Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nội luật hóa và thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà việt nam là thành viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 80 trang )

NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG NGHI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***------------

TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO
VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG NGHI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

NỘI LUẬT HÓA VÀ THỰC TIỄN NỘI LUẬT HÓA
CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CƠ BẢN VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Quốc tế
Niên khóa: 2014 - 2018
NĂM 2018

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***------------

TRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO


VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ

NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG NGHI

NỘI LUẬT HÓA VÀ THỰC TIỄN NỘI LUẬT HÓA
CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CƠ BẢN VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Quốc tế
Niên khóa: 2014 - 2018

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Hữu Phước
Người thực hiện: Nguyễn Ngọc Phương Nghi
MSSV: 1453801015157
Lớp: CLC39B

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan Khố luận tốt nghiệp Cử nhân Luật với đề tài “Nội luật hóa
và thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt
Nam là thành viên” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi, khơng sao chép của bất
cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của riêng mình.


Người cam đoan

Nguyễn Ngọc Phương Nghi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ hồn chỉnh

Chữ viết tắt

1

Cơng ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm
1969

Công ước Viên 1969

2

Dự thảo Công ước về trách nhiệm pháp lý quốc
gia năm 2001

Dự thảo Công ước
năm 2001

3


Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966

ICCPR

4

Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa năm 1966

5

Bộ luật hình sự năm 2015

6

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

7

Bộ luật dân sự năm 2015

BLDS 2015

8

Bộ luật lao động năm 2012

BLLĐ 2012


ICESCR
BLHS 2015
BLTTHS 2015


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................6
LÝ LUẬN VỀ NỘI LUẬT HÓA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ...................................6
QUYỀN CON NGƯỜI ...............................................................................................6
1.1 Khái niệm nội luật hóa điều ước quốc tế ............................................................6
1.2 Đặc điểm của nội luật hóa điều ước quốc tế ......................................................8
1.3 Vai trị của nội luật hóa điều ước quốc tế ...........................................................9
1.4 Nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế ............................................................11
1.4.1

Cơ sở lý luận của nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế ....................11

1.4.2

Các điều kiện cần bảo đảm của nội luật hóa .........................................13

1.4.3 Hậu quả pháp lý của việc khơng nội luật hóa các điều ước quốc tế mà
quốc gia là thành viên .........................................................................................18
1.5 Phương thức nội luật hóa điều ước quốc tế ......................................................19
CHƯƠNG 2 ..............................................................................................................24
THỰC TIỄN NỘI LUẬT HÓA CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CƠ BẢN VỀ ..........24
QUYỀN CON NGƯỜI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN .................................24
2.1 Ý nghĩa nội luật hóa điều ước quốc tế về quyền con người .............................24
2.2 Thực tiễn việc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người của Việt

Nam ..........................................................................................................................26
2.2.1

Giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1977 ..................................................26

2.2.2

Giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1986 ..................................................28

2.2.3

Giai đoạn từ năm 1986 đến hiện nay ....................................................30

2.3 Thực tiễn nội luật hóa Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 vào Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật dân sự Việt
Nam ..........................................................................................................................33
2.4 Thực tiễn nội luật hóa Cơng ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966 vào Hiến pháp, Bộ luật dân sự và Bộ luật lao động .........................................59
2.5 Bất cập và một số kiến nghị nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người theo
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Cơng ước về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 ..............................................................67
KẾT LUẬN ...............................................................................................................69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................



Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Con người là chủ thể của tất cả các hoạt động xã hội nên vấn đề bảo vệ con

người và bảo vệ quyền con người là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết
cho sự phát triển của xã hội. Vì vậy, quyền con người trở thành vấn đề toàn cầu và
được đặc biệt quan tâm bởi cộng đồng quốc tế. Các văn kiện quốc tế quan trọng đã
có ghi nhận quyền của con người như Hiến chương Liên Hợp quốc, Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền năm 1948, Công ước Giơ-ne-vơ năm 1949, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966, Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội
và văn hoá năm 1966,.... Trong đó, hai Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 và Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm
1966 giữ vai trò quan trọng trong việc ghi nhận các quyền cơ bản nhất mà con người
được thụ hưởng.
Trong tiến trình giao lưu, hội nhập quốc tế sâu rộng và tồn diện, trong đó có
hội nhập pháp luật quốc tế về quyền con người, Việt Nam càng tiến gần hơn với các
giá trị nhân đạo chung được công nhận bởi hầu hết các quốc gia trên thế giới. So với
giai đoạn lịch sử trước năm 1945, từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, với chủ
trương lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất
nước, Việt Nam đã tham gia rất nhiều các văn kiện quốc tế nhằm thực hiện chính sách
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó có hai văn bản cốt lõi là Cơng ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, văn hoá và xã hội năm 1966.
Nhằm bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế, đặc biệt là điều ước quốc tế về
quyền con người, vấn đề nội luật hóa được đặt ra và cần được phân tích, tìm hiểu
chuyên sâu, nhất là trong giai đoạn tăng cường hội nhập của Việt Nam hiện nay.
Thêm vào đó, nghiên cứu, so sánh các quy định nội luật hóa hai văn bản nền tảng là
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và Cơng ước quốc tế về


1


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 nhằm bảo vệ chặt chẽ hơn quyền con
người trong khuôn khổ quốc gia cũng không kém phần cầp thiết.
Từ thực tiễn đó, tác giả chọn vấn đề nội luật hóa và thực tiễn nội luật hóa các
điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam là thành viên làm đề tài
Khoá luận tốt nghiệp Cử nhân Luật của mình.
2.

Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tác giả chọn nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ các vấn

đề lý luận về nội luật hóa điều ước quốc tế và thực tiễn việc nội luật hóa các điều ước
quốc tế cơ bản về quyền con người vào trong Hiến pháp và các bộ luật của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các vấn
đề lý luận và thực tiễn tại Việt Nam. Trong đó, thực tiễn tham gia các điều ước quốc
tế của Việt Nam được nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1957 đến nay và tác giả chỉ
so sánh, đánh giá việc nội luật hóa hai điều ước quốc tế quan trọng là Cơng ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa năm 1966 trong Hiến pháp và các bộ luật của Việt Nam gồm Bộ
luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự và Bộ luật lao động.
3.

Tình hình nghiên cứu

Trên bình diện quốc tế, một số sách, cơng trình tiêu biểu có đề cập đến vấn đề

nội luật hóa như:
- Jasentuliyana Nandasini (1995), Perspectives on international law, Nxb.
KLuwer law international. Trong cuốn sách này, tác giả đề cập đến các vấn đề lý luận
và thực tiễn cơ bản của luật quốc tế cũng như đưa ra những phân tích chuyên sâu về
các quan điểm khác nhau về một số vấn đề chính yếu của luật quốc tế.
- Sean D.

Murphy (2006), Principles of international law, Nxb.

Thomson/West. Trong cơng trình nghiên cứu này, tác giả tóm lược các nguyên tắc cơ
bản nhất của luật quốc tế và liên hệ với thực tiễn tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

2


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

- Fenwick C. G. (1934), International Law, Nxb. Appleton Century Crofts.
Trong tác phẩm này, tác giả phân tích sâu về khái niệm, quá trình hình thành, các
nguyên tắc, chủ thể và các vấn đề mang tính nền tảng của luật quốc tế.
Tại Việt Nam, vấn đề lý luận về nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế
đã được đề cập trong một số sách và cơng trình nghiên cứu tiêu biểu với nội dung
như sau:
- Trần Văn Thắng, Hoàng Ly Anh, Lê Mai Anh (2001), Luật quốc tế lý luận
và thực tiễn, Nxb. Giáo dục. Trong cuốn sách này, tác giả tập trung nghiên cứu các
vấn đề lý luận chung của luật quốc tế và so sánh thực tiễn thực thi các quy định của

luật.
- Ngô Hữu Phước (2010), Luật quốc tế: Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị
Quốc gia. Trong cuốn sách này, tác giả nghiên cứu tổng quan các vấn đề của luật
quốc tế và đưa ra ví dụ thực tiễn giải thích cho các vấn đề trên.
- Nguyễn Thị Phương Hoa (2016), Nội luật hóa các quy định của cơng ước
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia trong bộ luật Hình sự Việt Nam, Nxb.
Hồng Đức. Trong cuốn sách này, tác giả đưa ra những lý luận cơ bản nhất về nội luật
hóa và tập trung phân tích sâu về quy định chống tội phạm có tổ chức xun quốc gia
trong bộ luật Hình sự.
- Nguyễn Quyết Thắng (2016), “Nội luật hóa quy định của các điều ước quốc
tế chống khủng bố về tội phạm hóa trong bộ luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc
sĩ, Đại học Luật TP.HCM. Trong luận văn này, tác giả nêu nhận thức chung về nội
luật hóa, từ đó tập trung nghiên cứu tội phạm khủng bố và vấn đề tội phạm hóa.
- Võ Thị Luyến (2010), “Nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người
trong hiến pháp Việt Nam hiện hành”, Cơng trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh
viên cấp trường. Trong công trình này, tác giả đã tìm hiểu về quyền con người, những
vấn đề chung nội luật hóa các điều ước quốc tế về quyền con người cũng như đưa ra
phân tích về các quy định về quyền con người trong Hiến pháp hiện hành.

3


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

Ngồi ra, có một số các bài viết tiêu biểu trên các tạp chí chuyên ngành luật
phân tích về nội luật hóa như:
- Ngơ Hữu Phước (2015), “Nội luật hóa các điều ước quốc tế về đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,

Số 6. Trong bài báo này, tác giả tập trung làm rõ khái niệm, cơ sở của việc nội luật
hóa, nêu lên thực trạng việc nội luật hóa các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng,
chống tội phạm và từ đó đưa ra các kiến nghị.
- Mạc Thị Hồi Thương (2013), “Nội luật hóa và vai trị của nội luật hóa trong
việc thực hiện điều ước quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 10. Trong bài
báo này, tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trị của nội luật hóa.
- Ngơ Đức Mạnh (2003) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển hóa
điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 180.
Trong bài báo này, tác giả đã giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp
luật quốc gia, từ đó nêu vấn đề và đưa ra kiến nghị cho chuyển hóa điều ước quốc tế
ở nước ta.
- Lê Mai Anh (2003), “Cơ sở lý luận của hoạt động chuyển hóa điều ước quốc
tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 179. Trong bài báo này, tác giả tập trung đào
sâu về các cơ sở lý luận cho việc nội luật hóa các điều ước quốc tế.
Nhìn chung, các cơng trình, bài viết trên đã có những đóng góp nhất định trong
việc tìm hiểu các vấn đề lý luận cơ bản về nội luật hóa các điều ước quốc tế nói chung,
tạo điều kiện để tác giả có thể đào sâu nghiên cứu về vấn đề này. Vậy nên, kế thừa
những nghiên cứu đã có, tác giả tổng hợp, phân tích và phát triển sâu hơn về nội luật
hóa cũng như thực tiễn nội luật hóa trong Hiến pháp và các bộ luật Việt Nam những
điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu của khoa học pháp lý

để hồn thành khố luận này. Cụ thể, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích để
làm rõ khái niệm, đặc điểm cũng như vai trò của nội luật hóa. Phương pháp trên cũng

4



Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

được dùng để nghiên cứu cơ sở lý luận của nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế.
Phương pháp tổng hợp được tác giả vận dụng để bao quát các phương thức nội luật
hóa điều ước quốc tế và đưa ra tổng quan việc gia nhập các điều ước quốc tế về quyền
con người của Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp so sánh để đối
chiếu và đánh giá việc chuyển hóa các quy định của các điều ước quốc tế vào nội luật.
5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Về phương diện lý luận, khóa luận góp phần làm rõ các vấn đề liên quan đến

nội luật hóa các điều ước quốc tế cũng như cho thấy thực tiễn nội luật hóa các điều
ước quốc tế cơ bản về quyền con người trong Hiến pháp và các bộ luật của Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn, khóa luận có thể làm tài liệu học tập, nghiên cứu,
tham khảo cho người nghiên cứu chuyên ngành luật nói chung và luật quốc tế nói
riêng.
6.

Bố cục của khóa luận

Khóa luận gồm những phần như sau:
 Lời mở đầu
 Chương 1: Lý luận về nội luật hóa điều ước quốc tế về quyền con người
 Chương 2: Thực tiễn nội luật hóa các điều ước quốc tế cơ bản về quyền con
người mà Việt Nam là thành viên
 Kết luận

 Danh mục tài liệu tham khảo

5


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ NỘI LUẬT HÓA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI
1.1 Khái niệm nội luật hóa điều ước quốc tế
Hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa hồn chỉnh và thống nhất về nội luật hóa
là gì. Theo Công ước Viên 1969, điều ước là một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng
văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận
trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau
và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì.1 Theo đó, một quốc gia chịu sự ràng buộc của
một điều ước quốc tế được thể hiện thông qua việc ký, trao đổi các văn kiện của điều
ước, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác được
thỏa thuận2 và chính sự ràng buộc trên làm phát sinh nghĩa vụ của quốc gia trong việc
thực hiện điều ước quốc tế.
Để thực hiện điều ước quốc tế, các quốc gia cần làm điều ước quốc tế phát sinh
hiệu lực đối với mình bằng các hành vi pháp lý cụ thể như ký chính thức, phê chuẩn,
phê duyệt, gia nhập, chấp thuận. Khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực thì quốc
gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện điều ước đó. Để giải quyết yêu cầu về thực hiện
điều ước quốc tế thì cả về phương diện pháp lý và thực tiễn, có hai phương thức để
thực hiện. Đó là áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp điều ước quốc tế. Áp dụng
trực tiếp tức là sau khi điều ước quốc tế đã phát sinh hiệu lực đối với mình, tuỳ vào
nội dung, tính chất và yêu cầu của điều ước quốc tế, các quốc gia có thể áp dụng tồn

bộ hoặc một phần điều ước đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lãnh thổ quốc gia
nếu điều ước hoặc một phần của điều ước đó đã “đủ rõ, chi tiết”.3 Khác với áp dụng
trực tiếp, áp dụng gián tiếp điều ước quốc tế có nghĩa, sau khi điều ước đã phát sinh
hiệu lực với mình, các quốc gia phải chuyển hố, hay cịn gọi là “nội luật hố” tồn

Điểm a, khoản 1, Điều 2, Công ước Viên 1969
Điều 11, Công ước Viên 1969
3
Khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016
1
2

6


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

bộ hoặc một phần điều ước quốc tế “chưa đủ rõ, chưa chi tiết” bằng các hành vi sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản pháp luật quốc gia để thực hiện. Mặc dù
tại khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 không nêu rõ rằng việc sửa đổi,
bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản pháp luật mới sẽ được thực hiện khi văn bản
chưa rõ hoặc chưa chi tiết nhưng cách hiểu như trên là hợp lý bởi lẽ với những điều
ước quốc tế quy định trực tiếp và rõ ràng đủ để thi hành thì khơng cần phải tốn thời
gian, cơng sức, chi phí để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hay ban hành văn bản mà chỉ cần
áp dụng trực tiếp quy định của điều ước đó nhằm tiết kiệm các nguồn lực nói trên.
Mặt khác, theo thống kê, hằng năm Việt Nam ký kết hơn một trăm điều ước quốc tế4
mà việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hay ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần qua
các trình tự, thủ tục, cần nhiều thời gian. Hơn thế nữa, Quốc hội nước ta làm việc

theo kỳ, mỗi năm hai kỳ họp và rõ ràng rằng với dung lượng điều ước quốc tế lớn
như vậy thì việc nội luật hóa tất cả điều ước quốc tế vào văn bản luật là khó khăn mà
theo tác giả thì nó cịn bất khả thi. Vì thế việc chọn lọc chỉ những điều ước quốc tế
khung, điều ước mang tính nguyên tắc và các điều ước chưa đủ rõ để nội luật hóa và
áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế đã rõ và chi tiết là phù hợp.
Từ phân tích trên, chúng ta cũng có thể thấy rõ sự khác biệt giữa nội luật hóa và
phương thức làm phát sinh hiệu lực của điều ước quốc tế. Phương thức làm phát sinh
hiệu lực của điều ước quốc tế là sự chấp nhận ràng buộc của quốc gia đối với điều
ước quốc tế đó, là cơ sở để quốc gia thực hiện hoạt động tiếp theo là nội luật hóa để
đưa điều ước quốc tế vào thực thi trong hệ thống pháp luật nước mình. Ở đây, hành
vi nội luật hóa xuất hiện sau khi điều ước quốc tế có hiệu lực đối với quốc gia kí kết.
Vì thế, khơng thể đánh đồng cũng như xem nội luật hóa và phương thức làm phát
sinh hiệu lực của điều ước quốc tế là một.
Tóm lại, chúng ta có thể đúc kết được rằng nội luật hóa có nghĩa là hành vi pháp
lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyển hóa các quy phạm của điều ước quốc
tế vào trong các quy phạm của pháp luật quốc gia thông qua việc ban hành, sửa đổi,

4

Báo cáo tổng kết thi hành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2014 của Bộ Ngoại giao

7


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

bổ sung hoặc bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho điều ước
quốc tế được thực hiện đầy đủ trong khuôn khổ quốc gia.

1.2 Đặc điểm của nội luật hóa điều ước quốc tế
Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng nội luật hóa điều ước quốc tế có các đặc điểm
như sau:
 Nội luật hóa là hành vi pháp lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Vì bản
chất của nội luật hóa là chuyển hóa quy định của điều ước quốc tế vào pháp
luật quốc gia nên hành vi nhằm nội luật hóa bao gồm ban hành, sửa đổi, bổ
sung hoặc bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật. Do đó, chủ thể thực hiện việc
nội luật hóa phải là chủ thể có thẩm quyền thực hiện các hành vi ban hành hay
bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật nói trên. Trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, các cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ,…5 cho nên những chủ thể nói trên cũng có thẩm quyền
nội luật hóa điều ước quốc tế.
 Q trình nội luật hóa xảy ra sau khi có hành vi chấp nhận hiệu lực của điều
ước quốc tế: Vì nội luật hóa có nghĩa là chuyển hóa quy định của điều ước
quốc tế mà quốc gia mình là thành viên vào trong pháp luật quốc gia nên nhất
thiết trước đó phải có hành vi chấp nhận hiệu lực của điều ước quốc tế hay còn
gọi là các hành vi biểu thị sự đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước theo
như Điều 11 Cơng ước Viên 1969. Theo đó, nội luật hóa có thể diễn ra trong
hai giai đoạn: giai đoạn sau khi quốc gia chấp nhận hiệu lực của điều ước quốc
tế và giai đoạn thực hiện điều ước quốc tế. Nếu như khơng có hành vi chấp
nhận sự ràng buộc như trên, việc chuyển tải quy định của các điều ước quốc
tế vào pháp luật quốc gia không được xem là nội luật hóa mà chỉ được xem là
sự học hỏi, lấy kinh nghiệm từ pháp luật quốc tế mà thôi. Như vậy, việc nội

5

Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

8



Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

luật hóa xuất hiện sau và cần có tiền đề là việc chấp thuận hiệu lực điều ước
quốc tế của quốc gia.
 Nội dung của văn bản đã “nội luật hoá” phải phù hợp với quy định của điều
ước quốc tế được nội luật hóa. Bằng các hành vi xác lập sự ràng buộc của
mình đối với điều ước quốc tế, một quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đúng những
cam kết trong điều ước quốc tế mà mình là thành viên.6 Mà cơ sở để thực hiện
điều ước quốc tế trong phạm vi quốc gia là việc nội luật hóa nên nội luật hóa
phải đúng thì điều ước quốc tế mới được thực hiện chính xác được. Vì thế, các
quy định được nội luật hóa trong văn bản pháp luật quốc gia phải có nội dung
phù hợp với điều ước quốc tế nhằm đảm bảo nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết
của quốc gia mình.
1.3 Vai trị của nội luật hóa điều ước quốc tế
Để trả lời cho câu hỏi vì sao phải nội luật hóa điều ước quốc tế thì ta cần xác
định nội luật hóa có các vai trị như sau:
Thứ nhất, nội luật hóa khẳng định sự cam kết tuân thủ, thực hiện điều ước quốc
tế của quốc gia thành viên.
Một trong những nguyên tắc cơ bản và lâu đời nhất của luật quốc tế là nguyên
tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế pacta sunt servanda. Nguyên tắc này đã
được ghi nhận trong các văn kiện mang tính nền tảng của luật quốc tế là Hiến chương
Liên Hợp quốc, Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc, Công
ước viên 1969,…7 Theo nguyên tắc này, các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện một cách
tận tâm, đầy đủ, thiện chí và trung thực các nghĩa vụ mà mình đã cam kết phù hợp
với Hiến chương Liên Hợp quốc và luật quốc tế hiện đại.8 Như vậy, bằng các hành vi
ký, trao đổi các văn kiện của điều ước, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia

Công ước Viên 1969 quy định: “Điều 26. Pacta sunt servanda
Micta sunt servanda servanda quyta sunt servanda servanda và ph6. Pacta sunt servanda h v ph6. Pacta ”.
7
Xem các khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc, Mục 1 Tuyên bố ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng
Liên Hợp quốc và Điều 26 Công ước Viên 1969.
8
Ngô Hữu Phước (2013), Luật quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, trang 152
6

9


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận, quốc gia đã cam kết thực hiện các
nghĩa vụ được ghi nhận trong các điều ước trên nguyên tắc pacta sunt servanda.
Tuy nhiên, việc chấp nhận sự ràng buộc đối với các cam kết thôi là chưa đủ mà
các quốc gia phải đưa các cam kết đó vào thực thi, khơng chỉ trên bình diện quốc tế
với chủ thể là các quốc gia mà cịn trong phạm vi lãnh thổ nước mình. Điều đó cho
thấy sự tuân thủ chặt chẽ các điều ước quốc tế đã cam kết. Nhằm mục đích thực hiện
điều ước quốc tế trên lãnh thổ quốc gia, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nội
luật hóa các quy định đó. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tơi, nội luật hóa là một
sự khẳng định cho việc thực thi tận tâm và đầy đủ các cam kết quốc tế mà quốc gia
là thành viên. Đối với các điều ước quốc tế về quyền con người, nội luật hóa là một
bằng chứng của sự cơng nhận ở cấp độ quốc gia và là cơ sở để đảm bảo các quyền
con người đang cư trú tại quốc gia đó.
Thứ hai, nội luật hóa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực thi điều ước quốc tế
trong khuôn khổ quốc gia.

Như đã phân tích ở trên, do tính “chưa rõ, chưa chi tiết” của điều ước quốc tế
mà cần có sự nội luật hóa để đưa quy định của điều ước quốc tế vào pháp luật của
quốc gia để đảm bảo thực hiện. Như vậy, nếu khơng có q trình nội luật hóa thì các
điều ước quốc tế chỉ dừng lại ở việc được cam kết mà không thể đưa vào thi hành
được trên thực tế trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia cam kết. Vì vậy, tác giả cho
rằng kết quả của q trình nội luật hóa, tức các văn bản quy phạm pháp luật trong
nước, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực hiện các cam kết quốc tế trong phạm
vi quốc gia cho các quy định còn chưa chi tiết của điều ước quốc tế.
Vai trị này của nội luật hóa càng trở nên đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực
quyền con người. Nói như thế là bởi vì chính nhờ cơ sở pháp lý được tạo nên thơng
qua q trình nội luật hóa mà cơng dân và các cá nhân cư trú có thể thực hiện các
quyền pháp định của mình mà khơng vấp phải các cản trở. Ngồi ra, khi có sự vi
phạm các quyền cơ bản của con người thì những quy phạm đó là cơ sở và là cơng cụ

10


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

để chủ thể bị vi phạm có thể bảo vệ các quyền lợi chính đáng cũng như yêu cầu các
biện pháp bồi thường cho mình.
Trên thực tế, các điều ước quốc tế cần được áp dụng gián tiếp khá bao quát bởi
nó được thỏa thuận và cam kết bởi nhiều quốc gia với các đặc điểm về bộ máy nhà
nước, hệ thống pháp luật, quan điểm chính trị, yếu tố kinh tế - xã hội,… khác nhau.
Vì vậy, để đi đến áp dụng trong nước, cần có sự cụ thể hóa để phù hợp với thực tế tại
từng quốc gia. Trong pháp luật Việt Nam, việc nội luật hóa các quy định của điều ước
quốc tế không những tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi trong nước mà còn tạo cơ sở
cho việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm hướng dẫn một cách chi tiết

hơn việc thực hiện các nghĩa vụ thành viên, là tiền đề để Việt Nam cam kết sâu hơn
đối với các điều ước quốc tế mà mình tham gia.
Thứ ba, nội luật hóa góp phần vào việc hài hịa hóa pháp luật giữa các quốc gia.
Hài hịa hóa pháp luật tức là việc làm cho các nguyên tắc pháp luật của hai hay
nhiều hơn các hệ thống pháp luật khác nhau trở nên gần giống nhau.9 Việc nội luật
hóa các quy định của điều ước quốc tế khiến cho các quy định của điều ước quốc tế
mang giá trị cá biệt đối với từng quốc gia, phù hợp với các đặc điểm về chính trị, kinh
tế, xã hội quốc gia đó. Tuy nhiên, giá trị cơ bản và cốt lõi của điều ước quốc tế phải
được đảm bảo dựa trên cơ sở là nguyên tắc pacta sunt servanda. Theo đó, pháp luật
các quốc gia là thành viên đều có điểm chung là các quy định cơ bản của điều ước
quốc tế. Từ đó có thể thấy nội luật hóa điều ước quốc tế là một hình thức thúc đẩy
việc hài hịa hóa pháp luật, đưa quy định của pháp luật các quốc gia tiệm cận nhau
hơn.
1.4 Nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế
1.4.1 Cơ sở lý luận của nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế
Thứ nhất, nói đến cơ sở lý luận của hoạt động nội luật hóa thì nhất thiết phải nói
đến mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong mối quan
9

Michael Bogdan (1994), Luật so sánh, Nxb. KLuwer Law and Taxation, trang 22

11


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

hệ này, luật quốc tế và luật quốc gia là hai chủ thể riêng biệt, tách rời và độc lập với
nhau. Tuy nhiên, “luật quốc gia đóng vai trị xuất phát điểm của luật quốc tế và là

phương tiện thực hiện luật quốc tế; ngược lại luật quốc tế có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển của luật quốc gia và làm cho hệ thống luật quốc gia ngày càng tiến
bộ hơn, nhân đạo hơn.”10 Bởi lẽ trong quá trình đàm phán xây dựng và ký kết các
điều ước quốc tế, các quốc gia đưa ra tư tưởng, ý chí, quan điểm của pháp luật nước
mình. Thơng qua q trình đó, luật quốc gia làm cơ sở cho việc hình thành luật quốc
tế mà cụ thể trong trường hợp này là điều ước quốc tế. Ngược lại, các cam kết trên
bình diện quốc tế của quốc gia dẫn đến hệ quả pháp lý là nghĩa vụ thực thi các cam
kết đó trên cơ sở quán triệt nguyên tắc pacta sunt servanda. Từ đó có thể thấy luật
quốc tế tác động lại luật quốc gia theo chiều hướng đưa pháp luật quốc gia tiến gần
hơn với các giá trị chung của thế giới. Sự tác động qua lại, biện chứng của mối quan
hệ trên làm nền tảng nảy sinh yêu cầu về nội luật và đó là một trong các cơ sở lý luận
cho nghĩa vụ nội luật hóa điều ước quốc tế của quốc gia.
Thứ hai, về bản chất, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận về ý chí, sự đàm phán
để đi đến lợi ích chung cho tất cả các quốc gia thành viên. Phù hợp với các Điều 51,
52 và 53 của Công ước Viên 1969, điều ước quốc tế phát sinh hiệu lực khi nó hội tụ
đủ ba điều kiện:
(i)

Điều ước quốc tế phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng;

(ii)

Điều ước quốc tế được ký kết phù hợp với trình tự, thủ tục, thẩm quyền
theo quy định của pháp luật của các bên ký kết; và

(iii)

Điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của luật quốc tế.11


Khi đã phát sinh hiệu lực và quốc gia đã biểu thị sự chấp nhận ràng buộc của
mình đối với điều ước quốc tế, điều ước quốc tế đó sẽ có tính ràng buộc đối với quốc
gia trong phạm vi lãnh thổ của bên đó.12 Tuy nhiên, với những điều ước quốc tế
Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Cơng pháp quốc tế. Quyển 1, Nxb. Hồng Đức, trang 71
Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Công pháp quốc tế. Quyển 1, Nxb. Hồng Đức, trang 121
12
Điều 29 Công ước Viên 1969
10
11

12


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

khung, điều ước quốc tế mang tính nguyên tắc và trong phạm vi các quy định linh
hoạt của điều ước thì một mặt các quốc gia tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda,
mặt khác mỗi bên có cách thực hiện điều ước quốc tế khác nhau trong nội bộ quốc
gia mình do chính những đặc điểm cá biệt cũng như lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nói cách khác, dù có sự thỏa thuận về ý chí nhưng các điều ước quốc tế nói trên
khơng và khơng thể quy định chi tiết việc thực hiện điều ước quốc tế chung cho tất
cả các quốc gia thành viên. Chính bản chất đó làm nảy sinh nghĩa vụ nội luật hóa điều
ước quốc tế cho các quốc gia tham gia để đảm bảo việc thực hiện phù hợp nhất với
hoàn cảnh của quốc gia mình.
Thứ ba, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động mang
tính chủ quyền của quốc gia. Nhằm mục đích quản lý xã hội, nhà nước ban hành pháp
luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi quản lý của mình. Các
quy phạm pháp luật đó có tính chất bắt buộc và được đảm bảo thực hiện bởi quyền

lực nhà nước. Đồng thời, tính chủ quyền trong việc ban hành và thực hiện pháp luật
không cho phép một quốc gia chịu sự chi phối về mặt lập pháp, hành pháp cũng như
tư pháp từ một quốc gia hay một thiết chế nào khác. Như vậy, với sự đảm bảo chủ
quyền của mình, nhà nước của quốc gia cam kết phải là chủ thể duy nhất có quyền
đưa những cam kết trong điều ước quốc tế vào trong các quy phạm pháp luật quốc
gia. Vì thế, chịu sự chi phối của yếu tố chủ quyền và với tính chất độc lập, riêng lẽ
của luật quốc tế và luật quốc gia thì u cầu về nội luật hóa nảy sinh đối với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của quốc gia thành viên của điều ước quốc tế.
Đúc kết lại, về cơ sở lý luận, nội luật hóa được nảy sinh từ mối quan hệ biện
chứng giữa hai hệ thống luật quốc tế và luật quốc gia, bản chất của điều ước quốc tế
và chủ quyền quốc gia trong hoạt động lập pháp.
1.4.2 Các điều kiện cần bảo đảm của nội luật hóa
Cơng ước Viên 1969 và Luật Điều ước quốc tế năm 2016 đã quy định cụ thể về
các điều kiện cần bảo đảm khi thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Cũng có thể hiểu rằng, các điều kiện trên cũng áp dụng cho hoạt động nội luật hóa

13


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

bởi lẽ việc nội luật hóa và thực hiện điều ước quốc tế có mỗi quan hệ qua lại, chặt
chẽ với nhau. Như vậy, khi nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải đáp ứng các điều kiện sau:
-

Đảm bảo tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda:
Là một nguyên tắc cơ bản và lâu đời của luật quốc tế, pacta sunt servanda được


nêu lên lại Điều 26 Công ước Viên 1969 và được đưa vào trong quy định tại khoản 4
Điều 3 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và khoản 1 Điều 6 như sau: “Tuân thủ điều
ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” và “Trường
hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng
quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.” Như vậy, ngun tắc trên khơng
cịn dừng lại ở cấp độ quốc tế với chủ thể là các quốc gia mà có hiệu lực bắt buộc,
trực tiếp đối với các chủ thể trong nước trong việc thực hiện điều ước hay nội luật
hóa điều ước quốc tế.
Nội luật hóa tuân thủ theo nguyên tắc pacta sunt servanda có nghĩa là kết quả
của q trình nội luật hóa, tức các quy phạm pháp luật có chứa nội dung được chuyển
hóa phải phù hợp với các cam kết của quốc gia tại điều ước quốc tế. Như đã nói ở
trên, mặc dù mục đích nội luật hóa có bao gồm việc làm cho quá trình thực hiện điều
ước quốc tế trở nên gần gũi hơn với thực tiễn của quốc gia, không thể phủ nhận rằng
những giá trị cơ bản và cốt lõi của điều ước quốc tế bắt buộc các quốc gia phải tuân
theo. Vì thế, tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda trong nội luật hóa tức là chuyển
hóa các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên một cách đầy đủ,
tận tâm, thiện chí và trung thực.
Tuy nhiên, xét về việc thực hiện điều ước quốc tế, tại Điều 6 Luật Điều ước
quốc tế năm 2016 có quy định nếu điều ước quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật
quốc gia có sự mâu thuẫn thì ưu tiên áp dụng quy định của điều ước quốc tế, ngoại
trừ Hiến pháp. Nói cách khác, nếu như Hiến pháp có quy định trái với điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên thì có thể hiểu rằng điều ước quốc tế đó sẽ không được

14


Nguyễn Ngọc Phương Nghi


Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

áp dụng, không được thực hiện và không được đưa vào nội luật. Điều này đặt ra một
vấn đề rằng liệu quy định tại Điều 6 nêu trên có trái với quy tắc “không thể viện dẫn
những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho việc không thi hành
một điều ước” được nêu tại Điều 27 Công ước Viên 1969 hay không.
Xét đến vấn đề này ta cần hiểu phạm vi của “những quy định của pháp luật
trong nước” có bao gồm Hiến pháp hay khơng. Theo quan điểm của các học giả luật
quốc tế thì “những quy định của pháp luật trong nước” bao gồm Hiến pháp, các đạo
luật và văn bản luật khác, và các quy định đó bao gồm cả quy định đang có hiệu lực
lẫn các quy định sẽ được ban hành dựa trên điều ước quốc tế.13 Như vậy, rõ ràng nếu
trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế mà quốc gia viện dẫn quy định của Hiến
pháp như là một lý do để không áp dụng hay thực hiện điều ước thì ngun tắc pacta
sunt servanda nói riêng và cam kết trong Cơng ước Viên 1969 nói chung đã bị vi
phạm.
Như vậy để việc nội luật hóa có thể tuân thủ đúng nguyên tắc pacta sunt
servanda và không vi phạm các Điều 26 và 27 của Công ước Viên 1969 thì cần thực
hiện việc xem xét tính hợp hiến của các quy định trong điều ước quốc tế trong giai
đoạn đề xuất, rà soát, thẩm tra trước khi Việt Nam chấp nhận sự ràng buộc đối với
các điều ước quốc tế nhằm phát hiện được các quy định trái với Hiến pháp để thực
hiện các bảo lưu (nếu được) hoặc khơng tham gia điều ước đó. Với cách trên, ta vừa
có thể đảm bảo giá trị pháp lý cao nhất của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật trong
nước, vừa ngăn chặn được sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế.14 Dù vậy, trong trường hợp
có sự rà sốt khơng kĩ lưỡng dẫn tới việc ký kết một điều ước quốc tế trái với Hiến
pháp thì dù Luật Điều ước quốc tế năm 2016 có quy định khơng áp dụng nhưng Việt
Nam không thể vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình. Vì thế, quy định mâu thuẫn trong
Hiến pháp phải bị sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ để phù hợp với cam kết tại điều ước.

13


Mark Eugen Villiger (2009), Commentary on the 1969 Vienna Convention on the Law of Treaties, Nxb.
Martinus Nijhoff, trang 372
14
Xem Trần Thăng Long (2017), “Bàn về vấn đề thực hiện điều ước quốc tế theo luật Điều ước quốc tế năm
2016”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 01, trang 59

15


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

Cách thức sửa đổi Hiến pháp trên cũng hợp lý trong trường hợp việc tham gia vào
một điều ước trái Hiến pháp nhưng mang lại lợi ích rất lớn cho quốc gia.
Ở góc độ khác, Điều 12 Hiến pháp năm 2013 có nêu rằng Việt Nam “tuân thủ
Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên”. Điều này có nghĩa là khi điều ước phát sinh hiệu lực với quốc
gia mình thì Việt Nam tn thủ hồn tồn điều ước đã ký kết mà khơng có ngoại lệ
khi trái Hiến pháp. Tuy nhiên, Luật Điều ước quốc tế năm 2016 lại quy định nếu điều
ước quốc tế trái với Hiến pháp thì sẽ khơng được thực hiện. Theo quan điểm của tác
giả, quy định của Luật Điều ước quốc tế đã vượt ra ngoài phạm vi quy định của Hiến
pháp và đây là một sự vi hiến. Vì vậy, cần có sự điều chỉnh trong quy định của Luật
Điều ước quốc tế năm 2016 để đảm bảo sự thống nhất với quy định của Hiến pháp,
loại bỏ tính vi hiến của quy định trên và tránh vi phạm Điều 26, 27 Công ước Viên
1969.
-

Đảm bảo không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên:

Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 có quy định tại

khoản 2 Điều 6 như sau: “Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm
không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên có quy định về cùng một vấn đề.” Đến Luật Điều ước quốc tế
năm 2016 thì quy định trên đã khơng cịn nữa mà thay vào đó nó được quy định tại
Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 về nguyên tắc xây dựng,
ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “không làm cản trở việc thực hiện các điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Quy định trong
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 vẫn không làm thay đổi sự
điều chỉnh của nguyên tắc trên đối với việc nội luật hóa điều ước quốc tế của nước
ta.
Về nội dung, nguyên tắc trên đặt ra yêu cầu rằng các văn bản nội luật hóa phải
có nội dung không chỉ phù hợp với các cam kết trong điều ước quốc tế được nội luật

16


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

hóa mà cịn phải khơng trái hay làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế khác
mà Việt Nam là thành viên. Một vấn đề được đặt ra đó là như thế nào được xem là
“cản trở”. Cản trở tức là làm cho việc thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam trở
nên khó khăn hoặc bị trì hỗn, dẫn đến việc khơng tn thủ các cam kết quốc tế một
cách nhanh chóng, triệt để và có thiện chí, đi ngược lại với nguyên tắc pacta sunt
servanda. Như vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi soạn thảo văn bản nội
luật hóa phải xác định được khả năng một quy phạm có thể làm cản trở việc thực hiện
điều ước quốc tế khác hay không. Đây là một vấn đề khá khó khăn bởi nó mang tính

chủ quan và định tính hơn là định lượng. Chính bởi nó chưa có các quy chuẩn hay
các tiêu chí đánh giá mà việc xem xét tính “cản trở” cịn chưa rõ ràng, gây khó khăn
cho vấn đề nội luật hóa. Ví dụ kết quả của việc nội luật hóa quyền lập hội tại ICCPR
là quy định quyền lập hội bị hạn chế với hội liên kết, gia nhập các hội nước ngồi,
nhận tài trợ nước ngồi thì liệu quy định này phù hợp với khoản 2 Điều 22 ICCPR
hay là một quy định cản trở chính văn bản mà nó chuyển hóa.
Thêm vào đó, khi so sánh giữa quy định tại Điều 6 Luật Ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 và Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2015 thì có thể thấy cụm từ “có quy định về cùng một vấn đề” đã được
loại bỏ ở Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Điều này có nghĩa
phạm vi các điều ước quốc tế cần được xem xét xét để loại bỏ tính “cản trở” của quy
phạm nội luật hóa khơng cịn giới hạn ở cùng lĩnh vực với điều ước được nội luật hóa
nữa mà mở rộng ra tất cả các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc cơ quan ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ văn bản quy phạm
pháp luật nhằm nội luật hóa phải kiểm sốt chặt chẽ hơn các cam kết của Việt Nam
trong các điều ước để tránh vi phạm nguyên tắc pacta sunt servanda.
Tóm lại, để thực hiện nghĩa vụ nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên, có hai điều kiện cần đảm bảo là tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda,
và không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Như vậy, để nghiêm chỉnh tuân thủ hai điều kiện trên, khi nội luật hóa các điều ước

17


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

quốc tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải kiểm tra, rà soát các điều ước mà Việt
Nam là thành viên đang còn hiệu lực để thực hiện nhằm tránh quy định mâu thuẫn

hoặc cản trở việc thực hiện các điều ước đó. Đồng thời, các cơ quan nói trên phải bám
sát và chuyển hóa đúng các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
1.4.3 Hậu quả pháp lý của việc khơng nội luật hóa các điều ước quốc tế mà quốc
gia là thành viên
Hành vi không ban hành, bãi bỏ hay sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật
cần thiết để thực hiện một nghĩa vụ quốc tế được xem là hành vi của cơ quan lập pháp
cấu thành một hành vi trái pháp luật quốc tế và quốc gia là chủ thể phải gánh chịu
trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi đó.15 Theo đó, hành vi trái pháp luật quốc tế
nói trên tồn tại dưới dạng không hành động vi phạm nghĩa vụ quốc tế, tức nghĩa vụ
thực hiện các cam kết của quốc gia theo điều ước quốc tế như quy định tại Điều 2 và
Điều 12 Dự thảo Công ước năm 2001.16 Mà hành vi trái pháp luật quốc tế là một
trong ba căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế. Như vậy, nếu có sự tồn tại của
hai căn cứ còn lại, tức thiệt hại thực tế và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật quốc tế và thiệt hại xảy ra thì quốc gia có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp
lý quốc tế.
Xét về thiệt hại thực tế xảy ra, nó có thể tồn tại dưới dạng vật chất hoặc phi vật
chất, thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp hay thiệt hại gây ra cho một chủ thể hoặc nhiều
chủ thể và cả cộng đồng. Việc chứng minh thiệt hại do hành vi khơng nội luật hóa
gây ra khơng phải lúc nào cũng dễ dàng. Với những điều ước quốc tế trong lĩnh vực
thương mại, thiệt hại có thể được chứng minh thông qua các số liệu thống kê cụ thể
Xem Trường Đại học Luật TP.HCM (2013), Giáo trình Cơng pháp quốc tế. Quyển 2, Nxb. Hồng Đức,
trang 437-439
16
Điều 2 Dự thảo Công ước năm 2001 quy định: “Hành vi sai trái mang tính chất quốc tế của một quốc gia
xuất hiện khi quốc gia đó thực hiện một hành động hoặc không hành động và:
a. Hành vi được quy cho quốc gia căn cứ vào luật quốc tế;
b. Hành vi tạo ra một sự vi phạm nghĩa vụ quóc tế của quốc gia đó”
Điều 12 Dự thảo Cơng ước năm 2001 quy định: “một hành vi của quốc gia được xem là vi phạm đến nghĩa
vụ quốc tế khi hành động của quốc gia khơng phù hợp với những gì mà nghĩa vụ quốc tế đó yêu cầu, bất kể

nguồn gốc hoặc bản chất của các nghĩa vụ này”
15

18


Nguyễn Ngọc Phương Nghi

Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật

về mức tổn thất cho quốc gia chịu thiệt hại. Tuy nhiên, với những điều ước quốc tế
trong lĩnh vực chính trị, xã hội, cụ thể là điều ước quốc tế về quyền con người, việc
chứng minh khó khăn hơn do thiệt hại phải được ghi nhận trong một cách đầy đủ và
hợp lý để đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong việc chứng minh và truy cứu
trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Với yếu tố về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và thiệt
hại thực tế phát sinh, hành vi trái pháp luật đó phải là nguyên nhân xuất hiện trước và
dẫn đến hậu quả làm thiệt hại phát sinh trên thực tế. Nếu khơng có mối quan hệ nhân
quả nói trên thì khơng có sự vi phạm pháp luật quốc tế, từ đó cũng khơng có căn cứ
truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với quốc gia.
Để truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với quốc gia thì cần xác định chủ
thể có quyền yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp lý đó. Các chủ thể đó có thể là quốc
gia bị thiệt hại hoặc quốc gia không bị thiệt hại tùy từng trường hợp cụ thể được quy
định tại Điều 42 và 48 Dự thảo Công ước năm 2001.
Như vậy, nếu thỏa mãn cả ba dấu hiệu và bị yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp
lý bởi một trong các chủ thể nêu trên, việc không tuân thủ nghĩa vụ nội luật hóa có
thể dẫn đến các hậu quả là việc thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế dưới các hình
thức có thể xảy ra như bồi thường thiệt hại vật chất, làm thỏa mãn bên bị hại, trả đũa
quốc tế (việc khôi phục nguyên trạng và trừng phạt quốc tế không được tác giả đề cập
bởi tính khơng thể khơi phục ngun trạng của việc khơng nội luật hóa và tính nghiêm

khắc q cao của biện pháp trừng phạt quốc tế so với mức độ nghiêm trọng của hành
vi).17
1.5 Phương thức nội luật hóa điều ước quốc tế
Như được thể hiện trong phần khái niệm, nội luật hóa chính là hành vi pháp lý
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm chuyển hóa quy định của các điều ước
quốc tế mà quốc gia là thành viên vào trong quy phạm của pháp luật quốc gia thông
17

Xem các Điều 34-37 và Chương II Phần thứ III Dự thảo Công ước năm 2001

19


×