Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.62 KB, 6 trang )

ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
“ Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ơi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngơi nhà, ngọn núi, con sông ”
Hai tiếng “ Đất nước” nhỏ bé thơi, nhưng mỗi khi nó vang lên làm rạo rực biết bao trái
tim của người thi nhân. Chính vì thế, “Đất Nước” đã đi vào thơ ca, trở thành cảm hứng bất
tận, Đất Nước trong thơ Nguyễn Đình Thi là “ những cánh đồng thơm mát, những ngả đường
bát ngát, những dịng sơng đỏ nặng phù sa” lớn lao và đẹp đẽ. Nhưng “ Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, với những khía cạnh hết sức thân
thuộc, bình dị thơng qua bản trường ca mang tên “ Mặt đường khát vọng” mà tiêu biểu là
đoạn trích “ Đất Nước” trong chương thứ năm. Với hình tượng trung tâm là đất nước, thơng
qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa
Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của
thế hệ trẻ trong những năm kháng chiến đầy gian khổ. Điều đó thể hiện rõ qua đoạn trích tiêu
biểu, đặc sắc dưới đây:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó… ”
Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị-Thiên vào
năm 1971. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam
về non sơng, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với
cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn trích “Đất Nước” là phần đầu chương V
của bản trường ca này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên
nhiều khía cạnh, với tư tưởng chủ đạo "Đất nước của Nhân dân". Thơ của Nguyễn Khoa
Điềm giàu chất suy tư cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của một người trí thức về đất nước,
con người Việt Nam. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng “Đất nước của Nhân dân“ được nhà thơ gửi
gắm một cách sâu sắc trong đứa con tinh thần của mình. Và với chín câu thơ đầu của nhà thơ
là tấm vé thời gian, đưa ta về những tháng ngày xưa cũ, cùng tìm lại cội nguồn dân tộc qua
đời sống bình thường, bình dị của nhân dân.



Để lý giải cho cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm ngay từ khi mở đầu bài thơ đã
đưa ra một lời khẳng định chắc chắn:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có đã có rồi”
Đất nước có từ bao giờ không ai trong chúng ta biết cả, chỉ biết rằng từ lúc lọt lòng mẹ cho
đến khi nhận thức được thế giới xung quanh thì đất nước đã và đang tồn tại. Mở đầu bài thơ
đó là cách xưng hô "ta" vang lên một cách tự hào. Tác giả đã đại diện cho cả một thế hệ có ý
thức, có trách nhiệm đi tìm hiểu cội nguồn của đất nước. Câu thơ được viết dưới hình thức
khẳng định, kết hợp với cụm từ "đã có rồi" thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn
của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử. Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định trong "Bình
ngơ đại cáo”:
"Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Vì vậy khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, hiện diện xung quanh chúng ta với những gì
yêu thương nhất. Bằng việc khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, Nguyễn Khoa điềm
đã mở ra không gian cổ tích, nơi có tiếng đồng vọng về một thời xa xưa bằng một lời kể
"ngày xửa ngày xưa" trong câu chuyện cổ tích của mẹ:
"Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa... mẹ thường hay kể”
Tác giả đã nhắc đến cụm từ chỉ thời gian "ngày xửa ngày xưa”. Đó là thời gian trừu tượng
mơ hồ, khơng ai biết từ bao giờ chỉ biết nó đã rất xa xơi. Chắc chúng ta khơng cịn xa lạ với
cụm từ ấy nữa. Bởi cụm từ này là mở đầu của những câu chuyện cổ tích, vẽ lên trong tìm
thức của người đọc: hình ảnh của cơ Tấm bước ra từ quả thị, chàng Thạch Sanh tốt bụng cứu
người, Thánh Gióng kiên cường bất khuất ... những câu chuyện ấy đã trở thành một dòng
nước mát tưới đậm lên tuổi thơ của mỗi người. Đó là một buổi đêm thanh bình của làng quê,
là tiếng võng kẽo kẹt, là âm thanh của tiếng quạt mo đong đưa, mà dịu dàng hơn là tiếng kể
chuyện cổ tích của bà, của mẹ đã đưa con vào giấc ngủ. Những câu chuyện đó là luồng gió
mát ni dưỡng tâm hồn mỗi con người. Chính vì thế nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có viết:
“Tơi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
Đất nước là tiếng đồng vọng từ hàng nghìn năm lịch sử, nhưng để tồn tại qua ngần ấy
năm thì đất nước cũng "bắt đầu", cũng "lớn lên" kiên cường bất khuất:


“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Để khẳng định nền văn hóa lâu đời của đất nước tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật
đối lập "bắt đầu" với "bây giờ". "Bắt đầu" là quá khứ, "bây giờ" là hiện tại tạo nên mối quan
hệ chặt chẽ, tạo nên khoảng thời gian liên tục tiếp nối nhầm khẳng định tập tục ăn trầu đã có
từ xa xưa và vẫn duy trì cho đến ngày nay. "Miếng trầu là đầu câu chuyện” là biểu tượng của
sự bắt đầu trọn vẹn, suôn sẻ, là vật khơng thể thiếu trong bất kỳ lễ hội đình đám, lễ nghi.
"Đất nước” hiện lên là ảnh to lớn kỳ vĩ nhưng lại được cảm nhận từ một miếng trầu nhỏ bé
bởi miếng trầu có vai trị ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt
Nam. Miếng trầu đã nhắc người đọc gợi nhớ đến một câu chuyện được coi là cổ xưa nhất của
Việt Nam "sự tích trầu cau”. Hơn nữa "miếng trầu" xuất hiện trong những dịp lễ tết trọng
đại, trong thờ cúng tổ tiên. Nó cũng là sợi tơ để kết nối tình yêu đôi lứa:
M
" iếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”
Tác giả đã cảm nhận đất nước từ một hình ảnh nhỏ bé nhưng nó là hiện thân của phong tục
đẹp đẽ đã có từ lâu đời của con người Việt Nam. Một đất nước chỉ thực sự vững bền khi trải
qua quá trình dựng nước và giữ nước, trải qua quá trình chiến đấu gian lao, vất vả. Với hình
tượng cây tre gắn bó lâu đời với người dân Việt Nam từ ngàn xưa:
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Tác giả đã nói đến sự trưởng thành và phát triển của đất nước trải dài 4000 năm lịch sử qua
nghệ thuật ẩn dụ đất nước "lớn lên". Tác giả đã mượn hình tượng của cây tre để nhắc nhở
cho người đọc về một truyền thống vô cùng quen thuộc đối với người dân Việt. Trong đời
sống sinh hoạt, xe làm đồ dùng gần gũi, khi có chiến tranh: cây tre chất phác giản dị ấy là
biểu tượng cho tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Vì thế tre được ca ngợi: tre

xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa
chín,...tre anh hùng lao động! tre anh hùng chiến đấu! Hơn nữa, hình tượng cây tre đã nhắc
nhớ cho người đọc về truyền thuyết Thánh Gióng đánh đuổi giặc ân, về quá trình bảo vệ tổ
quốc. Đó cũng là truyền thống ngàn đời của dân tộc yêu nước chống ngoại xâm. Cây tre là
nhân chứng lịch sử cho biết bao trận đánh oai hùng, cho biết bao máu, nước mắt và mồ hội
của dân tộc ta trên chặng đường gìn giữ độc lập.


Đất nước của Nguyễn Khoa điểm hiện lên với muôn vàn khía cạnh của cuộc sống đời
thường. Khép lại quá trình chiến đấu gian lao của dân tộc, tác giả tiếp tục đưa người đọc tiếp
cận với những hình ảnh vơ cùng giản dị:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Tác giả đã đề cập đến một tập tục buổi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt Nam cho gọn gàng
để tiện cho lao động sản xuất, lâu dần trở thành một nét đẹp thanh lịch dịu dàng của người
phụ nữ. Hình ảnh búi tóc gọn gàng sau gáy mẹ những buổi bẻ bắp, làm nương, những ngày
xay gạo ni qn, là hình tượng của người phụ nữ, là hậu phương vững chắc cho gia đình.
Trong ca dao cũng từng xuất hiện hình ảnh này:
"Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho bối rối dạ anh”
Và đó là lý do vì sao mà tình cảm vợ chồng của những con người sống trên mảnh đất ấy lại
nồng nàn chung thủy đến vậy:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Bằng câu ca dao thân thương "gừng cay muối mặn”, cuộc sống gia đình của những con
người sống trong đất nước hiện lên thật đẹp đẽ. Đó là gia vị quen thuộc trong bữa ăn của
người Việt. Nó cịn là vị thuốc chữa bệnh cho người bình dân. Thành ngữ ấy được vận dụng
một cách đặc sắc trong câu thơ vừa nhẹ nhàng, vừa thấm thía. Muối tất nhiên phải mặn, gừng
chắc chắn cay, chúng đều là những sự thật hiển nhiên, những chân lý khơng thể thay đổi
được, cũng như tình cảm thủy chung trời bể của đôi ta, không biết đến khi nào phai nhạt. Tác
giả đã lấy vị mặn của muối, vị cay của gừng để nói đến tình cảm thủy chung son sắt tình

nghĩa vợ chồng. Đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chính vì thế, hình ảnh
ấy khơng cịn xa lạ trong ca dao Việt Nam:
"Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hẵng cịn cay
Đơi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Đóng lại trang thơ về những tình cảm thuỷ chung mặn nồng, Nguyễn Khoa Điềm đã
mang độc giả tiếp cận với phong tục đặt tên và cuộc sống lao động sản xuất của con người
nơi đất nước:
“Cái kèo, cái cột thành tên


Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Với quan niệm đặt tên con không bao giờ đẹp sẽ bảo vệ chúng khỏi sự hủy phá của ma quỷ,
những người làm cha làm mẹ đã mượn hình tượng cái kèo cái cột đầy thân quen. Hơn hết
người Việt có phong tục tập quán đặt tên cho con bằng những sự vật cần gũi gắn bó trong
đời sống hằng ngày.Cái kèo cái cột là biểu tượng cho sự bền vững của máy ấm gia đình mà
gia đình ấy lại là những phân tử nhỏ của xã hội. Theo người Việt xưa họ dùng cái kèo cái cột
giằng vào nhau giữ cho ngôi nhà thêm bền chặt. Thực vậy, sự phát triển của đất nước luôn
gắn liền với sự phát triển quá trình lao động sản xuất. Với nền văn minh lúa nước lâu đời,
những người dân nơi đây "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương trải qua
xay, giã giần sàng mới ra hạt gạo trắng ngần thơm ngát. Qua nghệ thuật liệt kê một loạt các
động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả được cụ thể q trình làm ra hạt gạo. Hịa trong âm
điệu dồn dập mạnh mẽ của quá trình lao động sản xuất là tiếng cối vang lên đều đặn, là
những giọt mồ hôi rơi trên hạt gạo trắng ngần. Thành ngữ "một nắng hai sương" chỉ sự khó
khăn vất vả. Câu thơ đã diễn tả một cách sinh động sự khó khăn, vất vả của người nơng dân,
khi làm ra những hạt cơm ngọt bùi. Thấm trong từng hạt gạo nhỏ bé là vị mặn của mồ hôi, vị
cay của sự nặng nhọc và vất vả. Chính vì thế câu thơ phảng phất lời nhắn nhủ của cha ông
xưa:
"Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Câu thơ cuối đoạn là lời khẳng định đầy tự hào về lịch sự lâu đời của dân tộc
“Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có
phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn
trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca
dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và q trọng
văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết
bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua chín câu thơ đầu, tác giả đã cho người đọc có cái nhìn thú vị, những cảm nhận
mới mẻ, sâu sắc về sự hình thành và phát triển của đất nước. Cùng với đó nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã thành cơng trong việc sử dụng chất chính luận kết hợp trữ tình đặc sắc. Trong
đoạn thơ, tác giả cũng thật khéo léo khi sử dụng các cấu trúc thơ “Đất nước đã”, “Đất nước
bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” khắc họa q trình hình thành của đất nước


từ xa xưa đã thấm nhuần trong trí óc của người dân Việt Nam từ bao đời nay. Dưới góc nhìn
đa diện của Nguyễn Khoa Điểm, ngơn từ chọn lọc và sự góp mặt của các chất liệu văn học
dân gian, đất nước hiện lên hết sức giản dị, tự nhiên, mộc mạc như chính đời sống thường
nhật của nhân dân lao động.
Đoạn thơ cho người đọc mở mang tầm mắt về q trình hình thành Đất Nước dưới
góc nhìn rộng mở của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Qua đó chúng ta như cảm nhận được cội
nguồn dân tộc, văn hóa đang ăn sâu vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Đồng thời nhà
thờ còn muốn để ta thấy được rằng, là thế hệ trẻ hôm nay phải biết và am hiểu nhiều hơn về
đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước chính là hiện thân của đời
sống đấu tranh và lao động, là tiếng lòng nhân dân, là lời ca ngợi lối sống nghĩa tình, đồn
kết của dân tộc Việt Nam.




×