Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Nội luật hóa luật quốc tế vào luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.63 KB, 59 trang )

NỘI LUẬT HÓA LUẬT QUỐC TẾ VÀO LUẬT VIỆT NAM
MỤC LỤC
Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa Luật quốc gia - luật quốc tế và vấn đề nội luật hóa ở
Việt Nam 3
1.1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.2. Lý luận chung về vấn đề nội luật hóa ở Việt Nam 16
1.2.1. Khái niệm 16
1.2.2. Đặc điểm 17
1.2.3. Các mô hình nội luật hóa các Điều ước quốc tế ở Việt Nam 20
1.2.5. Vấn đề nội luật hóa của các nước trên thế giới 27
2.1. Thực trạng thực thi các điều ước quốc tế ở Việt Nam trong một số lĩnh vực cụ thể 40
2.1.1. Trong lĩnh vực nhân quyền 40
2.1.2. Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại 41
2.1.3. Trong lĩnh vực môi trường 42
2.1.4. Trong lĩnh vực du lịch 43
2.2. Nhận xét và kiến nghị 47
2.2.1. Nhận xét 47
2.2.2. Kiến nghị 50
KẾT LUẬN 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
PHỤ LỤC: 57
LỜI MỞ ĐẦU
1
Trong giai đoạn Xã hội chủ nghĩa, Luật quốc tế đang phát triển một cách mạnh
mẽ trong lịch sử loài người. Về căn bản, luật quốc tế được biểu hiện qua tập quán và
Điều ước quốc tế. Hiện nay, các tập quán được áp dụng cực kì ít, chỉ sử dụng những
tập quán ưu việt như: quy chuẩn về ngoại giao, cứu hộ trên biển, tuyên bố tình trạng
chiến tranh, bảo vệ nguyên thủ quốc gia,…. Các Điều ước quốc tế thì ngược lại, đang
phát triển và tăng nhanh trên mọi lĩnh vực. Chính vì thế trong phạm vi bài tiểu luận
của nhóm, khi bàn về mối quan hệ qua lại giữa luật quốc gia và luật quốc tế, về bản


chất cũng chính là tìm hiểu về quan hệ qua lại giữa pháp luật quốc gia và Điều ước
quốc tế. Với tính cách là nguồn cơ bản của Luật quốc tế hiện đại, điều ước quốc tế nổi
lên giữ vai trò của một công cụ pháp lý hữu hiệu nhất điều chỉnh quan hệ về mọi mặt
giữa các chủ thể của Luật quốc tế, chủ yếu là các quốc gia. Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, vai trò then chốt của điều ước quốc tế càng được khẳng định, vừa là
phương tiện hợp tác của các quốc gia, vừa là "đòn bẩy" của các quan hệ hợp tác quốc
tế về kinh tế.
Tuy nhiên, xét về bản chất của mối quan hệ qua lại giữa luật quốc gia với luật
quốc tế ở Việt Nam hiện tại cũng như nhiều nước trên thế giới hiện nay còn chưa có
quan điểm thống nhất. Điều này đã làm cho giới chức chính trị ở các nước nhìn nhận
vấn đề này không giống nhau, thậm chí còn sử dụng pháp luật quốc tế (hoặc pháp luật
quốc gia) như một công cụ để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác, vi
phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, nhóm chỉ nêu lên những lý luận cơ bản về mối
quan hệ luật quốc tế và luật quốc gia và hiểu được bản chất nội luật hóa là gì cùng với
thực trạng và một số ý kiến của nhóm xung quanh những vấn đề đó, để cùng cô và các
bạn trao đổi trong buổi phản biện.
2
Chương 1: Lý luận chung về mối quan hệ giữa Luật quốc gia - luật quốc tế và vấn
đề nội luật hóa ở Việt Nam
1.1. Lý luận chung về mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế
1.1.1. Khái niệm
Luật quốc tế là hệ thống pháp luật độc lập bao gồm những nguyên tắc, quy
phạm do các chủ thể của luật quốc tế xây dựng nhằm điều chỉnh quan hệ quốc tế (chủ
yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau. Luật quốc tế được
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế riêng lẻ, cưỡng chế tập thể hoặc
thông qua dư luận tiến bộ trên thế giới.
Luật quốc gia
1
là hệ thống các quy phạm pháp lý, thành văn hoặc không thành

văn do nhà nước đặt ra hoặc công nhận nhằm điều chỉnh quan hệ pháp lý giữa các chủ
thể của pháp luật và về nguyên tắc những quan hệ đó phát sinh trong lãnh thổ hoặc
quyền tài phán của quốc gia đó. Pháp luật trong nước có hiệu lực trực tiếp trên lãnh
thổ của quốc gia ban hành ra nó.
Như đã nói ở trên, về bản chất mối quan hệ luật quốc tế và luật quốc gia cũng
chính là bàn về quan hệ qua lại giữa pháp luật quốc gia và Điều ước quốc tế. Thế thì
Điều ước quốc tế là gì?
Điều ước quốc tế
2
là văn bản pháp luật quốc tế do chủ thể của Luật quốc tế xây
dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng thông qua quá trình đấu tranh, thương
lượng nhằm ấn định, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ với nhau.
1.1.2. Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế
1.1.2.1. So sánh luật quốc gia và luật quốc tế
1
Bài viết: “Khái niệm Luật quốc tế và Luật quốc gia”_TS. Lê Mai Anh
/>2
Xem thêm Điều 1 Công ước viên 1969.
3
Để so sánh một cách căn bản luật quốc gia và luật quốc tế ta xét đến các yếu tố
sau:
Về đối tượng điều chỉnh, pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ, còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế.
Về chủ thể, chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân và nhà nước tham gia
với tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của
pháp luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc
lập, các tổ chức liên chính phủ và các chủ thể khác.
Về trình tự xậy dựng pháp luật, việc xây dựng pháp luật và trình tự xây dựng
pháp luật của pháp luật quốc gia do cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng và trình

tự xây dựng pháp luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các quy
phạm thành văn, bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ
quyền quốc gia của luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật, quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập
trung thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù… làm biện pháp bảo đảm thi
hành, còn pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung mà chỉ có một số
biện pháp cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể.
Về phương pháp điều chỉnh, các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia
có nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các ngành luật trong hệ thống pháp
luật quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
1.1.2.2. Quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế và Pháp luật quốc gia
Nói đến tác động qua lại giữa điều ước quốc tế và pháp luật trong nước, cũng
tức là nói đến các học thuyết về mối quan hệ qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia, xét theo nghĩa rộng. Qua nghiên cứu cho thấy, các học thuyết về mối
quan hệ qua lại này, trước hết, ra đời trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa và ở một mức độ
nhất định, gắn với mục tiêu chính trị là củng cố quyền lực của nhà nước tư sản và từ
đó có những ảnh hưởng quan trọng đối với quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc
4
tế của các quốc gia. Nổi lên có hai học thuyết
3
quan trọng là thuyết nhất nguyên và
thuyết nhị nguyên. Trong thuyết nhất nguyên lại có trường phái về giá trị ưu thế của
pháp luật quốc tế và trường phái về giá trị ưu thế của pháp luật quốc gia.
a) Thuyết nhất nguyên
Thuyết nhất nguyên (nhất nguyên luận) xuất phát từ quan điểm cho rằng, luật
quốc tế và luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật thống nhất, trong
đó bộ phận này tuỳ thuộc vào bộ phận kia. Sự tuỳ thuộc của mỗi bộ phận pháp luật là
do đặc tính về giá trị ưu thế của bộ phận này, so với bộ phận kia quyết định.
Đại diện cho học thuyết này là H.Kelsel, A.Verdross, A.Zorn, A.Lasson,
B.Kunz

4
. Cội nguồn sâu xa, xét về mặt lịch sử tư tưởng của học thuyết này, trước hết
là dựa vào quan điểm của học thuyết pháp luật tự nhiên. Trên cơ sở quan niệm cho
rằng bản chất tốt đẹp của con người là do năng lượng của thiên nhiên mang lại nên
không thể được xác định khác nhau, do đó mọi xung đột được loại trừ.
Học thuyết nhất nguyên đưa ra ba khả năng xác định mối quan hệ giữa luật
quốc tế và luật quốc gia tuỳ theo vị trí ưu tiên của chúng. Một khả năng coi pháp luật
quốc tế có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc
tế), khả năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất
nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc gia) và khả năng thứ ba là dung hòa hai khả
năng trên.
Thứ nhất, trường phái về "giá trị ưu thế của luật quốc tế"
Những người theo trường phái về giá trị ưu thế của luật quốc tế ủng hộ quan
điểm cho rằng, luật quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia; luật quốc gia phụ thuộc
vào luật quốc tế và do luật quốc tế quyết định. Nói cách khác, luật quốc tế được đặt lên
trên luật quốc gia, có giá trị chi phối đối với luật quốc gia; luật quốc gia phải phục
tùng luật quốc tế. Xét về mặt bản chất, thì thuyết về giá trị ưu thế của luật quốc tế phản
ánh những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của các nước đế quốc. Theo đó, luật
3
Các luật gia luật quốc tế Xô-viết (cũ) cho rằng có ba học thuyết về mối quan hệ giữa pháp luật quốc
tế và pháp luật trong nước là: thuyết nhị nguyên; thuyết về giá trị ưu thế của pháp luật quốc tế; thuyết
về giá trị ưu thế của pháp luật trong nước.
4
Tham khảo bài viết: “Về việc áp dụng Điều ước quốc tế và quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế
và pháp luật quốc gia”_PGS. TS Nguyễn Bá Diến_Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật,
T.XIX, số 3 2003.
5
quốc tế được coi là một ngành luật có vị trí cao hơn đặc biệt so với luật quốc gia và có
ưu thế đặc biệt đối với luật quốc gia. Vấn đề quan trọng mà thuyết này muốn đưa ra là,
phương diện ảnh hưởng của chủ quyền quốc gia và hiệu lực của luật quốc gia hoàn

toàn phụ thuộc vào luật quốc tế. Có thể nói, trên quan điểm của chúng ta, thì đây được
xem là một trong những điểm phản động, phản tiến bộ nhất của thuyết này.
Bởi qua nghiên cứu về lịch sử phát triển của luật quốc tế cho thấy, cuối cùng thì
các quốc gia, bằng ý chí của chủ quyền quốc gia, vẫn có thể thoả thuận với nhau về
việc pháp điển hoá pháp luật quốc tế và tạo nên tính chất ảnh hưởng của nó đối với
luật quốc gia. Nói cách khác, luật quốc tế là do chính các quốc gia và chủ thể khác của
luật quốc tế thoả thuận xây dựng nên. Thực tế, không thể tồn tại một hệ thống siêu
pháp luật nằm trên chính quyền nhà nước và ràng buộc chủ quyền của các quốc gia. Vì
thế, quan điểm về giá trị ưu thế của luật quốc tế là điều không thực tế.
Quan điểm về giá trị ưu thế của luật quốc tế đối với luật quốc gia được nhiều
nước thừa nhận sau đại chiến thế giới hai. Vì thế, trong Hiến pháp của nhiều nước tư
sản phương Tây đã xuất hiện các quy phạm mà theo đó, có thể làm hạn chế chủ quyền
của các quốc gia khác khi tham gia vào các tổ chức quốc tế liên chính phủ. Nhưng cuối
cùng thì thuyết này cũng không gây được ảnh hưởng đối với pháp luật cũng như thực
tế đối với các nước tư bản.
Thứ hai, trường phái về "giá trị ưu thế của luật quốc gia"
Xuất phát từ mục đích củng cố và bảo vệ lợi ích của nhà nước tư sản, áp đặt chủ
quyền của nhà nước tư sản lên trên các quốc gia khác, những người ủng hộ thuyết về
giá trị ưu thế của luật quốc gia thì cho rằng, luật quốc gia có giá trị cao hơn luật quốc
tế, theo đó, luật quốc gia có thể làm vô hiệu hoá hiệu lực của luật quốc tế. Những
người ủng hộ thuyết này cho rằng, luật quốc tế, cuối cùng được coi là "luật đối ngoại
của quốc gia" và mỗi quốc gia có thể xác lập hoặc thay đổi nó tuỳ theo quan điểm của
mình. Thuyết này đã lan truyền trong thời kỳ đại chiến thế giới thứ hai tại Đức, khi
Đức quốc xã phát động chiến tranh xâm lược thế giới. Nhưng cuối cùng thì cả thuyết
này cũng không gây ảnh hưởng đáng kể đối với thế giới.
Thứ ba, trường phái “nhất nguyên dung hòa”
6
Trên cơ sở các luận điểm của hai trường phái của chủ nghĩa nhất nguyên nói
trên, đã xuất hiện chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà. Trường phái này đã được thừa
nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý quốc tế. Theo học thuyết này, các quy phạm

pháp luật quốc tế có vị trí cao hơn pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết này công
nhận có khả năng xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Và để giải
quyết xung đột, các quốc gia, do chịu ảnh hưởng của sự ràng buộc của pháp luật quốc
tế, cần phải huỷ bỏ các văn bản pháp luật của quốc gia mình trái với pháp luật quốc tế.
Còn các văn bản pháp luật quốc gia tạm thời có vị trí thấp hơn so với pháp luật quốc tế
.Vì thế, để thực hiện các cam kết quốc tế, quốc gia cần phải xây dựng các văn bản
pháp luật trong nước cho phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp có sự xung
đột giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc tế được ưu tiên áp
dụng.
Cộng hoà Pháp là một trong những quốc gia điển hình công nhận chủ nghĩa
nhất nguyên: Coi quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) có vị trí ưu thế hơn so
với pháp luật quốc gia. Điều 55 Hiến pháp ngày 4/10/1958 của Cộng hoà Pháp tại Mục
6 về Điều ước quốc tế đã quy định: “Các điều ước quốc tế đã được phê chuẩn hoặc phê
duyệt theo đúng quy định, có hiệu lực cao hơn luật, kể từ ngày công bố, với điều kiện
điều ước quốc tế đó cũng được bên kia thực hiện”. Các Điều từ 52 đến 55 cũng đã
phản ánh học thuyết nhất nguyên luận trong Hiến pháp của nước Pháp: pháp luật trong
nước và pháp luật quốc tế là một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó luật quốc tế
chiếm ưu thế so với pháp luật quốc gia. Tuy vậy, nguyên tắc cơ bản này cũng có một
số giới hạn trong quá trình áp dụng tại Cộng hoà Pháp. Trong trật tự các quy phạm
pháp luật, điều ước quốc tế có vị trí dưới Hiến pháp, nhưng lại có giá trị cao hơn các
văn bản quy phạm pháp luật khác. Pháp luật Hoa kỳ cũng có quy định tương tự, cũng
áp dụng chủ nghĩa nhất nguyên như ở Pháp. Ví dụ, Điều 6 Hiến pháp Hoa kỳ quy
định: “Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa kỳ được ban hành theo Hiến pháp này,
mọi điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa kỳ sẽ là luật tối cao
của quốc gia. Quan toà ở các bang đều phải tuân theo những luật này ” . Mặc dù vấn
đề vị trí của điều ước quốc tế trong mối quan hệ với Luật pháp Thuỵ Sỹ vẫn còn đang
được tranh luận trong khoa học cũng như trong thực tiễn, nhưng hiện có một xu
hướng nổi trội ở nước này, đó là: đặt cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế ở vị trí
7
trên các đạo luật Liên bang hoặc thậm chí còn xếp ngang hàng với Hiến pháp. Còn tại

Hà Lan, Hiến pháp của Hà Lan năm 1953 (được sửa đổi năm 1956) thậm chí còn cho
phép các điều ước quốc tế được các cơ quan có thẩm quyền của Hà Lan ký kết có thể
thay đổi và bác bỏ một cách hợp pháp các quy định của bản thân Hiến pháp.
b) Thuyết nhị nguyên
Thuyết nhị nguyên (nhị nguyên luận) là học thuyết phổ biến được nhiều nước
tư bản ủng hộ. Đại diện xuất sắc cho trường phái này là H. Triepel, D.A. Anzilotti, H.
Lauterpacht, L. Ehrlich
5
. Thuyết này cho rằng, pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia
là hai hệ thống pháp luật độc lập, có sự khác biệt căn bản về đối tượng điều chỉnh, về
phạm vi hiệu lực, về chủ thể và nguồn. Tuy nhiên, điểm hạn chế cơ bản của thuyết này
là ở chỗ, đã phân biệt đáng kể về mối liên hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Học
thuyết xuất phát từ chủ quyền quốc gia, cho rằng luật quốc tế và luật quốc gia là hai hệ
thống pháp luật riêng biệt (biệt lập). Thuyết này có những hạn chế có tính giai cấp,
dẫn đến hệ quả là không thể nhìn thấy rõ và giải quyết triệt để những vấn đề về mối
quan hệ qua lại giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Các tác giả của nó đã nghiên cứu về
luật quốc tế và luật quốc gia trong sự gián đoạn, không gắn kết với xu thế phát triển tất
yếu khách quan của các quan hệ quốc tế và ảnh hưởng của nó đối với luật quốc gia. Do
đó, đã nhìn mối quan hệ qua lại giữa hai hệ thống pháp luật này một cách phiến diện,
hình thức. Học thuyết nhị nguyên lại được phân chia thành hai trường phái, đó là
trường phái nhị nguyên cực đoan và trường phái nhị nguyên dung hoà:
Thứ nhất, trường phái nhị nguyên cực đoan.
Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan dựa trên sự tách biệt hoàn toàn hai hệ thống
pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Do vậy, theo trường phái này không
có xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trên. Nếu một văn bản pháp luật của quốc gia
(luật, pháp lệnh, nghị định) trái với pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) thì cả pháp
luật quốc tế lẫn pháp luật quốc gia đều có hiệu lực như nhau. Tuy nhiên, quốc gia có
nghĩa vụ hoàn thiện pháp luật trong nước của mình để có thể thực hiện được pháp luật
quốc tế (thực thi các điều ước quốc tế). Như vậy, ở một mức độ nhất định, học thuyết
5

Tham khảo bài viết: “Về việc áp dụng Điều ước quốc tế và quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế
và pháp luật quốc gia”_PGS. TS Nguyễn Bá Diến_Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật,
T.XIX, số 3 2003.
8
này đã đặt pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) ở một vị trí ưu tiên hơn so với pháp
luật quốc gia.
Thứ hai, trường phái nhị nguyên dung hòa.
Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hoà xuất phát từ chỗ tách biệt về cơ bản hai hệ
thống pháp luật - pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia - nhưng không phủ nhận khả
năng xung đột giữa hai hệ thống đó. Xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia không chỉ được giải quyết theo cách của chủ nghĩa nhất nguyên, với một trật
tự trên dưới của hai bộ phận pháp luật. Cả hai hệ thống được xem như là hai vòng tròn
có phần giao nhau. Vùng giao nhau này xuất hiện thông qua các quy định dựa vào
nhau, dẫn chiếu đến nhau hoặc sự chuyển hoá các quy phạm từ hệ thống pháp luật này
sang hệ thống pháp luật khác. Hệ quả là pháp luật quốc tế chiếm ưu thế nổi trội so với
pháp luật quốc gia. Cũng theo trường phái này, sự chuyển hoá của quy phạm pháp luật
quốc tế (điều ước quốc tế) vào pháp luật quốc gia đòi hỏi phải có một văn bản chính
thống của cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước. Và văn bản này sẽ tạo ra khả năng
mở cửa lĩnh vực chủ quyền quốc gia đối với pháp luật quốc tế. Học thuyết này hiện
nay đang được một số nước như CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Vương quốc Anh áp
dụng. Xu hướng này đã được phản ánh khá rõ nét trong Công ước Viên năm 1969 của
Liên Hợp Quốc về Luật điều ước quốc tế
6
.
Tóm lại, qua nghiên cứu về bản chất của hai học thuyết nhất nguyên và nhị
nguyên về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật trong nước, ta chưa thấy có sự gắn kết
trong mối liên hệ một cách hệ thống của nó, nhất là sự tác động tương tác giữa chúng
đối với quá trình hình thành và phát triển của hai hệ thống pháp luật trong giai đoạn
hiện nay.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa Điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập và pháp luật Việt

Nam
Cho tới nay nước ta đã ký được hơn 1000 điều ước quốc tế song phương và là
thành viên của gần 200 điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam đã
trở thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế.
6
Điều 27 Công ước Viên năm 1969 quy định: “Một bên không thể viện những quy định của pháp luật
trong nước của mình làm lý do để không thi hành luật điều ước”.
9
Điều 26 Phần III Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969 quy định nguyên tắc
Pacta sunt servanda như sau: “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên
tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Đồng thời, Công ước
Viên cũng đã xác định mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các
điều ước quốc tế mà quốc gia đã cam kết, như sau: “Một bên không thể viện những
quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do để không thi hành một điều ước
mà mình đã cam kết”. Việt Nam cũng đã ban hành Luật ký kết và thực hiện điều ước
quốc tế 2005. Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc tuân thủ điều ước quốc tế (Pacta
sunt servanda) như sau: “Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nghiêm chỉnh
tuân thủ điều ước quốc tế mà mình đã ký kết là thành viên của Công ước Viên 1969,
Việt Nam cam kết thực thi những “điều ước quốc tế được ký kết trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế và các quy định của Hiến pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam. Nhìn tổng thể vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành của Việt Nam đều được ghi nhận bằng một công thức chung nhất đó là:
trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác với quy định của luật (Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định) này, thì áp dụng
các quy định của điều ước quốc tế
7
. Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về
giá trị ưu thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia so với pháp luật

trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam,
và về phương diện hiệu lực thi hành, điều ước quốc tế giữ vị trí thứ hai sau các quy
định của hiến pháp và trước các quy định của bộ luật. Tuy vậy, việc xác định vị trí cụ
thể của điều ước quốc tế trong pháp luật trong nước là chưa được quy định một cách rõ
ràng.
Về cách thức áp dụng các quy phạm điều ước quốc tế, cho đến nay pháp luật
Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, việc quy định áp dụng điều ước quốc
tế, trường hợp nào thì áp dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thông qua thủ tục chuyển
7
Tại các quy định sau thể hiện rõ yếu tố đó: Khoản 2, Điều 795, Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 3,
Luật các Tổ chức tín dụng 2010; Khoản 2, Điều 7 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Khoản 2, Điều 2
Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2010; Điều 5 Luật Hải quan 2014; Điều 5, Luật Thương mại 2005;
Điều 8, Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 v.v
10
hoá bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần phải được
quy định rõ và cần có cách tiếp cận linh hoạt, mềm dẻo. Nên chăng chỉ chuyển hoá
những điều ước quốc tế có nội dung quá phức tạp hoặc chỉ quy định các nguyên tắc
chung, còn các điều ước quốc tế có các nội dung quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết thì
nên áp dụng trực tiếp mà không cần phải thông qua thủ tục chuyển hoá nhằm giảm bớt
gánh nặng của công tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
Tóm lại, về vị trí của quy phạm điều ước quốc tế, cũng như phương thức áp
dụng điều ước quốc tế cần phải được quy định rõ ràng và chặt chẽ trong đạo luật cao
nhất của Nhà nước ta - Hiến pháp, và đạo luật chuyên ngành –Luật ký kết, gia nhập và
thực hiện điều ước quốc tế 2005. Như vậy, ta cần tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
hiện hành và Luật về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của
Nhà nước ta. Làm được điều đó, là góp phần tạo lập một hành lang pháp lý cần thiết,
làm bệ đỡ cho công cuộc hội nhập một cách sâu sắc và toàn diện của Việt Nam vào
nền kinh tế khu vực và thế giới, bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia trên cơ sở các
nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế hiện đại.
1.1.2.4. Vị trí Điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế ở Việt Nam được quy định tại
Luật số 41/2005/QH11 về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Quốc hội
thông qua ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước công bố ngày 24/6/2005 và Luật có hiệu lực
kể từ ngày 01/01/2006) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (ban hành ngày
12/11/1996, được sửa đổi, bổ sung ngày 16/12/2002).
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật
điều chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của
Việt Nam. Liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế, Luật quy
định về nguyên tắc, thứ bậc cũng như việc áp dụng điều ước quốc tế.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy chủ yếu điều chỉnh việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước, tuy nhiên cũng quy định việc soạn thảo
văn bản quy phạm pháp luật phải cân nhắc, tính toán đến các điều ước quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập.
a) Vị trí của điều ước quốc tế
11
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Luật
ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong trường hợp văn bản
quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều
ước quốc tế. Do đó, các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia sẽ được thực thi kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam còn chưa
quy định đầy đủ… Từ quy định này, có thể nhận ra điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến
pháp, trên các văn bản luật, pháp lệnh.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước
1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà
Cộng hoàxã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một
vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở
việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định về cùng một vấn đề.
3. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế
đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ
rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Bên cạnh đó, năm 2001 Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước Viên năm 1969
về Luật điều ước. Điều 26 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 quy
định nguyên tắc Pacta sunt servanda
8
quy định "mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng
buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý". Nguyên
8
Để hiểu rõ hơn về nguyên tắc Pacta sunt servanda xem phần Nội luật hóa.
12
tắc này đã được chuyển hoá vào quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" (Khoản 6 - Điều
3).
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng đều thấy rõ giá trị
ưu thế của điều ước quốc tế, chẳng hạn:
+ Theo Khoản 2 Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 "trong trường hợp điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
quy định khác với quy định của Bộ luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế
đó ".
+ Theo Khoản 2 Điều 2 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em "trong
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia

nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó".
+ Theo Điều 3 Luật di sản văn hoá: "Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang
hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều
ước quốc tế đó”.
Có thể thấy rõ công thức chung được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành của Việt Nam là nếu pháp luật trong nước (từ luật trở xuống) có
quy định khác hoặc trái với điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam gia nhập, thì điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng. Từ đó
cho thấy, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia
nhập có giá trị pháp lý ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước.
b) Áp dụng điều ước quốc tế
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng
13
buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một
phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định
của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi,
bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện
điều ước quốc tế đó. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp
thực hiện điều ước quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy
phạm pháp luật quốc nội.
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11
ngày 29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định
thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong đó quyết định : "2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được
ghi tại Phụ lục đính kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ
chức thương mại thế giới được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ
lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành

lập Tổ chức thương mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam
không phù hợp với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới,
Nghị định thư và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập
Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm."
c) Trình tự thực hiện điều ước quốc tế.
Khi đề cập đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế, vấn đề quan trọng đặt ra đối
với Việt Nam là làm cách nào để bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ điều
ước. Trên cơ sở quy định tại Chương VI của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, có thể nêu lên một số nội dung quan trọng sau đây liên quan
đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam, phù hợp với nguyên tắc Pacta
sunt servanda như sau:
- Kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 71 Luật ký kết,
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế
bao gồm những nội dung sau đây: Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến phân
14
công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước
quốc tế; Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện
pháp cần thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước
quốc tế.
Việc thực hiện các điều ước quốc tế, trước hết phải xuất phát từ đặc điểm tình
hình, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải đề ra tiến trình, các biện pháp tổ chức thực hiện
điều ước trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng
thời, phải hoàn thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính,
kể cả những đóng góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế cũng phải
được vạch ra một cách cụ thể.
- Xác định cơ quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế. Nghĩa vụ thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người, trước hết là thuộc về Nhà nước. Nhưng
trong bộ máy nhà nước, nghĩa vụ này chủ yếu thuộc về các Bộ, ngành, cơ quan trung

ương và chính quyền địa phương các cấp. Trong phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn của
mình, các Bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và
biện pháp bảo đảm khả thi các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế.
Việc thực hiện từng loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ,
ngành. Trong trường hợp phát sinh khó khăn, bất cập, các Bộ, ngành, cơ quan trung
ương cần phối hợp với Bộ Ngoại giao kiến nghị Chính phủ những biện pháp cần thiết
để khắc phục, nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế phát sinh trên cơ sở điều
ước. Đồng thời, hàng năm và khi có yêu cầu, các Bộ, ngành có trách nhiệm phối hợp
với Bộ Ngoại giao báo cáo Chính phủ, Chủ tịch nước về tình hình thực hiện điều ước
quốc tế rong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành. Nghĩa vụ phối hợp thực hiện
điều ước quốc tế đòi hỏi chung đối với tất cả các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước ở trung
ương và các cấp chính quyền địa phương; không một Bộ, ngành hoặc cơ quan nhà
nước nào có thể đứng ngoài nghĩa vụ này.
15
Qua phân tích pháp luật Việt Nam, có thể kết luận các điều ước quốc tế đã
được Việt Nam ký kết và gia nhập thì có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được nhà nước
đảm bảo thực hiện ngay cả trong trường hợp điều ước quốc tế đó có quy định trái với
quy định của pháp luật trong nước. Bằng việc “nội luật hoá” các quy định của điều ước
quốc tế, thì ở những mức độ khác nhau, đã có thể coi các quy định của điều ước quốc
tế đó là một bộ phận cấu thành của pháp luật trong nước. Chính vì thế, điều ước quốc
tế giữ vị trí đặc biệt trong hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam.
1.2. Lý luận chung về vấn đề nội luật hóa ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm
Ở các nước trên thế giới, để thi hành điều ước quốc tế thì phải có sự chuyển hóa
các quy phạm của điều ước quốc tế đó thành quy phạm pháp luật trong nước và thi
hành điều ước quốc tế trên cơ sở các quy phạm pháp luật trong nước vốn là quy phạm
của điều ước quốc tế đó. Quá trình chuyển hóa đó thường được gọi là chuyển hóa điều
ước quốc tế hoặc nội luật hóa các điều ước quốc tế.
Ở Việt Nam, có nhiều ý kiến khác nhau về "nội luật hóa". Có thể nêu lên hai ý
kiến nội luật hoá sau đây:

- Cách hiểu thứ nhất cho rằng nội luật hóa là quá trình pháp lý do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành nhằm chấp nhận hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc
tế
9
. Như vậy, theo cách hiểu này thì nội luật hóa đồng nghĩa với việc quốc gia chấp
nhận hiệu lực pháp lý của điều ước. Do đó, sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước
chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế thì các quy định của điều ước có giá trị
pháp lý và được áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Khi đó, văn bản được ban
hành bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận sự ràng buộc hiệu lực pháp lý
của điều ước (văn bản phê chuẩn, phê duyệt ) được coi là văn bản nội luật hóa, làm
cho điều ước quốc tế đó có hiệu lực thực thi như văn bản quy phạm pháp luật trong
nước.
- Cách hiểu thứ hai cho rằng nội luật hoá và quá trình chấp nhận hiệu lực pháp
lý của điều ước quốc tế là hai khái niệm pháp lý khác nhau và có mối quan hệ tương
9
Xem “Điều 8: chấp nhận sự ràng buộc của Điều ước quốc tế”_Luật kí kết, gia nhập và thực hiện
Điều ước quốc tế 2005
16
đối độc lập với nhau: việc chấp nhận hiệu lực pháp lý của điều ước là hành vi của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoàn tất các thủ tục pháp lý trong nước và thông qua đó
thể hiện việc quốc gia tham gia điều ước chấp nhận việc áp dụng các quy định của
điều ước đó đối với mình. Trong khi đó, nội luật hoá là quá trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết để chuyển hóa các quy phạm của điều
ước quốc tế thành quy phạm của pháp luật quốc gia bằng cách ban hành, sửa đổi, bổ
sung văn bản
10
quy phạm pháp luật trong nước để cho nội dung của các quy định của
điều ước quốc tế chiếm toàn bộ hoặc đa số phần nội dung của quy phạm pháp luật
trong nước. Về mặt thời gian thì việc chấp nhận hiệu lực pháp lý (sự ràng buộc) của
điều ước và việc nội luật hoá có thể được tiến hành đồng thời, nhưng cũng có thể được

tiến hành tại các thời điểm khác nhau, tuỳ thuộc vào yêu cầu hiệu lực về thời gian của
điều ước (khi điều ước có lộ trình thực hiện) và điều kiện cụ thể trong nước khác.
Theo thực trạng mà nhóm tìm hiểu được thì chúng ta sẽ hiểu theo quan điểm
thứ hai nói. Nghĩa là nội luật hoá là quá trình chuyển hóa nội dung các quy phạm của
điều ước quốc tế thành các quy phạm pháp luật trong nước để thi hành. Với cách hiểu
này thì khái niệm "nội luật hoá" điều ước quốc tế có thể dùng tương đương hay thay
thế cho khái niệm "chuyển hoá" quy phạm điều ước quốc tế
11
.
Như vậy, khái niệm "nội luật hóa" được hiểu một cách thống nhất là: quá trình
đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật
trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban
hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với
nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập.
1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, ta xét đến đặc điểm về thời gian mà nội luật hóa diễn ra.
10
“Một ví dụ điển hình là Việt Nam cũng tham gia Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng, do đó đòi hỏi việc phải nội luật hóa nội dung của Công ước mà Việt Nam đã cam kết. Vì vậy,
việc sửa đổi Bộ luật Hình sự hiện hành nên nghiên cứu, bổ sung Chương XXI về các tội xâm phạm về
chức vụ.”_Bài viết: “Bàn về một số nhóm tội phạm khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự”, Nguyễn
Thị Vinh, 14/10/2014
/>11
Thực chất hai khái niệm "nội luật hoá" và "chuyển hoá" điều ước quốc tế có cùng bản chất và nội
hàm, thực ra là một tuy cách dùng từ có khác nhau.
17
Quá trình nội luật hóa có thể diễn ra ở các giai đoạn cụ thể như sau:
- Giai đoạn tạo lập thỏa thuận ý chí của các quốc gia hay các chủ thể khác của
luật quốc tế.
Hoạt động nội luật hóa ở giai đoạn này có thể là các hành vi cụ thể như: soạn

thảo văn bản pháp luật trong nước có nội dung pháp lý thống nhất với nội dung pháp
lý của dự thảo điều ước quốc tế đã được các bên tạo lập. Bên cạnh đó, giai đoạn này
nếu không có việc soạn thảo văn bản trong nước thì cũng có thể có hoạt động cho phép
xác định nội dung pháp lý cần nội luật hóa.
- Giai đoạn công nhận hiệu lực bắt buộc của các quy phạm điều ước.
Hoạt động nội luật hóa ở giai đoạn này có thể gồm nhiều hành vi cụ thể riêng
biệt của các quốc gia. Các hành vi này phụ thuộc vào quy định cụ thể các điều kiện ghi
trong điều ước và được biểu hiện bằng nhiều cách như: ban hành văn bản, phê duyệt,
phê chuẩn, gia nhập, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật trong nước có nội
dung pháp lý thống nhất với nội dung pháp lý của điều ước quốc tế đã được ký kết
Có thể nói vấn đề nội luật hóa đích thực bắt đầu từ giai đoạn này. Do vậy, việc
chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế phải bắt đầu từ các thao tác cụ thể của
cơ quan có thẩm quyền của nước ký điều ước quốc tế đó, phê chuẩn, phê duyệt, gia
nhập điều ước quốc tế. Trong nhiều trường hợp, văn kiện phê chuẩn, phê duyệt hoặc
gia nhập được coi là văn kiện nội luật hóa điều ước quốc tế
12
. Nó là cơ sở pháp lý quan
trọng để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước thực hiện các điều ước quốc tế cụ
thể đó.
- Giai đoạn thực hiện điều ước quốc tế.
Hoạt động nội luật hóa có thể bắt đầu từ giai đoạn thực hiện điều ước quốc tế
theo thời điểm có hiệu lực được quy định trong điều ước hay do thỏa thuận của các
bên. Thời điểm điều ước quốc tế có hiệu lực và thời điểm nội luật hóa có thể không
trùng nhau. Thông thường, thời điểm nội luật hóa một điều ước quốc tế có thể diễn ra
12
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
71/2006/QHXI phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam (Nghị
quyết 71/2006/QHXI). Nghị quyết này đã quy định nguyên tắc áp dụng các cam kết gia nhập WTO
của Việt Nam, theo đó nếu các cam kết trong các văn kiện gia nhập WTO đã đủ rõ, đủ chi tiết thì áp
dụng trực tiếp các cam kết đó,…

18
trước khi điều ước quốc tế đó có hiệu lực. Việc nội luật hóa như vậy sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình thực hiện điều ước quốc tế. Tuy vậy, cũng có không ít trường
hợp việc nội luật hóa lại diễn ra sau khi điều ước quốc tế có hiệu lực, đặc biệt là đối
với việc gia nhập các điều ước quốc tế nhiều bên
13
. Việc gia nhập các điều ước quốc tế
nhiều bên thường diễn ra sau khi điều ước quốc tế nhiều bên đó đã có hiệu lực thi
hành.
Thứ hai, ta xét đến đặc điểm về văn bản nội luật hóa.
Văn bản nội luật hóa là văn bản quy phạm pháp luật trong nước, nhưng có một
số nội dung pháp lý vốn là nội dung pháp lý của điều ước quốc tế có liên quan. Nếu
xét về mặt bản chất thì nội dung pháp lý của văn bản nội luật hóa đó có cội nguồn từ
nội dung pháp luật của các cam kết cần được thi hành của các nước liên quan.
Thứ ba, ta xét đến đặc điểm của hiệu lực cưỡng chế của văn bản nội luật hóa.
Hiệu lực cưỡng chế của văn bản nội luật hóa điều ước quốc tế thể hiện ở chỗ
văn bản đó là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, nó có hiệu lực
cưỡng chế như các văn bản quy phạm pháp luật bình thường khác. Tuy vậy, việc ban
hành văn bản nội luật hóa dưới hình thức nào (Nghị quyết hoặc Luật của Quốc hội,
Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Nghị quyết hay Nghị định của Chính
phủ ) lại tuỳ thuộc vào sự quyết định của các cơ quan trong nước, căn cứ vào mô hình
nội luật hóa, vào điều kiện lịch sử cụ thể trong nước.
Thứ tư, ta xét đến đặc điểm quan hệ so sánh giữa điều ước quốc tế, pháp luật
trong nước và quá trình nội luật hóa.
Trong lý luận pháp luật quốc tế, có các ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa
hai hệ thống pháp luật này, có quan điểm quá nghiêng về trường phái nhất nguyên luận
(hệ thống này là bộ phận của hệ thống kia), có quan điểm lại ở vào tình trạng dung
hòa, nghiêng về trường phái nhị nguyên luận (hai hệ thống đó độc lập với nhau nhưng
có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau). Chính những người có quan điểm
theo nhị nguyên luận là những người quan tâm nhiều hơn về vấn đề chuyển hóa hay

nội luật hóa điều ước quốc tế để thi hành.
13
Khi Việt Nam gia nhập WTO thì phải cam kết thực hiện Điều ước quốc tế mà WTO đã kí kết và có
hiệu lực trước đó. Trong trường hợp này việc nội luật hóa (các vấn đề về thuế, bảo hiểm, ngân hàng,
…) đã diễn ra sau khi Điều ước quốc tế có hiệu lực.
19
1.2.3. Các mô hình nội luật hóa các Điều ước quốc tế ở Việt Nam
1.2.3.1. Các mô hình cơ bản
Hiện nay có ba mô hình cơ bản về nội luật hóa các điều ước quốc tế, đó là mô
hình “cách mạng”, mô hình “cải lương
14
” và mô hình hỗn hợp trong nội luật hóa.
Mô hình “cách mạng” đặt ra việc bãi bỏ các quy định cũ của pháp luật trong
nước trái với nội dung cam kết quốc tế, sửa đổi những quy định pháp luật trong nước
chưa phù hợp; bổ sung những quy định mà pháp luật trong nước chưa có ngay trong
một thời gian ngắn bằng cách ban hành mới, sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật
hiện hành để thực thi đầy đủ các nội dung của điều ước quốc tế.
Mô hình “cải lương” đặt ra yêu cầu thay thế từng phần (chứ không bãi bỏ
ngay) các quy định trong nước có nội dung trái với cam kết quốc tế; sửa đổi dần từng
phần các quy định trong nước chưa phù hợp căn cứ vào điều kiện cụ thể; bổ sung dần
các quy định mà pháp luật trong nước chưa có khi điều kiện trong nước cho phép
15
.
Mô hình hỗn hợp thực chất là kết hợp cả hai mô hình nêu trên.
Sự khác nhau giữa mô hình “cách mạng” và mô hình “cải lương” chủ yếu ở
chỗ, mô hình cách mạng sẽ tạo lập nhanh chóng, đồng bộ nền tảng pháp luật trong
nước để thực thi ngay, thực thi đầy đủ các cam kết quốc tế, nhanh chóng đưa điều ước
quốc tế vào cuộc sống nội bộ quốc gia. Trong khi đó, mô hình cải lương thì tạo lập từ
từ, theo từng mảng vấn đề của pháp luật trong nước, dần dần đưa điều ước quốc tế vào
thực thi trong nước. Áp dụng mô hình cách mạng có mặt không lợi là dễ dẫn đến

những hậu quả nhất định trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, nhất là những
cam kết quốc tế liên quan trực tiếp đến cuộc sống của đông đảo người dân. Trong khi
đó, áp dụng mô hình cải lương có thể không bị xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội,
nhưng có thể phải tốn nhiều thời gian, mất cơ hội trong kinh doanh quốc tế, làm giảm
niềm tin của cộng đồng thương mại quốc tế vào nước ký kết điều ước quốc tế.
14
“Mô hình cải lương” còn có một cách gọi khác là “mô hình chuyển hóa từ từ”.
15
Điển hình là khi Việt Nam gia nhập Công ước quốc tế về nhân quyền thì luật hình sự của chúng ta
đã sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Công ước. Tuy nhiên, vì điều kiện trong nước chưa cho phép nên
chúng ta chưa bỏ tội phạm tử hình.
20
1.2.3.2. Các phương thức nội luật hóa
Có nhiều phương thức để nội luật hóa. Có thể nêu lên một số phương thức sau
theo mô hình nội luật hóa đã nêu:
- Thứ nhất, phương thức “một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật”. Đây là phương
thức được áp dụng theo mô hình “cách mạng” trong nội luật hóa điều ước quốc tế.
Thực tiễn nhiều nước áp dụng cách thức này trong nội luật hóa các cam kết quốc tế
trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thứ hai, cách thức tiến hành sửa đổi, bổ sung, ban hành mới từng văn bản quy
phạm pháp luật để thực thi điều ước quốc tế như Việt Nam ta vẫn làm. Cách thức này
được áp dụng theo mô hình cải lương, chuyển hóa từ từ điều ước quốc tế. Trong một
số trường hợp, việc nội luật hóa các điều ước quốc tế để thi hành còn có thể được thực
hiện theo cách thức ban hành một số văn bản hướng dẫn thi hành của các cơ quan hành
pháp, đặc biệt là ban hành các quyết định, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành liên
quan về một số vấn đề cần làm rõ theo các quy định trong điều ước quốc tế. Cách làm
này cũng áp dụng đối với cả trường hợp khi cơ quan phê chuẩn hoặc phê duyệt điều
ước quốc tế quyết định cho áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế trên cơ sở Điều 6 Khoản
3 của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế 2005, cụ thể là “Căn cứ vào
yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính

phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định
áp dụng trực tiếp toàn bộ hay một phần điều ước quốc tế đó ”
- Thứ ba, phối hợp cách một luật sửa đổi, bổ sung nhiều luật với cách sửa đổi,
bổ sung, ban hành mới từng văn bản quy phạm pháp luật để dần dần thực thi điều ước
quốc tế. Cách thức này được áp dụng theo mô hình hỗn hợp trong nội luật hóa các điều
ước quốc tế. Trong thực tiễn, việc áp dụng cách thức nội luật hóa này có thể cho phép
vượt qua được những trở ngại nhất định trong quá trình chuyển hóa nội dung pháp lý
của điều ước quốc tế thành nội dung pháp lý của pháp luật trong nước do chưa có các
quy định bổ trợ thực thi nội dung pháp lý đó trong pháp luật trong nước.
Từ ba phương thức nội luật hóa trên, có hai khái niệm được đặt ra để phân tích
đó là “Áp dụng trực tiếp là gì?” và “Áp dụng gián tiếp là gì?”.
21
Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi Điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu
lực thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ
thi hành và công dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của Điều ước quốc tế đó
trước Tòa án để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Đây là cách thức thực thi Điều ước quốc tế được áp dụng rộng rãi trong pháp
luật các nước trên thế giới từ giữa thế kỉ XX. Nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ
đối với pháp luật Việt Nam. Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan
nhà nước và người dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các Điều
ước quốc tế còn chưa thực sự sâu rộng .
Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của Điều ước quốc tế
được áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của
Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan
đến nội dung cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp,
Luật luật sư, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại
hiệp định luôn có hiệu lực cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay

không có hành vi chuyển hóa hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp
dụng mức thuế đã cam kết giữa các quốc gia.
Áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để chuyển
hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi nội
dung của Điều ước quốc tế chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực
tiễn pháp luật hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định
trong Hiến pháp.
Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu
đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế
tại Việt Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
22
xử với phụ nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các Điều
ước quốc tế khác cũng đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của
Việt Nam, nhất là từ khi chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng
dân sự, Luật cạnh tranh, Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy
định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về
bảo hộ sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam hài hòa với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa Điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia
còn chưa được quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập
và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp Điều ước quốc tế
vào đời sống pháp luật đã chính thức được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội
dung của Điều ước quốc tế đã cụ thể, rõ ràng, Nhà nước sẽ không cần phải thực hiện
các thủ tục chuyển hóa Điều ước quốc tế bằng việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết định thừa nhận
toàn bộ hoặc một phần nội dung của Điều ước quốc tế đó để nội dung điều ước có thể
đi vào thời kỳ thực hành. Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho
công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.

1.2.4. Các học thuyết về nội luật hóa Điều ước quốc tế
Trước khi phân tích và tìm hiểu rõ hơn về các học thuyết về nội luật hóa ta cần
hiểu rõ hơn về “Nguyên tắc tận tâm thực hiện cam kết quốc tế - Pacta Sunt Servanda”.
Nguyên tắc tận tâm thực hiện cam kết quốc tế là một trong những nguyên tắc có
lịch sử lâu đời nhất so với lịch sử hình thành và phát triển của các nguyên tắc cơ bản
khác của luật quốc tế hiện đại. Nguyên tắc này xuất hiện từ thời La Mã Cổ Đại và tồn
tại hàng nghìn năm dưới dạng tập quán quốc tế và ngày nay được coi là một trong
những nguyên tắc cơ bản nhất của pháp luật quốc tế. Nguyên tắc này được ghi nhận
trong hầu hết các điều ước quốc tế đa phương và song phương. Ví dụ khoản 2 Điều 2
Hiến chương Liên Hợp quốc quy định: “Tất cả các quốc gia thành viên đều phải làm
23
tròn các nghĩa vụ mà mình đã cam kết theo Hiến chương này”. Tuyên bố năm 1970
của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế cũng đã khẳng định ý
nghĩa của nguyên tắc tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế của các quốc gia thành
viên đối với việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Công ước viên về Luật điều ước
quốc tế năm 1969 của Liên Hợp quốc cũng đã ghi nhận: “Mọi điều ước đã có hiệu lực
đều ràng buộc các bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý”
(Điều 26); “Một bên không thể viện dẫn những quy định pháp luật trong nước của
mình làm lý do để không thi hành một điều ước” (Điều 27); “Trừ khi có một ý định
khác xuất phát từ điều ước hoặc được quy định bằng một cách khác, thì một điều ước
ràng buộc mỗi bên trong phạm vi toàn bộ lãnh thổ của bên đó” (Điều 29). Như vậy,
dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế hiện đại, nguyên tắc tận tâm thực hiện điều ước
quốc tế bao gồm các nội dung sau:
- Thứ nhất, mọi quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện, thiện chí, trung
thực và đầy đủ các nghĩa vụ mà mình đã cam kết;
- Thứ hai, mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ – tuân thủ một cách triệt để việc
thực hiện các nghĩa vụ điều ước quốc tế;
- Thứ ba, các quốc gia thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các
quy định pháp luật trong nước để lấy cớ từ chối thực hiện nghĩa vụ điều ước quốc tế
của mình;

- Thứ tư, các quốc gia không có quyền ký kết điều ước quốc tế trái với nghĩa vụ
của mình được quy định trong điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia ký kết hoặc
tham gia trước đó với các quốc gia khác;
- Thứ năm, các quốc gia không được phép đơn phương ngừng thực hiện và xem
xét lại điều ước quốc tế. Việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các
nước thành viên của điều ước quốc tế không ảnh hưởng đến quan hệ pháp lý phát sinh
giữa các quốc gia này.
Pháp luật quốc tế định ra nghĩa vụ cho các quốc gia đối với việc thực hiện điều
ước quốc tế một cách tận tâm có thiện chí và trung thực. Tuy nhiên, pháp luật quốc tế
hiện đại cũng cho phép các quốc gia được quyền “miễn trừ” thực hiện nguyên tắc này
trong một số trường hợp ngoại lệ như sau:
24
- Khi điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên hợp quốc và các
nguyên tắc cơ bản khác của luật quốc tế (Điều 103 Hiến chương Liên hợp quốc;
Điều53, Điều 64 Công ước viên năm 1969);
- Khi việc ký kết điều ước quốc tế vi phạm quy định pháp luật quốc gia về thẩm
quyền và thủ tục ký kết;
- Khi có sự thay đổi căn bản về các điều kiện để thực hiện điều ước quốc tế
(Rebus Sic Stantibus) hoặc mục đích để ký kết điều ước đã không còn phù hợp với
tình hình chính trị và xã hội của quốc gia (Ngoại trừ các điều ước quốc tế liên quan
đến biên giới và lãnh thổ của quốc gia);
- Khi một bên cam kết điều ước quốc tế không thực hiện nghĩa vụ điều ước của
mình thì bên kia có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ theo điều ước, vì việc thực hiện
các cam kết quốc tế phải dựa trên nguyên tắc có đi có lại.
Ngoài nguyên tắc Pacta Sunt Servanda, còn có hai học thuyết có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn vô cùng to lớn trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia đồng thời góp
phần xác lập, củng cố và phát triển toàn diện các quan hệ quốc tế hiện đại, bảo vệ hoà
bình và an ninh quốc tế. Hai học thuyết đó là “Học thuyết về chấp nhận” và “Học
thuyết về sự chuyển hóa”.
1.2.4.1. Học thuyết về chấp nhận

16
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc tế
rất gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một văn
bản thi hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và sự áp
dụng nó ở trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế được áp
dụng trực tiếp ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế mà mất đi tính
chất của nó với tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự chấp nhận, các quy
phạm điều ước được công nhận như là pháp luật trong nước.
Trong thực tiễn lập pháp và hành pháp, học thuyết về sự chấp nhận được vận
dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật Ănglô Xắc-xông. Xuất phát điểm của sự phát
16
Tham khảo ý 2.3 của bài viết: “Lý luận chung về thực hiện Điều ước quốc tế và vấn đề nội luật hóa
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế”_PGS-TS Nguyễn Bá Diến - Đại học Quốc gia Hà nội.
25

×