lOMoARcPSD|15963670
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
----------
TIỂU LUẬN
MƠN : CHÍNH TRỊ HỌC
CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Họ và tên: Nguyễn Trần Minh Phương
Mã sinh viên: 2155310038
Lớp: Chính trị học phát triển K41
HÀ NỘI - 2021
lOMoARcPSD|15963670
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: Nguồn gốc và cơ sở hình thành tư tưởng Hờ Chí Minh.........................................6
1.1 Tư tưởng Hờ Chí Minh được kế thừa từ trùn thớng văn hóa dân tộc Việt Nam...............6
1.2. Tư tưởng Hờ Chí Minh còn được đúc kết bởi tinh hoa văn hóa nhân loại...........................6
1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin............................................................................................................6
1.4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hờ Chí Minh..................................................7
CHƯƠNG 2: Nội dung Tư tưởng Hờ Chí Minh............................................................................8
2.1. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời................................9
đại mới theo tư tưởng Hờ Chí Minh...............................................................................................9
2.2. Tư tưởng Hờ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam...............................................12
KẾT LUẬN.....................................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................16
lOMoARcPSD|15963670
3
MỞ ĐẦU
1, Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam,
Danh nhân văn hóa thế giới” (UNESCO – 1987), là “một trong một trăm nhân vật ảnh
hưởng nhất thế kỷ XX” (TIME – 2005). Người là người con ưu tú nhất của dân tộc
Việt Nam. Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với
công lao to lớn của Người, chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non
sông đất nước ta.
Tuy nay đã đi xa nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân loại ta
một di sản đồ sộ, vô cùng quý giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó
phải kẻ đến những cơ sở lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, từ đó giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Với một hệ tư tưởng nhân văn mang ý nghĩa
quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đấu tranh giải phóng Cách mạng dân tộc
vì vậy chúng ta luôn đề cao, biết ơn tư tưởng Hồ Chí Minh lấy đó làm cơ sở để hình
thành nên các quan điểm tư tưởng khác.
Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã
được tiến hành từ nhiều năm nay với sự góp mặt của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà lý luận đã làm rõ các khái niệm, các
nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có nội dung về cơ sở lý luận hình
thành lên tư tưởng. Điều đó giúp ta hiểu sâu sắc về nguồn gốc, nắm được nội dung tư
tưởng quan trọng của Người.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nội dung về nguồn gốc, cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh, sau đó đi sâu vào nghiên cứu, làm rõ vấn đề về sự hình thành và phát triền của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận làm rõ về nguồn gốc tư tưởng, cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đánh giá từng cơ sở một trong các phần về cơ sở lý luận hình thành tư tưởng nhằm
đi sâu và tìm hiểu vấn đề.
Đồng thời chỉ ra những tư tưởng của Hồ Chí Minh xuất hiện dựa trên những cơ sở
nào để thấy được tầm quan trọng, giá trị cốt lõi của tư tưởng tác động lên sự phát triển
của Đảng ta.
lOMoARcPSD|15963670
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nguồn gốc tư tưởng – lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 1890 đến hết tháng 9 năm 1969, từ khi Nguyễn
Tất Thành hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng tìm con đường cứu nước mới
cho đến khi tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường cho cách mạng của
Đảng và nhân dân ta.
Về không gian nghiên cứu: Theo phạm vi hoạt động của Hồ Chí Minh. Xuyên suốt
quá trình tìm đường cứu nước năm 1911-1920 cho đến khi giác ngộ lý tưởng, phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh thành kim chỉ nam cho cách mạng của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về văn hóa, đạo đức,
về con người...
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng những phương thức liên ngành lịch sử kết hợp với logic, đồng
thời vận dụng các phương pháp khác như: Phân tích, so sánh tổng hợp, thống kê... Sưu
tầm các tác phẩm nói, viết về cơ sở lý luận hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,phụ lục, tiểu luận gồm:
CHƯƠNG I: Nguồn gốc và cơ sở hình thành tư tưởng Hờ Chí Minh.
Tư tưởng Hờ Chí Minh được kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam
1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh còn được đúc kết bởi tinh hoa văn hóa nhân loại
1.2 Chủ nghĩa Mác – Lênin
1.3 Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
CHƯƠNG II: Nội dung Tư tưởng Hờ Chí Minh
2.1. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.1 Trung với nước, hiếu với dân
lOMoARcPSD|15963670
5
2.1.2 Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
2.1.3 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
2.1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
2.2.1 Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
2.2.2 Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
2.2.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc
2.2.4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân
2.2.5. Tư ưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
2.2.6 Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
lOMoARcPSD|15963670
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Ng̀n gớc và cơ sở hình thành tư tưởng Hờ Chí Minh.
1.1 Tư tưởng Hờ Chí Minh được kế thừa từ truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến
đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân
ái Việt Nam. Trong truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước là cội
nguồn xuyên suốt quá trình lịch sử của dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo đức con
người, niềm tự hào và nhân tố hàng đầu trong thang giá trị tinh thần của dân tộc Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, đây là một
trong những truyền thống quý báu của chúng ta, qua bao đời nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng, tinh thần này lại sôi sục và tạo thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ. Nó
vượt qua mọi hiểm nguy, khó khăn đã nuốt chửng tất cả chúng ta. Dù là kẻ bán nước
hay kẻ trộm cướp ”.
Năm 1911, chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành động lực mạnh
mẽ thúc đẩy Nguyễn Dalh (Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Chính loại động
lực này đã chi phối suy nghĩ và hành động của anh ấy trong suốt cuộc đời. Hoạt động
cách mạng. Đây cũng là cơ sở tư tưởng để Người tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Hờ
Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
1.2. Tư tưởng Hờ Chí Minh còn được đúc kết bởi tinh hoa văn hóa nhân loại
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông.
Ngoài tinh thần yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Đông. Người cũng tiếp thu và kế thừa một cách có phê phán những tư tưởng dân chủ
và nhân văn của văn hóa Phục hưng, Thế kỷ Khai sáng, cách mạng tư sản phương Tây
và cách mạng Trung Quốc.
Hồ Chí Minh học Nho học dưới sự dạy dỗ của các nhà Nho yêu nước. Đạo đức
Nho giáo thấm nhuần tư tưởng và tình cảm của ông không phải để bảo vệ giáo điều
phong kiến "Tam tài", "Ngũ công" mà là tinh thần "nhân nghĩa, chí công" và tôn giáo
"tu thân". Ham học hỏi, đức tính “khiêm tốn”, “hoà nhã”, cách đối nhân xử thế “hợp
tình, hợp lý”. Các nhà triết học Phương Đông rất được Hồ Chí Minh coi trọng. Trong
khi tiếp thu và sử dụng những nhân tố tích cực của Nho giáo, Người cũng phê phán và
loại bỏ những nhân tố bảo thủ, tiêu cực của Nho giáo.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh rất quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu các tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp và Mỹ, đặc biệt là các tư tưởng về tự do,
bình đẳng, bác ái và Việt Nam. Tôn Trung Sơn (Trung Quốc) ... Người đã vận dụng và
phát triển các khuynh hướng tư tưởng, lý luận đó lên một tầm cao mới thích ứng với
dân tộc và thời đại mới.
Vì vậy, trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh
đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, nâng nó lên
một tầm cao mới trên cơ sở phương pháp luận Mác - Lênin.
1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nhiều
nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Người đã có
những nhận thức mới về những điều ẩn giấu đằng sau ba chữ tự do, bình đẳng, bác ái,
lOMoARcPSD|15963670
7
và lần đầu tiên Người được nghe những lời này khi mới 13 tuổi. Cuối năm 1917, Hồ
Chí Minh trở lại Paris và làm quen với nhiều nhà hoạt động chính trị - xã hội ở Pháp
và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, gia nhập Đảng Tiến bộ của Đảng Xã hội Pháp
(SFIO), lúc đó là một bộ phận của Quốc tế thứ hai.
Hồ Chí Minh tiếp thu luận điểm của Lê-nin vào tháng 7 năm 1920 và trở thành
người cộng sản vào cuối năm đó, thực tế này đã đưa tư tưởng Hồ Chí Minh chuyển
sang một bước ngoặt cơ bản. Thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin đã giúp Hồ Chí Minh hiểu, đánh giá, phân tích, tổng kết lý luận, tư tưởng và
đường lối cách mạng một cách khoa học; kết hợp kinh nghiệm thực tiễn của Người mở
ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã tìm
ra con đường cách mạng Việt Nam, tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết vấn đề
quản trị đất nước, hiểu sâu sắc bản chất của đất nước và đường lối tổ chức đất nước.
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về các nước nói chung và các
nước xã hội chủ nghĩa nói riêng là cơ sở lý luận và khoa học để Người đánh giá, phê
phán các lý thuyết tổ chức của các nước khác và để kiểm nghiệm các mô hình chính
xác của thực tiễn nhà nước. Từ đó, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự mang tính cách
mạng và khoa học, trở thành cơ sở tư tưởng để Đảng ta xây dựng và hoàn thiện đường
lối dân tộc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Không thể tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác Lê Nin
1.4. Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hờ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo
ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng
nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.
lOMoARcPSD|15963670
8
Thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới là đức
tính dễ nhận thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất này được ông hun
đúc và phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Chính vì vậy, trong thực tế
phong phú, sinh động, giữa nhiều lý luận, quan điểm khác nhau và trong nhiều hoàn
cảnh phức tạp, Hồ Chí Minh đã hình thành những luận điểm đúng đắn thông qua
nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, khái quát. ý kiến. Cũng như môn học Tư tưởng Hồ
Chí Minh, khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh mới bắt đầu được nghiên cứu, nhưng cho
đến nay, đã có hàng chục khái niệm trong Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí
Minh được xây dựng trên cơ sở các văn kiện của Đảng và kế thừa kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học, là hệ thống nhận thức toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
CHƯƠNG 2: Nội dung Tư tưởng Hờ Chí Minh
Chủ tịch Hờ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư
tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài
nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết
để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh,
vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn
sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập
Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác
cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên.
Tác phẩm Đường Kách Mệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân
tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những
lOMoARcPSD|15963670
9
tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà
Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử
thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm
chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn
luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
2.1. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời
đại mới theo tư tưởng Hờ Chí Minh
2.1.1 Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát
triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là của
dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân dân, “bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo, vừa
là đầy tớ trung thành của dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với
nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy
dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm chủ đất
nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm
của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
2.1.2 Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
lOMoARcPSD|15963670
10
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao
đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong
quan hệ xã hội.
Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa
số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ,
bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của
mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc;
với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với những
người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn. Vì
vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm,
phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa Mác Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống
với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa
thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được".
2.1.3 Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể
nội dung từng khái niệm:
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang
phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”. Cần, kiệm là phẩm chất của mọi
người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa vị,
không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không
tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn
giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên
trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù
nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Liêm, chính là phẩm chất của
người cán bộ khi thi hành công vụ.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên
tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư đối với người,
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
11
với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn "chí công, vô tư" phải
chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người
"giữ cán cân công lý", không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần,
kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện cùng bà con nơng dân xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ,
tỉnh Thái Nguyên ngày 20-9-1954
2.1.4 Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là
“người
Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh hùng giải phóng
dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
hiện trong các điểm sau:
+ Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
+ Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
+ Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
12
+ Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc..
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà báo quốc tế
2.2. Tư tưởng Hờ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
2.2.1 Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân,
làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Để thực hiện
mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu
nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp
quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Theo quan điểm của Bác, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người không có đầu nguồn, mà là sự nghiệp cách mạng không ngừng. Giải
phóng dân tộc là tiền đề, điều kiện để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo đảm mọi quyền lợi và hạnh phúc cho
nhân dân. Người khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được nhân dân bị áp bức và người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới có thể cứu nhân loại và mang lại cho tất cả mọi người không
phân biệt chủng tộc, nguồn gốc, tự do, bình đẳng, tình huynh đệ, thống nhất, thịnh
vượng trên trái đất và làm việc cho tất cả mọi người. Ngay từ năm 1930, Nguyễn Ái
Quách đã xác định con đường của cách mạng Việt Nam trong bản tóm tắt của Đảng là
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
13
"thực hiện một cuộc cách mạng tư sản dân quyền" và "cách mạng ruộng đất" theo
hướng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ:
2.2.2 Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc
và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống
chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc.
Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi
lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề
để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai
đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách
mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc
là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến trình từng bước và phục
tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì
độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách.
Độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến với toàn nhân loại. Với dân tộc
Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương,
sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao
hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là
mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc
lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu
trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là
điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang
giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ
càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ.
Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi
tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn
liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực
tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập
dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể
là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã
hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
14
2.2.3 Tư tưởng Hờ Chí Minh về nhân dân và đại đồn kết dân tộc
Đới với Hờ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù chính trị
chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là
một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định,
dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. Người từng nói với
cán bộ: “Nếu lãnh đạo khéo thì việc khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm
được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: phải không ngừng học dân.
“Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất
nhiều kinh nghiệm quý báu”, do vậy cán bộ ta “cần tham gia tổng kết những kinh
nghiệm quý báu ấy”.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm có tính chân
lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Hồ
Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết
lâu dài… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì
ta đoàn kết với họ”. Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải
đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai
cấp – dân tộc. Để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn
là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian,
không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được.
Khi đề câ ̣p đến vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định, đại
đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn,
quyết định thành công của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm
hình thành và phát triển sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù của dân tộc, của nhân dân. Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội
nguồn của mọi thành công: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc
phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
thành công, đại thành công”
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh không chỉ đơn giản là phương
pháp tổ chức, tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng
xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng, Người khẳng định: “Đoàn kết là
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”. Có thể nói đoàn kết dân
tộc vừa là điều kiện tiên quyết, sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, đồng thời là tôn
chỉ, mục đích, là nhiệm vụ hàng đầu mà sự nghiệp cách mạng cần hướng và đạt tới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước
tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
15
Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược. Đó là tư
tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt quá trình cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp
mọi lực lượng, có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù và xây dựng xã hội mới.
2.2.4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân
Trên cơ sở kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và mô hình dân tộc của các nước
tiên tiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết kế và trực tiếp chỉ đạo Việt Nam xây dựng mô
hình quốc gia mới dựa trên điều kiện cụ thể của đất nước Việt Nam, lấy tiêu chuẩn cao
nhất là lấy một nước thực sự để nhân dân và sống và làm việc cho nhân dân trong hòa
bình và mãn nguyện.
Trong tư duy Hồ Chí Minh, “con người” có cách hiểu rộng nhất, toàn diện nhất, bao
gồm các tầng lớp nhân dân, mang tính đa dạng và toàn vẹn. Vì vậy, đất nước: "Không
thuộc về một giai cấp cụ thể nào, mà là của toàn thể dân tộc, trừ bọn tay sai, phản quốc
và kẻ thù của Đế quốc Pháp và Nhật Bản. Với suy nghĩ này, nhân dân thực sự là cơ sở
giai cấp xã hội của nước Việt Nam kiểu mới; nước vì dân phải hướng tới mục tiêu
đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam làm nền tảng thống nhất tư tưởng, xây dựng lòng tin,
phát huy ý chí tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên. vì sự phát triển, thịnh vượng và
hạnh phúc của đất nước. Định hướng xuyên suốt việc xây dựng, ban hành và tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước vì dân là phải luôn đặt lợi ích Nhân dân
lên hàng đầu; Nhân dân thụ hưởng cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần là mục
tiêu cao nhất của Nhà nước "... hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý” Từ luận điểm xuất phát: “Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”, Người yêu cầu:
“Chúng ta phải làm sao thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm
cho dân có chỗ ở. Làm cho dân được học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là ở đó,
đi đến để dân ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp tự do độc lập”. Đó là những triết
lý, nguyên tắc chỉ đạo trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân,
do dân, vì dân ở Việt Nam.
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
16
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách
mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất
giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước
phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc của
nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng phí,
quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ "giặc nội xâm" rất nguy hiểm.
2.2.5. Tư tưởng về q́c phòng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng; kế thừa, phát triển
truyền thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, kinh nghiệm đánh giặc và nghệ thuật
quân sự độc đáo của dân tộc Việt Nam
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm
các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá
trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên
cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực
lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực
hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải
phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến
đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ xây dựng
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đây là luận điểm cách mạng, khoa học, xuyên suốt tư
tưởng của Người về xây dựng quốc phòng toàn dân. Thấm nhuần quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ.
Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, ngày 2/9/1945, Người chỉ rõ: “Toàn thể dân tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, độc lập ấy”1. Và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn nhắc nhở:
“Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố
quốc phòng”. Ngay sau khi thành lập chính quyền cách mạng, trước tình thế “thù
trong, giặc ngoài”, “ngàn cân treo sợi tóc”, Người đã bắt tay ngay vào việc chỉ đạo xây
dựng đất nước, chuẩn bị kháng chiến, bảo vệ thành quả cách mạng. Trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, Người luôn căn dặn các lực lượng vũ trang và nhân dân
không được lơ là, mất cảnh giác; vừa tập trung sản xuất, vừa đánh thắng kẻ thù xâm
lược, vừa phải giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Người nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ miền
Bắc: “Miền Bắc vừa ra sức đẩy mạnh sản xuất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, vừa phải luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, sẵn sàng đối
phó với mọi âm mưu của kẻ địch”. Người nêu rõ, mọi sự lơ là, mất cảnh giác đều dẫn
đến hậu quả nguy hại cho cách mạng, sự tồn vong của Tổ quốc, Người viết: “ trong khi
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
17
ra sức sản xuất, nhân dân ta phải luôn luôn sẵn sàng đập tan âm mưu địch phá hoại
thành quả lao động của chúng ta. Quân đội, công an, dân quân cần tiếp tục phát huy
truyền thống chiến đấu dũng cảm, củng cố quốc phòng, trật tự, an ninh”
Bác Hồ thăm một đơn vị bộ đội thuộc Quân khu 4 (năm 1961)
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng
toàn dân là nội dung chủ yếu, cốt lõi trong hệ thống tư tưởng quân sự của Người.
Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh vào xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân và nền quốc phòng toàn dân trong tình hình hiện nay có ý nghĩa thực tiễn rất
lớn. Bởi đó chính là quy luật, nguyên tắc khoa học về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân cách mạng; củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân ngày càng vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây
dựng và phát triển đất nước.
2.2.6 Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng
có vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính
làm cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy,
Đảng phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên
định mục tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi
đảng viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng
đáng với niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
18
nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước
tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người
cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm
vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục tiêu
lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong muốn.
Khi khẳng định vai trò chủ thể của Nhân dân đối với Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn trăn trở: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Người chỉ rõ, Nhà nước phải lập ra các
thiết chế đảm bảo quyền làm chủ của người dân trên thực tế; đồng thời, Nhân dân có
quyền và nghĩa vụ phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước; lực lượng thực hiện, biến
mục tiêu tốt đẹp thành hiện thực chỉ có thể là Nhân dân. Nhà nước thực hiện vai trò
người cầm lái, người tổ chức để Nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết
các vấn đề và phục vụ lợi ích của chính mình. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện
vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân; phải kiên trì
giáo dục, giác ngộ để dân tin, dân theo và cán bộ phải nêu gương, làm trước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ giữa các
thành tố của một nhà nước dân chủ mới “của dân - do dân - vì dân”. Phải là một nhà
nước thực sự của dân, do dân thì mới có thể là nhà nước vì dân và ngược lại nhà nước
luôn luôn phụng sự lợi ích, đặt quyền lợi Nhân dân lên trên hết, trước hết thì Nhân dân
sẽ hăng hái thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình, để tích cực xây dựng nhà
nước dân chủ, tiến bộ, vững mạnh, giữ vững nền độc lập và sự phát triển phồn vinh
của đất nước.
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
19
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta có thể thấy, cơ sở lý luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh mang một vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ là tiền đề, chỗ dựa vững chắc
cho sự thay đổi các cơ sở hình thành sau này mà nó còn là một bước ngoặt quan trọng
trong quá trình xây dựng cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào suy nghĩ,
tình cảm của những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng
của hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Kết thúc bài tiểu luận, ta khái quát sâu sắc hơn về cơ sở hình thành và nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh được đúc kết từ rất nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là kế
thừa và phát huy từ chủ nghĩa Mác-Lênin, là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt
Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu
tranh vì độc lập, dân chủ, tự do.
Downloaded by ng?c trâm ()
lOMoARcPSD|15963670
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin
lý luận, Hà Nội, 1992.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005.
3. Phạm Văn Đồng: Hồ Chủ tịch- Tinh hoa của dân tộc, lương tâm của thời đại,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976.
4. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội, 1997.
5. Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
6. Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh – PGS, TS
Nguyễn Quốc Bảo – TS Doãn Thị Chín ( đồng chủ biên) : Giaó trình Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2013.
7. Bộ Gíao dục và Đào tạo – Mạch Quang Thắng (chủ biên) : Gíao trình Tư tưởng
Hồ Chí Minh dành cho bậc Đại học – Không chuyên ngành lý luận chính trị, Hà
Nội, 2019
Downloaded by ng?c trâm ()