các Ủy ban
chính là “tai, mắt, tay, và nhất là não” của Quốc hội4. Hoạt động của Quốc hội không
thể thiếu được hoạt động của các Ủy ban. Việc nâng cao hiệu lực của Quốc hội phải
gắn liền với việc nâng cao vị trí của các Ủy ban.
Vai trò của Ủy ban thể hiện qua hai phương diện như sau:
(1) Ủy ban có vai trò tham mưu, tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề liên
quan đến lĩnh vực mình phụ trách.
Đầu tiên, Ủy ban đóng vai trị như là “cửa ngõ” của Quốc hội trong việc thực
hiện chức năng lập pháp, góp phần đảm bảo chất lượng của hoạt động của Quốc hội.
Vai trị “cửa ngõ” của Quốc hội thể hiện thơng qua hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Nói là “cửa ngõ” vì Ủy ban là cơ quan đầu tiên
của Quốc hội tiếp cận và xem xét đối với các dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết mà

các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình trước khi chuyển cho Ủy ban thường
vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến và trình Quốc hội thảo luận thông qua tại kỳ họp
Quốc hội. Tức là để trải qua những bước tiếp theo nhằm ban hành một văn bản luật,
pháp lệnh, nghị quyết phải thông qua bước đầu tiên là thẩm tra. Ủy ban sẽ phối hợp

House of Representative: Các thủ tục của Cannon trong Hạ viện “Cannon: Chủ tịch thứ 35 của Hạ
viện Hoa Kỳ, ông đã thực hiện sự kiểm soát khác thường đối với tiến trình lập pháp. Đồng thời, ơng
cũng tự mình định đoạt chương trình nghị sự của Hạ viện Hoa Kỳ, bổ nhiệm thành viên cho tất cả
các Ủy ban hạ viện, chọn ra các chủ tịch Ủy ban hạ viện, lãnh đạo Ủy ban luật pháp hạ viện, và có
quyền quyết định Ủy ban hạ viện nào sẽ được xem xét mỗi đạo luật. Bên cạnh đó, Cannon cịn sử
dụng quyền lực trong tay mình để đảm bảo chắc chắn rằng đề nghị của đảng Cộng hòa được Hạ viện
Hoa Kỳ thơng qua”, H. Doc. 122, Quốc hội khóa 80, phiên thứ 1, 1959, tr.83; dẫn lại trong: Roger
H.Davidson và Walter J.Oleszek: “Quốc hội và các thành viên” (Congress and its members), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 312.
4


7

với Hội đồng dân tộc để thẩm tra những dự án luật, pháp lệnh được Ủy ban thường
vụ Quốc hội phân cơng.
Trong hoạt động thẩm tra của mình, Ủy ban chủ yếu tập trung vào kỹ thuật lập
pháp, sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng với Hiến pháp, pháp luật nhiều hơn là nội dung của dự thảo. Ủy ban xem
xét nhiều ở cách dùng từ ngữ trong văn bản xem có phù hợp; quy định của dự án luật,
pháp lệnh có đúng với phạm vi và đối tượng điều chỉnh hay khơng chứ chưa có thể
xem xét được một cách chi tiết về nội dung và tính khả thi của dự án. Tuy vậy, với
vai trò là “cửa ngõ”, Ủy ban giúp những cơ quan về sau có sự đánh giá bước đầu,
đồng thời giảm tải cho Quốc hội tại kỳ họp.
Hai là, thơng qua hoạt động đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, pháp lệnh của

cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội, Ủy ban cũng đã thể hiện vai trị của mình trong
hoạt động lập pháp của Quốc hội.
Hoạt động soạn thảo các dự án luật không phải là một việc đơn giản và không
phải chỉ một cơ quan, tổ chức đảm nhiệm thực hiện một cách độc lập. Với tính chất
quan trọng của luật, pháp lệnh trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội nên các dự
án luật, pháp lệnh bên cạnh cơ quan chủ trì soạn thảo cần được sự phối hợp từ các cơ
quan khác. Chính vì thế mà các dự thảo thường được các cơ quan, tổ chức (đặc biệt
là Chính phủ) gửi đến Ủy ban nhằm nhận được những ý kiến đóng góp để hồn thiện
hơn dự thảo mà các cơ quan này đang xây dựng. Việc đóng góp ý kiến này nhằm mục
đích chính là đảm bảo chất lượng của dự án luật khi trình Quốc hội.
Ba là, Ủy ban Quốc hội đã tích cực tham mưu, tư vấn cho Quốc hội. Cách thức
tổ chức tham vấn chính sách của Ủy ban đã càng ngày càng chuyên nghiệp và chuyên
sâu. Tính kịp thời được thể hiện ở chỗ, mỗi năm, Quốc hội sẽ tiến hành hai kỳ họp.
Các hoạt động tham vấn chính sách của Ủy ban thường được tổ chức ngay trước kỳ
họp của Quốc hội, sau đó, các ý kiến tham gia đóng góp về chính sách được Ủy ban
tổng hợp, sàng lọc và gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội, gửi đại biểu Quốc hội để cung
cấp thêm các thông tin, cơ sở cho những đánh giá của đại biểu Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Quốc hội cũng như định hướng cho dư luận xã hội. Tính tiên
liệu nghĩa là các đề xuất chính sách của Ủy ban xuất phát từ quá trình tham vấn chính
sách, từ hoạt động thực tiễn, chứ khơng phải lúc nào cũng đợi Chính phủ trình thì Ủy
ban mới phản biện. Bên cạnh đó, Ủy ban cịn đưa ra các dự báo, cảnh báo về những
đề quan trọng của đất nước mà Quốc hội cần phải quan tâm. Điều quan trọng nữa là,
Ủy ban đã phối hợp được giữa quá trình nghiên cứu hàn lâm và quá trình hoạch định
chính sách trên thực tiễn.
(2) Ủy ban có vai trò trong việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội.


8

Điều này thể hiện trong hoạt động giám sát của Ủy ban. Ủy ban không những

giúp cho Quốc hội giám sát hoạt động, việc thực thi luật, pháp lệnh, ban hành văn
bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở trung ương mà còn tổ chức thực hiện việc giám
sát ở địa phương.
Điều 69, Điều 70 Hiến pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 quy định “Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Quốc hội tuy có chức năng giám
sát nhưng đó là quyền giám sát tối cao. Quyền này thể hiện ở việc xét báo cáo công
tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; xem xét văn bản
quy phạm pháp luật của những chủ thể có thẩm quyền ban hành ở trung ương như
Chủ tịch nước, Chính phủ…; xem xét trả lời chất vấn và thành lập Ủy ban lâm thời
để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình nhằm đảm bảo cho những quy
định của Hiến pháp, pháp luật được thi hành một cách triệt để, nghiêm minh và thống
nhất. Quốc hội giám sát cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo cho các cơ quan này hoàn
thành nhiệm vụ, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, không chồng chéo.
Với những lý do nêu trên, có thể thấy các Ủy ban của Quốc hội là những cơ
quan giúp việc không thể thiếu trong tổ chức của Quốc hội, đóng vai trị quyết định
tới hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Vị trí này đã được khẳng định một cách rất rõ
ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Về cơ bản, Ủy ban của Quốc
hội là cơ quan chuyên môn do Quốc hội lập ra, giúp Quốc hội thực hiện chức năng
và nhiệm vụ của mình. Do đó, Ủy ban của Quốc hội không phải là “Quốc hội thu
nhỏ”, không quyết định thay cho Quốc hội mà về bản chất, cơ quan này chỉ cung cấp
những thông tin đánh giá, những kiến nghị đề xuất để Quốc hội xem xét và ra quyết
định. Như vậy, với vị trí tham mưu tư vấn về chuyên môn trong các hoạt động của
Quốc hội, các Ủy ban là hệ quả của việc phân công lao động trong hoạt động của
Quốc hội.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc
hội.

1.1.2.1. Khái niệm tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội.
Khái niệm tổ chức của Ủy ban của Quốc hội
Khái niệm “tổ chức” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo từ điển tiếng
Việt, tổ chức có nghĩa là sắp xếp, bố trí cho thành một chính thể, có một cấu tạo, một


9

cấu trúc và những chức năng chung nhất định5. Luật học (khoa học luật dân sự) gọi
tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan
hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự 2015 thì một tổ chức
được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp;
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách
độc lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm
bảo hoạt động của tổ chức6. Trong khóa luận, tác giả nghiên cứu tổ chức của Ủy ban
của Quốc hội dưới cả hai góc độ là cơ quan bộ phận của Nhà nước thuộc cơ cấu của
Quốc hội và dưới góc gộ cách thức thiết kế, sắp xếp, bố trí các Ủy ban của Quốc hội
nhằm phát huy tối đa vai trò hỗ trợ Quốc hội thực hiện các chức năng của mình.
Khái niệm hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
Về góc độ ngơn ngữ, thuật ngữ “hoạt động” có thể được hiểu là: “Làm những
việc khác nhau với mục đích nhất định trong đời sống xã hội”, là “vận động, vận hành
để thực hiện chức năng nào hoặc gây tác động nào đó’’ hay hoạt động là việc “thực
hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể”, “tiến hành những việc làm có quan
hệ chặt chẽ với nhau nhằm một mục đích chung, trong một lĩnh vực nhất định”7.
Trong những hoạt động của Quốc Hội nói chung, hoạt động của các Ủy ban là việc
cơ quan này thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định. Các
hoạt động đó phản ánh đặc thù của Ủy ban với vị trí là các cơ cấu được thành lập bên
trong Quốc hội.
Ngồi những hoạt động mang tính chất thường xun, phục vụ trực tiếp cho

hoạt động của Quốc hội, theo quy định tại Điều 11 Quy chế làm việc mẫu của Hội
đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội 2021, các Ủy ban còn thực hiện một số
hoạt động khác theo quy định của pháp luật, như được mời tham dự các phiên họp
mở rộng của Thường trực Ủy ban của Quốc hội theo yêu cầu của Thường trực hoặc
nguyện vọng của đại biểu; đề nghị đưa vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách ra thảo
luận tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc kỳ họp Quốc hội; chủ động
nghiên cứu, đề xuất với Chủ nhiệm Ủy ban, Thường trực Ủy ban về những vấn đề
Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thuỷ, Đào Thị Minh Thu, Đặng
Thanh Hoà (Trung tâm từ điển học-Vietlex) (2010), Từ điển Tiếng Việt 2010, (In lần thứ ba, có sửa
chữa), Nxb. Đà Nẵng.
6
Xem truy cập ngày
01/6/2023.
7
Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh, Phạm Thị Thuỷ, Đào Thị Minh Thu, Đặng
Thanh Hoà (Trung tâm từ điển học-Vietlex) (2010), Từ điển Tiếng Việt 2010, (In lần thứ ba, có sửa
chữa), Nxb. Đà Nẵng.
5


10

thuộc thẩm quyền, lĩnh vực hoạt động của Ủy ban của Quốc hội hoặc đại biểu quan
tâm; giữ mối liên hệ thường xuyên với Chủ nhiệm Ủy ban, Thường trực Ủy ban và
các đại biểu khác; thực hiện tốt vai trò cầu nối, giữ mối liên hệ phối hợp giữa Hội
đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội với Đoàn đại biểu Quốc hội và các cơ quan nơi
công tác hoặc ứng cử, tham gia đầy đủ các hoạt động của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội khi được yêu cầu; phối hợp, hỗ trợ Thường trực Hội đồng Dân tộc,
Thường trực Ủy ban triển khai các hoạt động tại địa phương, cơ quan nơi công tác,
làm nhiệm vụ đại biểu; cung cấp những thơng tin về tình hình kinh tế - xã hội ở địa

phương, lĩnh vực cơng tác để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban của
Quốc hội, chủ động phối hợp với Đồn đại biểu Quốc hội, Văn phịng Đồn đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân ở địa phương hoặc cơ quan công tác tổ chức các hoạt
động tham vấn, lấy ý kiến nhân dân, cử tri nơi công tác, làm nhiệm vụ đại biểu về các
dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, các nội dung khác do Ủy ban chủ trì thẩm tra, giám
sát; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Chủ tịch Hội đồng
Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội và Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường
trực Ủy ban.
Từ đó, theo quan điểm của tác giả, hoạt động của Uỷ ban của Quốc hội là việc
các cơ quan này tiến hành các công việc cụ thể nhằm thực hiện chức năng thẩm tra,
giám sát, kiến nghị đã được pháp luật quy định, với mục đích tham mưu, tư vấn về
chuyên môn cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác được pháp luật quy định.
1.1.2.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
Từ nhận thức về khái niệm của Ủy ban của Quốc hội đã nêu trên, có thể chỉ ra
một số đặc điểm trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này như sau:
Thứ nhất, tính chất tham mưu, tư vấn về chun mơn. Quốc hội là một cơ quan
lớn gồm hàng trăm đại biểu, với phạm vi và nhiệm vụ, quyền hạn to lớn, liên quan
đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phịng, đối
ngoại. Không phải ngẫu nhiên mà trong các văn bản pháp lý cao nhất của các quốc
gia như Điều 70 Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1982, có quy định
về Ủy ban chun mơn của Đại biểu nhân dân toàn quốc. Việc tổ chức và hoạt động
của Ủy ban của Quốc hội là thiết chế giúp cho Quốc hội nói chung và đại biểu Quốc
hội nói riêng có thể nhận thức sâu về chun mơn trong những lĩnh vực cụ thể. Qua
đó, cung cấp đầy đủ những thông tin để Quốc hội xem xét quyết định những vấn đề
quan trọng quốc gia.
Ủy ban của Quốc hội là một phần tất yếu trong công tác tự tổ chức, tự phân
cơng lao động của một cơ quan để nó có thể vận hành một cách hiệu quả nhất. Ngồi



11

ra, đó cũng là cơ sở để phát huy các nguồn tri thức sâu về chuyên môn trong từng lĩnh
vực cụ thể vì trong cơ cấu của Quốc hội nước ta có sự tham gia của nhiều vị đại biểu
Quốc hội là chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác
nhau. Mặc dù có đặc điểm là tính chất tham mưu, tư vấn, song hoạt động của Ủy ban
có tác động rất lớn đến hoạt động của Quốc hội nói chung. Từ những kết quả hoạt
động của các Ủy ban, từng khía cạnh của dự án luật, dự thảo nghị quyết được làm
sáng tỏ, các đại biểu Quốc hội có được nguồn thơng tin giá trị, phản biện một cách
toàn diện đối với các nội dung do các cơ quan trình dự án đề xuất. Các đánh giá, kiến
nghị trong báo cáo của Ủy ban có sức ảnh hưởng đến Quốc hội là rất lớn, cụ thể là
đối với từng cá nhân đại biểu Quốc hội.
Thứ hai, hoạt động thường xuyên của bộ phận Thường trực Ủy ban. Ở nước
ta, tính chất thường xuyên hay “thường trực” của Ủy ban được quy định về mặt pháp
lý lần đầu tiên tại Điều 92 Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục được ghi nhận tại Điều 67
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm 2020. Trong những năm gần
đây, quan sát về đặc điểm “thường xuyên” trong hoạt động của Ủy ban của Quốc hội
cũng cho thấy những nét riêng. Trên thực tế, hầu hết nghị viện, Quốc hội các nước
đều duy trì hệ thống các Ủy ban với đặc điểm là cấu trúc hoạt động thường xuyên của
Quốc hội. Tính thường xuyên chỉ đúng với hoạt động của bộ phận thường trực. Bộ
phận thường trực gồm những thành viên mà đại đa số đều hoạt động chuyên trách
trong các Ủy ban của Quốc hội. Ngoài những thành viên này, phần lớn các thành viên
khác của Ủy ban của Quốc hội vẫn hoạt động kiêm nhiệm. Trên thực tế, họ đảm
nhiệm chức danh, thực thi các nhiệm vụ ở nhiều lĩnh vực, đoàn thể khác và việc
những hoạt động này mới là nhiệm vụ chính của họ.
Với đặc điểm là cấu trúc về chuyên môn trong cơ cấu tổ chức và hoạt động
của Quốc hội, tính chất thường xuyên của Ủy ban được duy trì phát triển như một
thực tế khách quan. Bởi vì tính “thường xun” góp phần quyết định tạo nên sự hiệu
quả hay không hiệu quả trong các hoạt động của Ủy ban.
Thứ ba, tuân thủ nguyên tắc làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa

số. Theo quy định tại Điều 68 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 sửa đổi, bổ sung năm
2020, “làm việc theo chế độ tập thể và quyết định đa số” đã trở thành một nguyên tắc
trong hoạt động của các Ủy ban. Trong lịch sử lập Hiến, tập trung dân chủ với ý nghĩa
là một nguyên tắc hoạt động của Quốc hội và của các cơ quan nhà nước khác. Bắt
đầu từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 2013, việc Nhà nước thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ đã là một nguyên tắc Hiến định. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật đã đề cập đến trường hợp một Ủy ban không đạt được sự thống
nhất thì những thành viên khơng đồng ý với ý kiến đa số có thể thêm ý kiến của mình


12

vào báo cáo của Ủy ban. Việc vận hành nguyên tắc này cũng nhằm tránh trường hợp
chân lý có thể khơng đứng về phía đa số trong Ủy ban; vì rõ ràng, hồn tồn khơng
loại trừ những trường hợp Quốc hội có thể quyết định có sự khác biệt hồn toàn với
ý kiến của đa số thành viên Ủy ban.
Thứ tư, hoạt động của Ủy ban mang tính chính trị sâu sắc. Ảnh hưởng quyết
định của yếu tố chính trị đối với hoạt động của Nghị viện/Quốc hội nói chung và hoạt
động của các Ủy ban nói riêng là thực tế khách quan và diễn ra khá phổ biến trong
hoạt động của Nghị viện/Quốc hội hiện nay. Thông thường, ở các nước theo thể chế
chính trị đa đảng, các Ủy ban trong Nghị viện có thành phần đảng chính trị khác
nhau8. Chẳng hạn như ở Thụy Điển, Quốc hội có 16 Ủy ban cố định, Ủy viên các Ủy
ban này được bầu chọn theo một phương cách nhất định để cho cơ cấu của mỗi Ủy
ban phản ánh tính đại diện của các đảng phái chính trị trong Quốc hội Thụy Điển9.
Các thành viên của Ủy ban phải hành động trong khn khổ đường lối, chính
sách của chính đảng mà mình tham gia. Họ phải có nghĩa vụ tn thủ kỷ luật của đảng
trong việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu nói chung và nhiệm vụ của thành viên Ủy ban
nói riêng. Về mặt chính trị, đây là điều mà đảng chính trị ở khơng ít quốc gia sử dụng
để bảo đảm sự thống nhất trong đảng. Khác với nhiều quốc gia khác trên thế giới, ở
Việt Nam, việc bảo đảm tính chính trị ở đây được đặt trong một tổng thể thống nhất

với tính chất đại biểu, đại diện trong hoạt động của Quốc hội cũng như trong hoạt
động của các Ủy ban của Quốc hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định rõ
và nhấn mạnh tính chất “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc”.
1.1.3. Yêu cầu đối với tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội.
Như đã đề cập ở trên, hoạt động của Ủy ban của Quốc hội có vai trị quan trọng
trong bộ máy nhà nước. Để có thể làm tốt những nhiệm vụ đề ra, Ủy ban của Quốc
hội phải đáp ứng những yêu cầu nhất định. Có thể hiện nay còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau về yêu cầu đối với tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội,
tuy nhiên như bất kỳ một cơ quan, tổ chức nào khác, hoạt động của Ủy ban phải
hướng tới việc thực hiện có hiệu quả vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
pháp luật quy định. Cụ thể, yêu cầu đối với tổ chức và hoạt động của Ủy ban của
Quốc hội được thể hiện qua các nội dung như sau:

Peder Nielsen, Ủy ban Hiến pháp của Quốc hội Thụy Điển: Giám sát của Quốc hội do Ủy ban Hiến
pháp của Quốc hội Thụy Điển tiến hành, Tlđd tr.89.
9
Magnus Isberg, chuyên gia Quốc hội Thụy Điển: Giám sát của Quốc hội Thụy Điển, Kỷ yếu Hội
thảo về “tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội”, từ 29-6 đến 01/7/2004, tại Nha Trang, Khánh
Hòa, tr.52.
8


13

Thứ nhất, đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật có giá
trị pháp lý tối cao của nước ta hiện nay. Quốc hội có chức năng lập hiến, chính vì vậy
để đảm bảo tơn trọng, phát huy và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
các cơ quan của Quốc hội phải tuân thủ hiến pháp. Tuân thủ Hiến pháp là sự biểu
hiện của nhà nước pháp quyền và thực hiện theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền

cũng chính là sự tuân thủ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã xác định rõ Nhà nước Việt Nam là “nhà nước của dân do
dân vì dân”. Bên cạnh đó, “thượng tơn pháp luật” cũng là một trong bốn yếu tố có
giá trị quan trọng trong khái niệm nhà nước pháp quyền theo Liên Hợp Quốc. Mọi
chủ thể trong xã hội trong đó có nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật. Quan điểm
này hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Do đó, khi đánh giá
hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội, tiêu chí đầu tiên cần phải đưa ra để xem xét,
đánh giá là: (i) Hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội đã tuân thủ đúng các quy
định của Hiến pháp, pháp luật chưa? (ii) Trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của các Uỷ
ban của Quốc hội được thực hiện, thể hiện như thế nào.
Thứ hai, bảo đảm tính khách quan. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
thất bại của các thể chế nhà nước chính là xa rời các quy luật khách quan, không phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn đời sống. Phần lớn ở các quốc gia hiện nay, cơ quan
lập pháp có các quyền chủ yếu là: quyền lập pháp, quyền giám sát hoạt động của các
cơ quan hành pháp. Khác với cơ quan đại diện ở địa phương, cơ quan lập pháp thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Điều này cũng
tất yếu yêu cầu phải đảm bảo tính khách quan trong các quyết định.
Xét đến cùng, chức năng lập pháp của Quốc hội cũng chính là chức năng của
từng đại biểu Quốc hội mà đặc biệt là của từng thành viên Ủy ban – cơ quan có chức
năng tham vấn, tham mưu cho Quốc hội. Là một tập thể, Ủy ban có nhiệm vụ giúp
cơ quan lập pháp tìm ra và lý giải một cách cụ thể những vấn đề liên quan đến mọi
lĩnh vực, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của toàn xã hội
cũng như của nhân dân. Yêu cầu về tính khách quan trong lĩnh vực lập pháp địi hỏi
Ủy ban khi thực hiện các hoạt động như thẩm tra, chỉnh lý dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật phải “cần quan tâm để pháp luật được nhận thức đúng với ý nghĩa của sự
vật, chứ đừng trái với bản chất sự vật”. Chính vì vậy địi hỏi tập thể và từng thành
viên của Ủy ban phải tôn trọng thực tế khách quan. Ngoài ra, Ủy ban phải tham gia
trực tiếp, hành động giúp Quốc hội nhận biết, loại trừ những yếu tố mang tính cục bộ,
gây tác động tiêu cực đến lợi ích chung trong hoạt động lập pháp và hoạt động giám
sát. Đây là một vấn đề đáng lưu ý. Ở khía cạnh khác, tính khách quan cịn yêu cầu



14

các Ủy ban phải bám sát tình hình thực tiễn, tăng cường các hình thức, biện pháp liên
hệ chặt chẽ với nhân dân trong việc thực hiện các hoạt động của mình.
Thứ ba, góp phần phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước Việt
Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật và thông qua pháp luật để tác
động đến xã hội. Yêu cầu này đòi hỏi trong hoạt động của mình, Quốc hội nói chung
và Ủy ban của Quốc hội nói riêng cần lắng nghe tiếng nói của nhân dân nhằm phản
ánh đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, góp phần quan trọng trong việc đảm
bảo các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành không chỉ nằm trên giấy mà phải
thực sự gây ảnh hưởng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội. Là các cơ cấu trong lịng
Quốc hội, với vị trí là các cơ quan của Quốc hội, cần khẳng định rằng các nguyên tắc
hoạt động của các Ủy ban phải được xác lập và đặt trong tổng thể với nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Quốc hội. Do đó, để hoạt động thực sự phù hợp với lợi ích của
quốc gia, dân tộc, đòi hỏi Ủy ban phải thật sự là “đầu dây thần kinh của Quốc hội đối
với cuộc sống”, là một trong những công cụ tiếp nhận ý kiến của nhân dân. Tính đại
biểu, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân của Quốc hội cần được thể hiện
xuyên suốt, liền mạch không chỉ thông qua từng vị đại biểu Quốc hội mà còn phải
thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, trong đó có hoạt động
của các Ủy ban của Quốc hội. Do vậy, cần khẳng định một vấn đề có tính bản chất
rằng, việc thể hiện, bảo đảm đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, là một
trong những yêu cầu cần được thể hiện trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
Ở nước ta, yêu cầu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân tồn tại trong một
chỉnh thể thống nhất với việc bảo đảm yêu cầu chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, bởi vì Đảng ta là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Yêu cầu này cũng đòi hỏi, hoạt động của các Ủy ban
của Quốc hội trong các lĩnh vực lập pháp, giám sát, phải chú ý tới các hình thức, biện

pháp để nắm bắt, phản ánh, đại diện được cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đây
là một trong những cách thức hữu hiệu để nâng cao chất lượng hoạt động của các Uỷ
ban của Quốc hội, qua đó, góp phần bảo đảm tính khả thi của các văn bản pháp luật
do Quốc hội ban hành, đồng thời, còn thể hiện bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường
sự tham gia của nhân dân vào quản lý xã hội, quản lý đất nước. Điều này đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy trình, thủ tục hoạt động của Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội theo xu hướng mở một cách hợp lý. Ngoại trừ những
vấn đề liên quan đến bí mật nhà nước, hoặc những vấn đề cần thiết khác, thì kết quả
hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội “cần phải được công khai để nhân dân có


15

điều kiện theo dõi tham gia” và qua đó, góp phần “để bảo đảm thực hiện tốt ý chí,
nguyện vọng của nhân dân”; thực hiện trên thực tế nguyên tắc lâu nay mà tưởng
chừng như khơng có gì mới là: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”; tăng cường sự tham
gia của các tầng lớp nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học, qua đó góp phần
gia tăng chất lượng, giá trị hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội.
Thứ tư, gắn với yêu cầu hội nhập quốc tế trong nhiệm kỳ Quốc hội. Việt Nam
đang trong tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng, đã và đang, sẽ là thành viên của
nhiều cam kết quốc tế. Do đó, hoạt động của thiết chế Ủy ban của Quốc hội cần phải
hướng tới mục tiêu thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hố, đa dạng hố các quan hệ
quốc tế; góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh; tạo hành lang pháp lý an toàn cho phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặt trong bối đó, một tiêu chí có tính ngun tắc cần
được chú trọng là phải giải quyết được hài hòa hai yêu cầu: một mặt bảo đảm đến
mức tối đa lợi ích quốc gia, mặt khác vẫn phù hợp, tuân thủ các cam kết quốc tế. Đây
là vấn đề cần lưu ý và phải được thực hiện xuyên suốt trong quá trình soạn thảo, thẩm

tra, cho ý kiến, thảo luận, chỉnh lý, hồn thiện, xem xét thơng qua văn bản.
Thứ năm, hoạt động của các Ủy ban phải đảm bảo tính thường xuyên. Đặt
trong điều kiện thực tiễn tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta, sự tồn tại và vận
hành của các cơ quan thường trực của Quốc hội là một nhu cầu cần khách quan. Thiết
chế ấy hiện nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội. Các Ủy ban của Quốc hội được thiết
lập từ Hiến pháp năm 1959 và khẳng định được tính chất khơng thể thay thế của mình,
song hành cũng tồn tại với mơ hình cơ quan thường trực của Quốc hội là Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Trong điều kiện hiện nay và giai đoạn tới, hơn lúc nào hết, Ủy
ban hoạt động thường xuyên phải trở thành một trong những yêu cầu thiết yếu. Cùng
với sự tồn tại, vận hành với Ủy ban thường vụ Quốc hội, yêu cầu “thường xuyên”
nhằm bổ sung, khắc phục những nhược điểm từ các hoạt động “khơng thường xun”.
Mặt khác, với vị trí vai trị là cơ quan thường trực của Quốc hội, đa số các đại biểu
Quốc hội hoạt động không chuyên trách sẽ dẫn đến không thể thực hiện nhiệm vụ
hiệu quả. Như vậy, nếu so sánh với hệ thống Ủy ban trong cơ quan lập pháp của nhiều
nước thì yêu cầu “thường xuyên” đối với Ủy ban của Quốc hội có nét đặc thù và cấp
thiết.
Thứ sáu, chú ý đến mức độ, tính hợp lý trong việc sử dụng nguồn lực về kinh
phí, nhân sự; thơng tin; thu hút trí tuệ, kinh nghiệm của chuyên gia, nhà khoa học.
Điều này được thể hiện qua các số liệu cụ thể chi phí cho con người, về tiền lương,
tiền thưởng, về cơ sở vật chất, về kinh phí tài chính… là bao nhiêu. Nói cách khác,


16

cần cân đong đo đếm về hiệu quả kinh tế. Trên thực tế, không chỉ trong kinh doanh,
khi đánh giá hiệu quả hoạt động của bất cứ thiết chế nào, kể cả các thiết chế nhà nước,
kinh tế luôn là một tiêu chí quan trọng. Tuy nhiên, do tính đặc thù của Quốc hội trong
tổ chức bộ máy nhà nước, cũng như vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của Quốc hội, cần khẳng định rằng, hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội không
xác định thuần túy về mặt kinh tế, mà phải chú trọng hơn đến ý nghĩa chính trị, xã

hội, quốc phịng - an ninh… Vì vậy, một vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải
quyết là: để đạt được mục tiêu nói trên, có thể sử dụng chi phí “đầu vào” gồm: con
người, bộ máy, về cơ sở vật chất, lương và thưởng phải thanh toán như thế nào cho
hợp lý. Bên cạnh đó, mặc dù kinh tế có thể khơng phải là tiêu chí hàng đầu, nhưng
khi thiết kế và xây dựng, triển khai các hoạt động chuyên môn của các Uỷ ban của
Quốc hội, không thể không chú ý đến khía cạnh kinh tế, bảo đảm tính hợp lý trong
việc sử dụng nguồn lực, trên cơ sở bảo đảm cao nhất về kết quả hoạt động chuyên
môn của Uỷ ban. Bên cạnh đó, cịn phải chú ý đến khía cạnh bảo đảm lợi ích tồn
diện của quốc gia, dân tộc. Như vậy, với vai trò hạt nhân của đại biểu Quốc hội, các
yêu cầu đối với hoạt động của các Uỷ ban của Quốc hội cũng chính là yêu cầu đối
với hoạt động của từng thành viên Uỷ ban, gắn bó chặt chẽ, mật thiết với ý thức về
trách nhiệm chính trị - pháp lý của người đại biểu nhân dân. Hoạt động của các Uỷ
ban của Quốc hội cần phải dựa trên các u cầu có tính ngun tắc, nền tảng nêu trên,
hay nói cách khác, đây cũng chính những giá trị mà hoạt động của các Uỷ ban của
Quốc hội cần hướng tới. Xét một cách thực chất, các yêu cầu này trong chừng mực
nào đó phản ánh đòi hỏi của Quốc hội đối với các cơ quan tham mưu, tư vấn của
mình, cũng là địi hỏi của thực tiễn cuộc sống đối với hoạt động của Quốc hội nói
chung, các cơ quan của Quốc hội, trong đó có các Uỷ ban của Quốc hội nói riêng.
1.2. Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Ủy ban của Quốc hội Việt
Nam.
1.2.1. Về tổ chức của Ủy ban của Quốc hội Việt Nam.
Các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta được tổ chức theo mô hình các Ủy ban
của Nghị viện. Có nhiều tiêu chí để phân biệt các loại hình Ủy ban. Căn cứ vào thời
gian tồn tại và mức độ hoạt động, tính chất nhiệm vụ, quyền hạn được giao, có thể
phân loại các loại hình Ủy ban phổ biến như sau: Ủy ban cố định, Ủy ban đặc biệt.
Ủy ban lâm thời… Ngồi ra cịn có các loại hình Ủy ban khác như Ủy ban hỗn hợp,
Ủy ban hội nghị. Hiện nay ở Việt Nam, các Ủy ban của Quốc hội được tổ chức theo
hai mơ hình đó là mơ hình Ủy ban cố định và mơ hình Ủy ban lâm thời. Việc thành
lập và giải thể Ủy ban do Quốc hội quyết định.



17

(1) Ủy ban cố định
Hoạt động của Ủy ban của Quốc hội có xu hướng phát triển theo ngành. Số
lượng Ủy ban có chiều hướng ngày càng gia tăng từ 02 Ủy ban theo quy định tại Điều
57 Hiến pháp năm 1959 đến 09 Ủy ban theo quy định tại Điều 66 Luật Tổ chức Quốc
hội (được sửa đổi, bổ sung năm 2020). Theo đó, các hoạt động của các Ủy ban tiếp
tục chia nhỏ, mang tính chun mơn cụ thể hơn như: pháp luật; tư pháp; kinh tế; tài
chính, ngân sách; quốc phịng và an ninh; văn hóa, giáo dục; xã hội; khoa học, công
nghệ và môi trường; đối ngoại. Ngồi các hoạt động mang tính chất gắn bó, phục vụ
trực tiếp cho Quốc hội, các Ủy ban còn thực hiện một số hoạt động khác theo quy
định của pháp luật cụ thể như đề nghị Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc
lấy ý kiến nhân dân, các cơ quan khác về dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị
quyết hoặc về các vấn đề quan trọng của quốc gia.
Để dễ hình dung về sự mở rộng số lượng các Ủy ban cố định cũng như sự thay
đổi tên gọi của các Ủy ban qua các thời kỳ, có thể hệ thống theo các khóa của Quốc
hội như sau:
Khóa I (1946-1960), theo Điều 59 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Quốc hội thành lập Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, và
những uỷ ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
Khóa II (1960-1964), ngồi hai Ủy ban mà Quốc hội đã thành lập theo quy
định của Hiến pháp 1959, ngày 30 tháng 4 năm 1963 Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa đã ban hành Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban thống nhất của Quốc
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Quốc hội khóa II này là Quốc hội xây dựng
Cộng hòa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”.
Khóa III (1964-1971), ở khóa này, ngồi 3 Ủy ban được thành lập tại Quốc
hội khóa II, tại kỳ họp thứ nhất diễn ra từ 25 tháng 6 đến 3 tháng 7 năm 1964 Quốc
hội đã thành lập thêm 2 Ủy ban mới là Ủy ban Dân tộc, Ủy ban Văn hóa xã hội.

Khóa IV (1971-1975), tại kỳ họp Quốc hội thứ 4 ngày 05/02/1974, Quốc hội
đã thành lập thêm Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội.
Khóa V (1975-1976), Quốc hội giữ nguyên số lượng Ủy ban như ở Quốc hội
khóa IV.
Khóa VI (1976-1981), ngày 02/07/1976, Quốc hội đã tiến hành bầu các lãnh
đạo các cơ quan cao nhất của Nhà nước và thành lập Chính phủ mới, trong đó thành
lập 6 uỷ ban: Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách; Uỷ ban Dự án pháp luật; Uỷ ban Dân
tộc; Uỷ ban Văn hóa và Giáo dục, Uỷ ban Y tế và Xã hội; Uỷ ban Đối ngoại.


18

Khóa VII (1981-1987) và khóa VIII (1987-1992), Quốc hội được tổ chức và
hoạt động theo Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhà nước năm 1981. Hiến pháp
năm 1980 không quy định cụ thể tên gọi của các Ủy ban cố định như Hiến pháp năm
1959 mà chỉ khái quát chức năng, nhiệm vụ của các Ủy ban nà. Luật Tổ chức Quốc
hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 quy định về việc thành lập bảy Ủy ban cố định,
bao gồm: (i) Uỷ ban pháp luật; (ii) Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách; (iii) Uỷ
ban văn hoá và giáo dục; (iv) Uỷ ban khoa học và kỹ thuật; (v) Uỷ ban y tế và xã hội;
(vi) Ủy ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và (vii) Uỷ ban đối ngoại10. Ngồi ra,
Quốc hội có thể thành lập những Ủy ban cố định khác khi xét thấy cần thiết.
Khóa IX (1992-1997) và khóa X (1997-2002), các cơ quan chuyên môn của
Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Luật tổ chức Quốc hội năm 1992, số lượng
vẫn là 9 cơ quan chuyên môn (gồm Hội đồng dân tộc và 7 Ủy ban) nhưng có sự sáp
nhập, đổi tên và thành lập mới. 11Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách được đổi
thành Ủy ban Kinh tế và Ngân sách, Ủy ban Y tế và Xã hội được đổi thành Ủy ban
Về các vấn đề xã hội; Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật đổi thành Ủy ban Khoa học,
Công nghệ và Môi trường; sáp nhập 2 Ủy ban (Ủy ban Văn hóa và Giáo dục và Ủy
ban Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng) thành Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên,
Thiếu niên, Nhi đồng); thành lập mới Ủy ban Quốc phòng và An ninh12.

Khóa XI (2002-2007) và Khóa XII (2007-2012), các cơ quan chuyên môn của
Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức của Quốc hội (Luật số 83/2007/QH11 ngày 11-4-2007) thêm 3 Ủy ban mới
là Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách (trên cơ sở tách
Ủy ban Pháp luật thành Ủy ban Tư pháp và Ủy ban Pháp luật; tách Ủy ban Kinh tế
Ngân sách thành Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Như vậy, theo Luật
Tổ chức Quốc hội năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) thì Quốc hội có 1 Hội đồng
dân tộc và có 9 Ủy ban.
Khóa XIII (2012-2016), Khóa XIV (2016-2021), Khóa XV (2021-2026) tại
thời điểm này, Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 sửa đổi, bổ sung
năm 2020 thì Quốc hội Việt Nam hiện hành cũng có 1 Hội đồng dân tộc và 9 Ủy ban
chuyên trách. Như vậy ngoài Ủy ban Thường vụ, các Ủy ban khác của Quốc hội gồm:
Ủy ban Pháp luật là cơ quan thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung của
dự thảo sửa đổi Luật, Hiến pháp, Pháp lệnh của Quốc hội.
Điều 45 Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng nhà nước năm 1981.
Điều 22 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001.
12
Xem Bùi Ngọc Thanh (2012), “Quốc hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Văn phòng
Quốc hội.
10
11


19

Ủy ban Tư pháp là cơ quan thảo luận, đóng góp ý kiến về các nội dung dự án
pháp lệnh về hình sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án,
bổ trợ tư pháp. Đồng thời là cơ quan nhận khiếu nại tố cáo của Quốc hội Việt Nam
có quyền thẩm tra các vụ án được giao hoặc nhận thư khiếu nại. Sau khi kết luận nếu
vi phạm nghiêm trọng gửi Viện Kiểm sát xử lý.

Ủy ban Kinh tế là cơ quan giám sát kinh tế của Quốc hội, đồng thời thảo luận
sửa đổi về các bộ Luật, Nghị quyết liên quan đến Kinh tế trước khi dự thảo trình Quốc
hội. Ủy ban thường công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô hăng năm với nhiệm vụ và định
hướng phát triển Kinh tế đất nước với định chế của Đảng và Nhà nước. Bên trong Ủy
ban Kinh tế có Vụ kinh tế với nhiệm vụ tham mưu, giúp việc Ủy ban về các công việc
chuyên môn của Ủy ban và của Thường trực Ủy ban; chủ động nghiên cứu, đề xuất
với Lãnh đạo Ủy ban những vấn đề về thực hiện chức năng, nhiệm vụ và các vấn đề
có liên quan đến hoạt động của Ủy ban, chủ động phối hợp với các Vụ, đơn vị có liên
quan của Văn phịng Quốc hội để phục vụ Ủy ban và Thường trực Ủy ban về mặt
hành chính, quản trị và các cơng việc khác.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách là cơ quan giám sát về tình hình thực hiện dự
tốn ngân sách và một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân sách của
Quốc hội Việt Nam; xem xét việc thực hiện hoạch định tài chính của các địa phương.
Cơ quan này tham vấn trong việc chỉnh sửa Luật, Nghị định, Nghị quyết liên quan
đến Tài chính của Quốc hội và cơ quan Chính phủ. Ủy ban Tài chính thường cử đồn
cơng tác giám sát xuống địa phương để quản lý tài chính của địa phương.
Ủy ban Quốc phịng và An ninh là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt
Nam, cơ quan giám sát pháp lệnh liên quan tới An ninh và Quốc phòng. Thành viên
của Ủy ban có quyền giám sát ngân sách chi tiêu Quốc phịng của Việt Nam, cắt giảm
hoặc đề xuất tăng chi tiêu nếu thấy cần thiết.
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục là cơ quan giám sát lĩnh vực văn hóa giáo dục thanh
thiếu niên nhi đồng của Quốc hội. Đồng thời thảo luận sửa đổi các đạo Luật liên quan
đến văn hóa, giáo dục, thanh niên và nhi đồng trước khi trình Quốc hội. Ủy ban cịn
có nhiệm vụ giám sát, thẩm tra các nghị quyết, nghị định... của Chính phủ về các lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, thanh niên và nhi đồng và giám sát việc thực hiện các Luật
trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thanh niên và nhi đồng.
Ủy ban Xã hội là cơ quan chuyên trách của Quốc hội Việt Nam, cơ quan giám
sát các lĩnh vực liên quan tới lao động, y tế, xã hội, tôn giáo và vấn đề khác do Quốc
hội giao. Ngoài ra các ủy viên Ủy ban có quyền giám sát bảo hiểm xã hội, chính sách
dành cho người cao tuổi, người có công.



20

Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường là cơ quan chuyên trách của Quốc
hội Việt Nam, cơ quan giám sát các lĩnh vực liên quan tới khoa học, công nghệ và
môi trường sinh thái.
Ủy ban Đối ngoại là cơ quan đối ngoại của Quốc hội với nhiệm vụ thực thi
ngoại giao với Quốc hội các nước. Đồng thời là cơ quan nghiên cứu, quán triệt và
thực hiện mục tiêu đối ngoại của Quốc hội. Và là cơ quan thẩm tra dự án, luật, nghị
định, nghị quyết liên quan đến các vấn đề đối ngoại của Chính phủ và Nhà nước trước
khi đệ trình lên Quốc hội.
So với những ngày đầu thành lập, hiện nay, cơ cấu của Ủy ban về cơ bản đã
được xây dựng một cách tương đối tốt nhằm phục vụ cho Quốc hội, thực hiện những
nhiệm vụ của mình. Cơ cấu tương đối hồn chỉnh này thể hiện ở việc xây dựng một
Ủy ban Quốc hội hồn chỉnh, có sự phân quyền, phân nhiệm với nhau nhằm chỉ đạo
hoạt động của Ủy ban. Ủy ban của Quốc hội gồm Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm,
các Ủy viên thường trực và các Ủy viên chuyên trách tại Ủy ban của Quốc hội. Các
thành viên này sẽ giúp Chủ nhiệm trong công tác cũng như chịu sự phân cơng chỉ đạo
trực tiếp của Chủ nhiệm góp phần vào công việc chung của Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội.
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001, chức danh Chủ nhiệm,
Phó Chủ nhiệm và Ủy viên do Quốc hội bầu, Ủy ban thường vụ Quốc hội sẽ quyết
định số thành viên hoạt động chuyên trách của các Ủy ban. Nhưng theo quy định của
Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì chỉ có chức
danh Chủ nhiệm được Quốc hội bầu, các chức danh khác do Ủy ban thường vụ Quốc
hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ nhiệm các Ủy ban. Điều đó cho thấy vai trị của
Chủ nhiệm và Ủy ban thường vụ Quốc hội trong việc tạo thành cơ cấu tổ chức của
các Ủy ban. Điểm khác biệt giữa Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 và Luật Tổ chức
Quốc hội năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 là sự thay đổi nhận thức về cơ

cấu, cách thức hình thành Thường trực của Ủy ban của Quốc hội. Cụ thể, Luật mới
bổ sung quy định quyền của đại biểu Quốc hội tham gia làm thành viên của Ủy ban
của Quốc hội; có cơ chế để đại biểu Quốc hội có thể đăng ký tham dự các phiên họp
của Ủy ban của Quốc hội về các nội dung mà đại biểu quan tâm. Điều 30 Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định Đại biểu Quốc
hội có quyền tham gia làm thành viên của Ủy ban của Quốc hội. Căn cứ vào năng lực
chuyên môn, kinh nghiệm công tác, đại biểu Quốc hội đăng ký tham gia làm thành
viên của một Ủy ban của Quốc hội. Trên cơ sở đăng ký đó, Chủ nhiệm Ủy ban của
Quốc hội lập danh sách thành viên Ủy ban trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn. Đại biểu Quốc hội không phải là thành viên của Ủy ban của Quốc hội có quyền


21

đăng ký tham dự phiên họp do Ủy ban tổ chức để thảo luận về những nội dung mà
đại biểu quan tâm13.
Sự hoàn chỉnh trong cơ cấu tổ chức của Ủy ban còn thể hiện ở việc thành lập
nên các tiểu ban, đặt dưới sự quản lý của trực tiếp của Ủy ban. Tùy theo quan điểm,
yêu cầu của tình hình mới mà mỗi nhiệm kì, Ủy ban có sự đổi mới trong việc thành
lập các tiểu ban. Về phía mình, cơ cấu của các tiểu ban cũng có sự thay đổi theo
hướng tích cực hơn. Sự chuyển biến dễ thấy nhất đó là sự tăng lên về thành viên của
tiểu ban của Ủy ban Quốc hội. Số lượng thành viên nhiều có thuận lợi là việc thực
hiện các nhiệm vụ của tiểu ban được thực hiện một cách kĩ lưỡng và nhanh chóng, có
chất lượng. Các tiểu ban thường được giao chuẩn bị những vấn đề liên quan đến hoạt
động của Thường trực Ủy ban và thậm chí là cả Ủy ban, đặc biệt là trong hoạt động
chuẩn bị cho thẩm tra, cho nên, nếu tập trung số lượng thành viên hợp lý thì quá trình
hoạt động của tiểu ban đó sẽ dễ dàng hơn. Mặt khác, tiểu ban cịn có các chun viên,
thư kí để giúp đỡ và hỗ trợ cho hoạt động của tiểu ban.
Khi đề cập đến thành viên của Ủy ban là không thể không nhắc đến những
thành viên hoạt động chuyên trách. Các thành viên hoạt động chuyên trách này sẽ

giúp cho Ủy ban duy trì được sự hoạt động trong khoảng thời gian giữa các phiên họp
toàn thể, thực hiện những nhiệm vụ mà Ủy ban thường vụ Quốc hội giao phó. Các
thành viên kiêm nhiệm thì sẽ hoạt động ở địa phương nhằm bám sát tình hình ở nơi
mình sinh sống, từ đó khi cần sẽ có những kiến nghị, những đề xuất, báo cáo cho
Thường trực Ủy ban của Quốc hội.
(1) Ủy ban lâm thời
Về mặt lịch sử, Ủy ban lâm thời bắt đầu xuất hiện trong cơ cấu tổ chức của
nghị viện bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX trong mơ hình nghị viện Westminster 14 của
Vương quốc Anh. Nhiệm vụ chủ yếu của các Ủy ban lâm thời khi đó là giúp nghị
viện xem xét các dự luật do Chính phủ trình. Sau khi mạng lưới các Ủy ban cố định
được hình thành ở nghị viện Anh và nhân rộng ra nghị viện các nước khác trên thế
giới vào khoảng giữa thế kỷ XX thì sự hiện diện của các Ủy ban lâm thời có thể khơng
cịn nhiều như trước kia nữa. Tuy nhiên, thay vào đó thì phạm vi nhiệm vụ mà Ủy
ban lâm thời ngày nay phụ trách lại đa dạng hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Các
cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý về cơ bản đã phân loại các Ủy ban lâm thời

13

Xem truy cập
ngày 28/5/2023.
14
Hệ thống Westminster là hệ thống nhà nước dân chủ nghị viện theo mơ hình chính trị của Vương
quốc Anh. Thuật ngữ này xuất phát từ Cung điện Westminster, nơi đặt Nghị viện Anh.


×