Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu Luận: Phẩm chất và năng lực của người giáo viên THCS hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.96 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ VÀ GIÁO DỤC
----------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN TÂM LÝ HỌC GIÁO DỤC
ĐỀ TÀI: PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
TIỂU HỌC HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: PGS. TS. NGUYỄN VĂN BẮC
Sinh viên:

LÝ VĂN VIỆT

Mã số:

20S5010114
Huế, 2023


LÀM MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng và Nhà nước ta hết sức
chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn lực con người, coi đó là yếu
tố phát triển nhanh và bền vững. Giáo dục và đào tạo của nước ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Phát triển giáo dục và đào tạo chính là tạo điều kiện tốt nhất để
sản sinh và vun trồng nhiều nhân tài, làm giàu thêm “nguyên khí của quốc gia”, là


nguồn tài sản vô giá của dân tộc và nhân loại.
Ngày nay, đứng trước những đòi hỏi bức bách của sự phát triển khoa học và công
nghệ, sự thay đổi nhanh chóng của xã hội đã địi hỏi giáo dục cần có sự thay đổi và
điều chỉnh sâu sắc, toàn diện. Lao động sư phạm của người giáo viên mang đầy đủ các
đặc điểm lao động của người thầy giáo. Xã hội càng phát triển thì vị trí, vai trị của
người thầy giáo, cơ giáo trong lịng mỗi con người vẫn được khẳng định với sự kính
u và tơn trọng. Thầy, cô giáo là những người đã và đang truyền đạt các kiến thức,
những kinh nghiệm sống cho con người từ khi chập chững bước vào đời cho đến khi
họ trưởng thành, những kiến thức và kinh nghiệm đó có thể ở nhiều lĩnh vực khác
nhau của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và cả những kiến thức để hình thành
nhân cách con người, góp phần tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
Những trẻ em có độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi là những đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ,
sống chủ yếu bằng tình cảm và đang tích cực tạo ra cho mình những chuyển biến lớn
trong nhận thức, tình cảm, ý chí dưới tác động của hoạt động học tập nói riêng, cuộc
sống nhà trường nói chung. Do đó, người giáo viên Tiểu học cần hiểu rõ đặc điểm tâm
lý của học sinh trong độ tuổi này để lựa chọn những tác động sư phạm hiệu quả với
từng học sinh, nhằm đạt mục tiêu giáo dục.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung cịn
thấp, cịn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nguồn nhân
lực trong công cuộc đổi mới đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Để nhận
thức đúng vị trí của người giáo viên đối với xã hội và có định hướng trong sự nghiệp
trồng người, tôi chọn đề tài: “Phẩm chất và năng lực của người giáo viên Tiểu học
hiện nay” để là đề tài tiểu luận của mình.


2. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý luận và thực trạng về phẩm chất và năng lực của người giáo viên Tiểu
học hiện nay, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao phẩm chất và năng lực của
người giáo viên Tiểu học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu cơ sở lý luận về phẩm chất và năng lực của người giáo viên
- Phân tích, đánh giá thực trạng về phẩm chất và năng lực của người giáo viên
Tiểu học.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và phẩm chất người giáo viên
Tiểu học.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
4.1. Khách thể nghiên cứu.
Nhân cách người giáo viên
4.2.Đối tượng nghiên cứu.
Phẩm chất và năng lực người giáo viên
5. Phạm vi nghiên cứu.
Trường Tiểu học
6. Giả thuyết nghiên cứu.
Nếu nâng cao phẩm chất và năng lực của giáo viên Tiểu học sẽ góp phần nâng cao
chất lượng cho học sinh Tiểu học.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
8. Cấu trúc
- Chương 1 : Cơ sở lý luận
- Chương 2: Thực trạng về phẩm chất và năng lực của giáo viên Tiểu học hiện
nay.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực của người
giáo viên Tiểu học.


CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Giáo viên Tiểu học.
Giáo viên Tiểu học là những người có trình độ, kiến thức theo quy định, làm công

tác giảng dạy, giáo dục trong trường Tiểu học. Giáo viên Tiểu học là những giáo viên
có bằng tốt nghiệp từ trung cấp sư phạm trở lên; dạy các mơn học từ lớp 1 đến lớp 5
theo chương trình của hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định.
1.1.2. Phẩm chất.
Phẩm chất có thể hiểu một cách đơn giản nhất đó là tư cách và tính cách của một
con người. Nghĩa của từ phẩm chất có thể hiểu là tính chất bên trong con người. Hay
còn gọi là tư cách đạo đức trong con người.
Phẩm chất là đặc trưng của từng cá nhân, là bản chất thực của con người. Phía
trước mọi người, trong cuộc đời, ln có nhiều con đường. Người thiếu nhân cách sẽ
mất phương hướng khi chọn con đường chính đáng cho mình. Phẩm chất là yếu tố
quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ giữa con người với con người, từ
những chuyện bình thường, mỗi quan hệ gia đình, kết giao đến mối quan hệ xã hội,
công tác, kinh doanh.
Phẩm chất thể hiện qua cách ứng xử của con người đối với người khác cũng như
đối với sự việc trong cuộc sống. Đồng thời nhân cách thể hiện trình độ văn hóa, nhân
tính và ngun tắc sống của con người. Con người là một thực thể xã hội. Vì vậy chất
lượng mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với chất lượng cuộc sống.
1.1.3. Năng lực.
Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hành động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.
Theo từ điển tâm lý học, năng lực là tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm
lý cá nhân, đóng vai trị là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một
dạng hoạt động nhất định. Như vậy có thể hiểu năng lực là một đặc tính có thể đo
lường được của một người về kiến thức, kỹ năng, thái độ... Cũng như các phẩm chất
cần thiết để hoàn thành được nhiệm vụ. Năng lực là yếu tố giúp một cá nhân làm việc


hiệu quả hơn so với những người khác, cũng là một trong những thước đo để đánh giá

các cá nhân với nhau. Năng lực bao gồm: Các hành vi phù hợp với việc làm, động cơ,
kiến thức/kỹ năng và được xác định thông qua kết quả về việc làm và vai trị cơng
việc.
Năng lực có thể được hình thành do tư chất tự nhiên của cá nhân. Tuy nhiên, năng
lực phần lớn được hình thành‚ bồi đắp và có được qua quá trình học tập‚ rèn luyện tại
cơ sở giáo dục, công sở; qua những trải nghiệm thực tế, nỗ lực học hỏi, luyện tập, trau
dồi kiến thức trong cuộc sống thường ngày.
1.1.4. Nhân cách.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu hiện ở bản sắc
và giá trị xã hội của người ấy. Trong đó, tổ hợp có nghĩa là những thuộc tính tâm lý
hợp thành nhân cách có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau là thành một hệ
thống, cấu trúc nhất định. Bản sắc là muốn nói trong số những thuộc tính đó có cái
chung từ xã hội, từ giai cấp, tập thể gia đình vào con người nhưng cái chung này đã
trở thành cái riêng, cái khác biệt của từng người. Bản sắc này có đặc điểm về nội dung
và cả về hình thức, khơng giống với bản sắc của bất cứ một người nào khác. Giá trị xã
hội là muốn nói trong số những thuộc tính đó, thể hiện ra bên ngồi ở những việc làm,
những cách ứng xử, hành vi, hành động, hoạt động phổ biến của người ấy và được xã
hội đánh giá.
1.2 Vị trí và vai trị của giáo viên
Căn cứ theo Điều 66 Luật Giáo dục 2019 quy định vị trí, vai trị của nhà giáo như
sau: “Điều 66. Vị trí, vai trò của nhà giáo:
1. Nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong cơ sở giáo dục, trừ cơ sở giáo
dục quy định tại điểm c khoản 1 Điều 65 của Luật này.
Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục
khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng dạy từ
trình độ cao đẳng trở lên gọi là giảng viên.
2. Nhà giáo có vai trị quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế
quan trọng trong xã hội, được xã hội tơn vinh.”
1.2.1. Vị trí của nhà giáo



Nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy kiến thức, kỹ năng và giáo dục về đạo đức,
nhân cách cho người học trong cơ sở giáo dục, trừ cơ sở giáo dục là Viện Hàn lâm,
viện do Thủ tướng Chính phủ thành lập theo quy định của Luật Khoa học và Cơng
nghệ được phép đào tạo trình độ tiến sĩ. Cơ sở giáo dục là tổ chức thực hiện hoạt động
giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân gồm nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định rõ đối tượng gọi là giáo viên và giảng viên.
Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục
khác, giảng dạy trình độ sơ cấp, trung cấp gọi là giáo viên. Giáo viên là người có trình
độ trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ theo quy định. Cịn đối với nhà giáo giảng dạy
từ trình độ cao đẳng trở lên được gọi là giảng viên. Giảng viên đảm nhiệm việc giảng
dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một chuyên ngành đào tạo của trường
đại học hoặc cao đẳng. Có trình độ đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm.
1.2.2. Vai trị của nhà giáo.
Nhà giáo có vai trị quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục, có vị thế
quan trọng trong xã hội, được xã hội tôn vinh.
Chất lượng giáo dục là sự đáp ứng mục tiêu của cơ sở giáo dục hoặc chương trình
giáo dục, đáp ứng các yêu cầu của Luật giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, phù hợp với nhu cầu sử dụng nhân lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước. Xuất phát là người truyền tải
tri thức đến người học nên nhà giáo có vai trị then chốt đến chất lượng giáo dục.
Nghề nhà giáo được ví như một nghề trồng người tức là tạo nên những con người có
tư duy và phẩm chất tích cực góp phần xây dựng và phát triển đất nước văn minh và
tiến bộ hơn. Đây chính là yếu tố quyết định nên vị thế, tầm quan trọng của nhà giáo
trong xã hội.
1.3.Đặc điểm lao động của giáo viên.
* Mục đích lao động sư phạm:
Nhằm thơng qua quá trình giáo dục để hình thành nhân chách cho thế hệ trẻ,
chuẩn bị cho họ các năng lực và phẩm chất để sống và hoạt động theo các yêu cầu mà

xã hội mong đợi. Nói cách khác, lao động sư phạm góp phần “sáng tạo” ra những con
người năng động sáng tạo, đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân tốt, những


người lao động tốt, góp phần vào việc tái sản xuất sức lao động cho xã hội, thúc đẩy
xã hội phát triển. Thật vậy, để tồn tại và phát triển, xã hội loài người phải sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần, điều đó cần đến sức lao động. Và chức năng chính của
giáo dục là bồi dưỡng và phát huy sức mạnh đó ở mỗi người, trong đó người giáo viên
chính là lực lượng chủ yếu tạo ra sức lao động xã hội mới đó.
Lao động sư phạm là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học.
Trong đó, người dạy là người có trình độ chun mơn nghiệp vụ, được xã hội giao cho
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Còn người học có nhiệm vụ học tập, tiếp thu
những giá trị văn hóa của xã hội lồi người và rèn luyện hệ thống kĩ năng, kĩ xảo để
sau này có thể ra đời sống và lao động nhằm đạt được các tiêu chỉ mà mục đích giáo
dục đã đề ra.
* Đối tượng lao động sư phạm:
Đối tượng tác động không phải là những vật vô tri, vô giác mà là những con
người, cụ thể hơn là học sinh, thế hệ trẻ đang lớn lên, đang trưởng thành. Học sinh
không chỉ chịu tác động của giáo viên, nhà trường mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác như: gia đình, bạn bè, các phương tiện thông tin đại chúng... Tất cả
những nhân tố này có thể tác động đến việc hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh một cách tích cực hoặc tiêu cực, tự giác hoặc tự phát ... Theo nhiều mức độ
và cách thức khác nhau. Vì vậy, lao động sư phạm cịn có nhiệm vụ điều chỉnh mọi
tác động từ các nhân tố đến người học sinh nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Không ai
trong xã hội, kể cả cha mẹ là bậc vĩ nhân cũng không thể thay thế được chức năng của
người thầy giáo – người “kỹ sư tâm hồn".
* Công cụ lao động của lao động sư phạm
Lao động sư phạm của nhà giáo tác động đến tình cảm, thái độ, trí tuệ của con
người, do đó địi hỏi nhà giáo trong q trình lao động phải sử dụng những cơng cụ
lao động đặc biệt là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, và nhân cách của mình.

* Sản phẩm của lao động sư phạm
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh- đó là nguồn
gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị gốc “giá trị sinh
ra mọi giá trị”.


Lao động của nhà giáo là loại hình lao động đặc biệt. Công cụ lao động chủ yếu
của nhà giáo không chỉ là kiến thức chuyên ngành, nghiệp vụ sư phạm mà cịn là tồn
bộ nhân cách của mình. Nhân cách nhà giáo càng hồn hảo thì sản phẩm giáo dục
càng hoàn thiện. Nhân cách nhà giáo bao gồm đạo đức, tâm hồn, tư tưởng, phong cách
sống... Kết quả lao động sư phạm của nhà giáo cũng có nhiều điểm đặc biệt. Các loại
lao động khác khi kết thúc quá trình lao động thì thu được sản phẩm, cịn q trình lao
động của nhà giáo chưa thể kết thúc khi sản phẩm của họ ra đời. Hiệu quả lao động
của nhà giáo sống mãi trong nhân cách của người được đào tạo, nên lao động sư phạm
vừa mang tính tập thể rất sâu, vừa mang dấu ấn cá nhân rất đậm, đồng thời còn ẩn
chứa cả dấu ấn thời đại. Muốn quan tâm tới chất lượng giáo dục - đào tạo nguồn lực
con người một cách toàn diện phải bắt đầu bằng sự quan tâm tới chất lượng đội ngũ
giáo viên. Cùng với việc tự rèn luyện, gìn giữ, việc giáo dục nhân cách cho các nhà
giáo cần được tiến hành từ các trường sư phạm đến các trường học nơi nhà giáo công
tác.
1.4. Phẩm chất của giáo viên.
1.4.1. Thế giới quan khoa học
Thế giới quan khoa học là hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về tự
nhiên, xã hội và con người. Thế giới quan là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân
cách, nó khơng những quyết định niềm tin chính trị mà cịn quyết định toàn bộ hành
vi, cũng như ảnh hưởng của giáo viên đối với trẻ.
Thế giới quan khoa học của người giáo viên là hệ thống những quan điểm duy vật
biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Thế giới quan
khoa học khơng có sẵn như là bản tính tự nhiên, mà được hình thành trong quá trình
sống và học tập của người giáo viên. Trong q trình đó, việc học các mơn khoa học

tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là triết học có ý nghĩa
quan trọng. Tư duy giáo dục là một biểu hiện cụ thể của thế giới quan khoa học. Đó là
lối suy nghĩ mang nặng ý nghĩa giáo dục. Ở người giáo viên có tư duy giáo dục, mọi
lời nói, việc làm, hành vi, cử chỉ đều được cân nhắc trên phương diện giáo dục về hậu
quả của chúng. Thế giới quan khoa học đúng đắn sẽ giúp giáo viên biết lựa chọn nội
dung phương pháp và giáo dục thích hợp. Biết kết hợp giáo dục với nhiệm vụ chính trị
xã hội, gắn nội dung bài giảng với thực tiễn. Xây dựng niềm tin cho thế hệ trẻ và


chống mọi biểu hiện của tư tưởng lạc lâu, phản khoa học. Viện sĩ Gịnơbơlin khẳng
định: “Nếu giáo viên nắm vững được thế giới quan duy vật biện chứng thì không một
giáo viên nào giảng dạy môn học tách rời cuộc sống và không liên hệ với những môn
học khác.”
Để hình thành thế giới quan khoa học, người giáo viên phải thấm nhuần quan
điểm đường lối giáo dục của Đảng, nắm được mục tiêu đào tạo đối với bậc học. Đồng
thời phải xây dựng cho mình cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn về các hiện tượng
giáo dục, phải trang bị cho mình những tri thức về khoa học giáo dục.
1.4.2. Lý tưởng đào tạo
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách người giáo viên.
Lý tưởng đào tạo giúp cho người giáo viên ln đi lên phía trước, thấy được giá trị
sức lao động của mình đối với thế hệ trẻ. Lý tưởng của giáo viên có ảnh hưởng sâu sắc
đến sự hình thành nhân cách học sinh.
Lý tưởng nghề nghiệp của giáo viên biểu hiện ở lòng yêu trẻ, sự say mê nghề
nghiệp, lương tâm nghề nghiệp, tận tụy hy sinh với cơng việc, tác phong làm việc cần
cù trách nhiệm, có lối sống chân tình giản dị.. Tất cả cái đó sẽ tạo nên sức mạnh giúp
người giáo viên vượt qua mọi khó khăn thử thách để hồn thành nhiệm vụ đào tạo thế
hệ trẻ. Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của giáo viên có tác dụng hướng dẫn điều khiển quá
trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của giáo viên khơng phải là cái có sẵn, cũng khơng
phải là cái được truyền từ người này sang người khác bằng cách áp đặt, trái lại, sự

hình thành và phát triển nó là một q trình rèn luyện hoạt động tích cực trong cơng
tác và ngay từ khi cịn ngơi trên ghế trường sư phạm. Người giáo viên nhận thức về
nghề càng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng sâu sắc, hành động nghề càng tỏ rõ
quyết tâm thì lý tưởng đào tạo sẽ là kim chỉ nam cho hành động của giáo viên. Các
nhà sư phạm đã chỉ ra rằng, muốn hình hành lý tưởng sư phạm địi hỏi giáo viên phải
trải qua q trình hoạt động tích cực với nghề và có sự phấn đấu lâu dài bền bỉ. Vì thế,
nhà trường sư phạm phải giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nhà giáo dục
người Nga Macarencơ nói "Chúng ta có thể khẳng định rằng nếu trường sư phạm
không giáo dục lý tưởng nghề dạy học cho giáo sinh thì cũng có nghĩa là khơng giáo
dục gì cả"


1.4.3. Lòng yêu trẻ
Lòng yêu trẻ là một trong những phẩm chất đạo đức cao quý của người giáo viên,
vì nó là đạo lý của cuộc sống, là đạo đức nghề dạy học. Gônôbôlin Ph.N (1976) đã
viết “Điều trước tiên địi hỏi ở người giáo viên là tình u trẻ. Chúng ta cần phải yêu
trẻ. Từ tình yêu trẻ sẽ nảy sinh tình yêu lao động sư phạm và tình u đó tạo ra tài
nghệ trong cơng tác”. Như vậy, lòng yêu trẻ của người giáo viên càng sâu sắc bao
nhiêu thì càng làm được nhiều việc vĩ đại bấy nhiêu. Lòng yêu trẻ của giáo viên được
biểu hiện: giáo viên cảm thấy hạnh phúc, hài lòng khi được tiếp xúc với trẻ, thấy các
em ngày càng khôn lớn, hiểu được thế giới tâm hồn của trẻ, luôn quan tâm đầy thiện ý
và ân cần đối với trẻ, khơng có sự phân biệt đối xử với trẻ, tinh thần giúp đỡ trẻ bằng
ý kiến hoặc bằng hành động thực tế của mình một cách chân tình và giản dị. Lịng yêu
thương trẻ không phải là sự nuông chiều trẻ, mềm yếu ủy mị với trẻ; không đề ra yêu
cầu cao với trẻ và cũng không nghiêm khắc với trẻ, mà lịng u thương trẻ thể hiện ở
sự tơn trọng và yêu cầu cao ở trẻ một cách hợp lý. Như nhà giáo dục Nga Macarencô
đã viết “Thái độ ân cần trìu mến, chân thành, lịng u thương khơng điều kiện đối
với học sinh là nét nổi bật nhất trong nhân cách của người giáo viên …”. Nguyên
Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã chỉ rõ: “Giáo viên phải thương yêu tất cả học sinh, dù có
những học sinh chưa ngoan hoặc chậm hiểu cũng khơng nên có thái độ phân biệt đối

xử. Phải có tình thương u trẻ sâu sắc, rộng rãi, phải gạt bỏ lịng ích kỷ, đố kỵ thì
mới giáo dục trẻ tốt được".
1.4.4. Lòng yêu nghề.
Lòng yêu nghề và yêu trẻ gắn bó chặt chẽ với nhau. Càng yêu trẻ bao nhiêu ta
càng yêu nghề bấy nhiêu. Không có lịng u nghề, u trẻ thì giáo viên khó có thể tạo
ra động lực mạnh mẽ để suốt đời phấn đấu vì lý tưởng nghề nghiệp. Người giáo viên
có lịng u nghề là người ln nghĩ đến việc cống hiến cho sự đào tạo thế hệ trẻ, có
tinh thần trách nhiệm cao đối với cơng việc, ln tìm cách cải tiến nội dung, phương
pháp dạy học. Họ không tự thỏa mãn với trình độ hiểu biết, trình độ tay nghề của
mình. Họ thường có niềm vui khi được tiếp xúc với học sinh. Cho nên, chỉ có người
giáo viên nào mà họ dâng hiến cả cuộc đời cho thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người hạnh phúc cao cả của đời mình thì mới có thể
thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng. L.N Tônxtôi


(1953) đã nói: “Để đạt được thành tích trong cơng tác, người thầy giáo phải có một
phẩm chất - đó là tình u. Người thầy giáo có tình u trong công việc là đủ cho họ
trở thành người giáo viên tốt.”
1.4.5. Một số phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí của người giáo viên.
Hoạt động của người giáo viên nhằm làm thay đổi con người (học sinh). Do vậy,
việc xây dựng mối quan hệ thầy - trò là một vấn đề quan trọng. Nội dung, tính chất và
cách xử lý mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Người
giáo viên không chỉ tác động đến học sinh bằng những hành động trực tiếp của mình
mà cịn bằng tấm gương của chính bản thân mình. Để làm được điều đó, một mặt,
người giáo viên phải biết lấy quy luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư
phạm của mình, mặt khác phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần
thiết như: tinh thần trách nhiệm, lịng nhân đạo, tính mục đích, tính nguyên tắc, khiêm
tốn giản dị, kiên nhẫn, tinh tự kiểm chế, tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì
mình"...
Những phẩm chất đạo đức là nhân tố để tạo ra sự cân bằng trong mối quan hệ thầy

- trị. Những phẩm chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực
của người giáo viên trở thành hiện thực và tác động sâu sắc tới học sinh.
1.5. Năng lực của giáo viên.
1.5.1.Năng lực dạy học của người giáo viên
1.5.1.1 Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học
Năng lực hiểu học sinh là khả năng xâm nhập vào thế giới bên trong của trẻ, là sự
hiểu biết tường tận về nhân cách của chúng cũng như khả năng quan sát tinh tế những
biểu hiện tâm lý của học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục.
* Biểu hiện năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học
- Giáo viên phải biết xác định được khối lượng, mức độ, phạm vi kiến thức đã có
ở học sinh, từ đó xác định mức độ và khối lượng kiến thức mới cần trình bày cho học
sinh.
- Phải dự đốn được những thuận lợi và khó khăn, xác định đúng mức độ căng
thẳng ở học sinh khi thực hiện các nhiệm vụ học tập.
- Giáo viên phải có khả năng quan sát tinh tế và có thể xây dựng những biểu hiện
chính xác về lời giảng của mình đã được học sinh khác nhau lĩnh hội như thế nào.


- Khả năng hiểu học sinh ở người giáo viên thể hiện ở hai mức độ: Mức độ thấp là
thông qua câu trả lời và làm bài tập của học sinh. Mức độ cao là thơng qua những
tiếng xì xào, ánh mắt, sắc mặt... của các em.
Vì vậy, muốn hiểu học sinh thì người giáo viên phải ln quan tâm gần gũi học
sinh với tình thương và trách nhiệm. Giáo viên phải nắm vững chuyên môn cũng như
sự hiểu biết đầy đủ về tâm lý của trẻ và kết hợp với những phẩm chất tâm lý cần thiết.
1.5.1.2 Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên
Tri thức và tầm hiểu biết của giáo viên là năng lực cơ bản, năng lực trụ cột của
nghề dạy học, vì:
- Giáo viên thực hiện nhiệm vụ phát triển nhân cách học sinh nhờ một phương tiện
đặc biệt đó là trí thức. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tất yếu phải nắm vững
phương tiện ấy. Chỉ khi nào nắm vững được nội dung, bản chất, con đường hình thành

tri thức mà nhân loại đã đi qua thì khi ấy người giáo viên mới có thể chất lọc được
những cái cần cho sự phát triển nhân cách của người học.
- Vì công việc của nhà giáo cũng là công việc của một nhà giáo dục, để giáo dục
được học sinh thì khơng chỉ nắm vững kiến thức mơn mình dạy, người giáo viên cần
có hiểu biết rộng, tâm hồn của họ phải được bồi bổ nhiều tinh hoa của dân tộc, của
cuộc sống, của khoa học. Khi đó người giáo viên mới có thể bồi dưỡng cho thế hệ trẻ
có được nhãn quan rộng lớn, có hứng thú và thiên hướng thích hợp.
- Xã hội càng hiện đại, đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với trẻ, đồng thời làm cho
hứng thú và nguyện vọng của trẻ càng phát triển (thích tị mị, tìm hiểu...). Người giáo
viên cần phải nâng cao trình độ, tri thức để đáp ứng sự phát triển ở trẻ.
- Tạo ra uy tín cho người giáo viên.
* Biểu hiện năng lực về tri thức và tầm hiểu biết của giáo viên
- Giáo viên phải nắm vững và hiểu biết rộng về các khoa học. Thường xuyên theo
dõi, nắm bắt xu hướng phát triển và những phát minh trong khoa học để bổ sung vào
vốn trình độ của bản thân.
- Biết tiến hành nghiên cứu khoa học.
- Có năng lực tự học tự bồi dưỡng để bổ túc và hồn thiên tri thức của mình.
Để có năng lực này, địi hỏi người giáo viên phải có hai yếu tố cơ bản: Thứ nhất là
có nhu cầu mở rộng tri thức và tầm hiểu biết, thứ hai là có khả năng để làm thỏa mãn


nhu cầu đó (phương pháp tự học). Ngay cả bậc vĩ nhân nếu khơng thường xun tự
bồi dưỡng thì dần mất hết nhu cầu trí tuệ và hứng thú tinh thần. Do đó, người giáo
viên phải có tầm hiểu biết sâu rộng và ln có nhu cầu mở rộng tầm hiểu biết để hồn
thiện trí thức của mình. Tâm hồn của giáo viên phải được bồi bổ bởi rất nhiều những
tinh hoa của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học. Nhà giáo dục người Nga
Xukhônlinxki đã viết "Khi nào tầm hiểu biết của giáo viên rộng hơn chương trình của
nhà trường một cách vơ bờ bến, thì lúc đó giáo viên mới là một thợ cả lành nghề, một
nghệ sĩ, một nhà thơ của quá trình sự phạm.”
1.5.1.3. Năng lực chế biến tài liệu học tập

Năng lực chế biến tài liệu là năng lực gia công về mặt sư phạm của giáo viên đối
với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi,
của từng cá nhân học sinh, phù hợp với trình độ, kinh nghiêm của học sinh và đảm
bảo logic sư phạm.
* Biểu hiện năng lực chế biến tài liệu học tập của giáo viên
- Trình bảy tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức chính xác, liên hệ được nhiều mặt giữa
kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn này với kiến thức bộ mơn khác, liên
hệ vận dụng vào thực tế.
- Tìm ra những phương pháp mới, hiệu quả để làm cho bài giảng đầy sức lôi cuốn
và giàu cảm xúc và sáng tạo.
- Học tập được kinh nghiệm của giáo viên khác và đúc kết kinh nghiệm cho mình.
Để có năng lực này đòi hỏi người giáo viên: Phải biết đánh giá đúng đắn tài liệu
dùng để dạy cho học sinh, xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của
chương trình với trình độ nhận thức của học sinh; Biết chế biến tài liệu cho phù hợp
với logic sư phạm và vừa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh; Có khả năng
phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa kiến thức và phải có sự sáng tạo khi chế biến và
trình bảy tài liệu học tập.
1.5.1.4. Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học
Năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học là khả năng tổ chức và điều khiển hoạt động
nhận thức của học sinh qua bài giảng. Nắm vững kỹ thuật dạy học mới là giáo viên tổ


chức và điều khiển hoạt động của học sinh giúp học sinh lĩnh hội tri thức thơng qua
hoạt động tích cực độc lập của bản thân.
* Biểu hiện năng lực nắm vững kỹ thuật dạy học của giáo viên
- Giáo viên biết đặt học sinh vào vị trí của người “khám phá” trong q trình dạy
học.
- Giáo viên có kỹ năng tổ chức điều khiển học sinh lĩnh hội tài liệu một cách rõ
ràng, dễ hiểu và phải chế biến tài liệu đó trở nên vừa sức với học sinh.

- Ln tạo ra hứng thú và kích thích học sinh suy nghĩ một cách độc lập, tích cực,
sáng tạo.
- Phải tạo ra tâm thế có lợi cho sự lĩnh hội tri thức trong quá trình học tập.
- Vì vậy, để có năng lực này, địi hỏi người giáo viên phải có q trình học tập
nghiêm túc và rèn luyện kỹ năng sư phạm.
1.5.1.5 Năng lực ngôn ngữ
Năng lực ngôn ngữ là một năng lực quan trọng không thể thiếu của người giáo
viên vì đây là cơng cụ, phương tiện đảm bảo cho người giáo viên thực hiện chức năng
dạy học và giáo dục của mình. Nhờ ngơn ngữ, giáo viên truyền đạt thơng tin tới trị,
thúc đẩy sự chú ý và suy nghĩ của học sinh vào bài giảng và điều khiển và điều chỉnh
hoạt động nhận thức của học sinh, giải thích, bàn bạc, tổ chức, huy động các lực lượng
khác tham gia vào hoạt động giáo dục.
Năng lực ngôn ngữ là khả năng biểu đạt rõ ràng, mạch lạc ý chí và tình cảm của
mình bằng lời nói cũng như nét mặt và điệu bộ, cử chỉ.
* Biểu hiện năng lực ngôn ngữ của giáo viên
- Nội dung ngôn ngữ phải sâu sắc, chứa đựng mật độ thông tin lớn, phải thích hợp
với các nhiệm vụ nhận thức khác nhau.
- Hình thức ngơn ngữ phải trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, có ngữ điệu, biểu
cảm, phát âm mạch lạc, khơng sai về ngữ pháp và có cảm xúc làm lay động tâm hồn
học sinh.
- Ngôn ngữ của giáo viên không quá nhanh cũng không quá chậm, ngôn ngữ của
giáo viên phải có tác dụng khơi gợi sự chú ý và tư duy tích cực của học sinh vào bài
giảng.


- Bên cạnh đó, người giáo viên phải biết sử dụng phi ngôn ngữ sinh động, phù hợp
với nội dung của bài giảng.
- Vì vậy, người giáo viên phải thường xuyên rèn luyện, trau dồi về ngôn ngữ, phải
am hiểu về tri thức để truyền đạt có xúc cảm.
1.5.2. Năng lực giáo dục

1.5.2.1. Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh
Năng lực vạch dự án phát triển nhân cách của học sinh là năng lực biết dựa vào
mục đích giáo dục, vào yêu cầu đào tạo, hình dung trước cần phải giáo dục cho học
sinh những phẩm chất nhân cách nào và hướng hoạt động của mình để đạt được mục
đích đó.
* Biểu hiện năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh
- Giáo viên có khả năng tiên đốn sự phát triển của những thuộc tính này hay
thuộc tỉnh khác ở từng học sinh, vừa nắm được nguyên nhân nảy sinh và mức độ của
những thuộc tính đó.
- Giáo viên thấy được sự khác nhau trong nhân cách của học sinh dưới ảnh hưởng
của dự án phát triển nhân cách do mình xây dựng nên.
- Giáo viên hình dung được hiệu quả của những tác động sư phạm nhằm hình
thành nhân cách học sinh. Nhờ có năng lực này mà cơng việc của người giáo viên trở
nên có kế hoạch, chủ động và sáng tạo hơn. Để có năng lực này, người giáo viên cần
phải có óc tưởng tượng sư phạm phong phú; có tính lạc quan sư phạm; có niềm tin vào
sức mạnh giáo dục, niềm tin vào học sinh và có óc quan sát sư phạm tinh tế.
1.5.2.2.Năng lực giao tiếp sư phạm
Năng lực giao tiếp sư phạm là năng lực nhận thức nhanh chóng những biểu hiện
bên ngồi và những biểu hiện tâm lý bên trong của học sinh và của bản thân giáo viên,
đồng thời biết sử dụng hợp lý các phương tiện giao tiếp, biết cách tổ chức, điều khiển
và điều chỉnh quá trình giao tiếp nhằm đạt được mục đích giáo dục.
* Biểu hiện năng lực giao tiếp sư phạm của người giáo viên
- Kỹ năng định hướng giao tiếp: là khả năng dựa vào sự biểu lộ bên ngồi mà
phán đốn chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.


- Kỹ năng định vị: là sự đồng cảm giữa giáo viên và học sinh, là khả năng biết xác
định vị trí trong giao tiếp, biết đặt vị trí của mình vào vị trí của học sinh và biết tạo ra
điều kiện để học sinh chủ động, thoải mái khi giao tiếp với giáo viên.
- Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp: là khả năng xác định được hứng thú,

nguyện vọng của học sinh để tìm ra đề tài giao tiếp thích hợp nhằm thu hút học sinh
tham gia tích cực. Trong q trình giao tiếp, giáo viên phải biết làm chủ trạng thái xúc
cảm của bản thân và biết sử dụng phương tiện giao tiếp một cách thích hợp với tình
huống giao tiếp nhất định.
Ngồi ra, năng lực giao tiếp của giáo viên còn thể hiện trong sự tiếp xúc với đồng
nghiệp, với phụ huynh học sinh, với các tổ chức xã hội khác...
Việc rèn luyện năng lực giao tiếp không tách rời với việc rèn luyện các phẩm chất
nhân cách. Chỉ có những giáo viên nào nhiệt tình, tơn trọng nhân cách học sinh, ln
quan tâm giúp đỡ học sinh, biết lắng nghe và dân chủ trong giao tiếp với học sinh thì
mới đạt kết quả cao trong hoạt động sư phạm.
1.5.2.3. Năng lực cảm hóa học sinh
Năng lực cảm hóa học sinh là năng lực gây được ảnh hưởng trực tiếp của giáo
viên đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Đó là khả năng làm cho học sinh
nghe, tin và làm theo giáo viên bằng tình cảm, niềm tin.
Biểu hiện năng lực cảm hóa học sinh của người giáo viên:
- Ln có tinh thần trách nhiệm cao, có niềm tin và có kỹ năng truyền đạt niềm tin
đó cho học sinh.
- Ln quan tâm chu đáo và khéo léo ứng xử khi giao tiếp với học sinh, biết tôn
trọng và yêu cầu hợp lý đối với học sinh.
- Là người có nguyên tắc, có ý thức tổ chức kỷ luật nhưng có lịng vị tha...
Để có năng lực này, địi hỏi người giáo viên phải ln phấn đấu và tu dưỡng. Có
nếp sống văn hóa lành mạnh, có phong cách mẫu mực nhằm tạo ra uy tín chân chính
thực sự. Phải biết xây dựng quan hệ thầy trò tốt đẹp, vừa nghiêm túc, vừa thân mật, có
thái độ yêu thương và tin tưởng học sinh, đối xử dân chủ, công bằng và phải gương
mẫu trước học sinh về mọi mặt. Suy cho cùng, sức hút của sự cảm hóa hồn tồn bắt
nguồn và hiện thân từ chính bộ mặt chính trị, đạo đức và tài nghệ sư phạm của người
giáo viên.


1.5.2.4. Năng lực ứng xử sư phạm

Là kỹ năng tìm ra những phương thức tác động đến học sinh một cách hiệu quả
nhất, là sự cân nhắc đúng đắn những nhiệm vụ sư phạm phù hợp với những đặc điểm
và khả năng của cá nhân cũng như tập thể học sinh trong từng tỉnh huống sư phạm. Sự
khéo léo ứng xử sư phạm được xem như là một thành phần quan trọng của tài nghệ sư
phạm ở người giáo viên.
* Biểu hiện năng lực ứng xử sư phạm của người giáo viên
Biết sử dụng các tác động sư phạm một cách nhanh nhạy và có giới hạn (khuyến
khích hay trách phạt, nghiêm khắc hay nhẹ nhàng...)
- Biết phát hiện kịp thời và giải quyết khéo léo những vấn đề xảy ra bất ngờ.
Khơng nóng vội, khơng thơ bạo. Nhanh chóng xác định được vấn đề xảy ra và kịp thời
áp dụng những biện pháp thích hợp.
- Biết biến những tình huống bị động thành chủ động để giải quyết vấn đề một
cách nhanh, hợp lý.
- Phải thường xuyên quan tâm chu đáo đến đặc điểm tâm sinh lý của từng cá nhân
hay tập thể học sinh.
Như vậy, tài ứng xử sư phạm là một bộ phận của nghệ thuật sư phạm. Nếu giáo
viên không khéo léo trong ứng xử sư phạm thì giữa giáo viên và học sinh ln có
khoảng cách và có sự hiểu lầm, có thành kiến, thiếu tin tưởng và tơn trọng lẫn nhau.
Do đó, có thể dẫn đến những hậu quả rất nặng nề trong quan hệ thầy trò.
1.5.2.5. Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm.
Năng lực tổ chức hoạt động sư phạm là năng lực tất yếu cần có để đảm bảo cho
giáo viên tiến hành dạy học và giáo dục đạt kết quả tốt. Trong hoạt động sư phạm
người giáo viên cịn có nhiệm vụ là tổ chức lao động cho học sinh và tập thể học sinh
trong những điều kiện sư phạm khác nhau, giáo viên vừa là hạt nhân gắn kết học sinh
thành một tập thể, vừa là người tuyên truyền, phối hợp các lực lượng giáo dục.
* Biểu hiện năng lực tổ chức hoạt động sư phạm của người giáo viên
- Giáo viên phải biết tổ chức và cổ vũ học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau
trong hoạt động dạy học và giáo dục ở trên lớp cũng như ở ngoài trường.



- Xây dựng tập thể học sinh thành tập thể vững mạnh, đồn kết có ảnh hưởng tốt
đến mọi thành viên trong tập thể.
- Phải biết tổ chức, vận động và phối hợp các lực lượng xã hội tham gia vào công
tác giáo dục theo một mục tiêu xác định.
Để có được các năng lực trên, địi hỏi người giáo viên phải biết vạch kế hoạch
hoạt động một cách khoa học; Biết sử dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức
giáo dục một cách đúng đắn nhằm ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của
học sinh; Biết xác định mức độ và giới hạn của từng biện pháp dạy học và giáo dục
khác nhau. Phải có niềm tin vào sự đúng đắn của kế hoạch và biện pháp giáo dục.
1.5.2.6. Năng lực tham vấn, tư vấn học sinh
Là khả năng chia sẻ, trợ giúp, khơi dậy tiềm năng của học sinh của người giáo
viên để giúp cho các em tin vào bản thân, nâng cao hiểu biết về bản thân, về người
khác, về các sự vật, hiện tượng để có thể giải quyết được vấn đề đang gặp phải.
* Biểu hiện năng lực tham vấn, tư vấn cho học sinh của giáo viên
- Giáo viên phải biết động viên, khuyến khích, hoạch định rõ tiềm năng của học
sinh để các em tin vào bản thân, tự nhận biết mình đang có vấn đề gì và mong muốn
được giúp đỡ và giải quyết vấn đề của mình.
- Phải tổ chức các chương trình hướng dẫn với mục đích cung cấp thơng tin, kinh
nghiệm về các lĩnh vực học tập, giao tiếp ứng xử... Cho các em, giúp các em hiểu biết
đầy đủ về các vấn đề này, có được những quyết định phù hợp.
- Sử dụng linh hoạt các phương tiện có tính chất hướng dẫn và tạo ra động lực
nhóm trong việc thúc đẩy học sinh tham gia các hoạt động qua đó nâng cao sự hiểu
biết bản thân và người khác.
- Tôn trọng quyền tự quyết của học sinh, khơi dậy tiềm năng ở học sinh, giúp học
sinh tự tin vào bản thân, mạnh dạn và chấp nhận cái hiện có.
Để có năng lực này, địi hỏi người giáo viên phải có sự đồng cảm, thấu cảm với
học sinh, phải có kiến thức về tâm lý học sinh, phải nắm được nguyên tắc tôn trong
nhân cách học sinh, phải kiên trì, bền bị để vượt qua những khó khăn trong dạy học,
giáo dục học sinh.
1.5.2.7. Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng xã hội, kỹ năng sống

và giá trị sống.


Là năng lực xây dựng, định hướng và hình thành cho học sinh các kỹ năng xã hội,
kỹ năng sống và giá trị sống. Nhờ vậy, học sinh thích ứng với xã hội, xây dựng các
mối quan hệ tốt với mọi người, với xã hội đồng thời giúp học sinh có sự lựa chọn các
giá trị tốt đẹp cho cuộc sống của bản thân.
*Biểu hiện năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng xã hội, kỹ năng sống
và giá trị sống của giáo viên.
- Nhận diện các hoạt động giáo dục kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và giá trị sống
cho học sinh.
- Nắm vững hệ thống các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, giá trị sống cần hình
thành và giáo dục cho học sinh (khái niệm, đặc điểm, con đường hình thành...)
- Biết xác định mục tiêu giáo dục, biết thiết kế hoạt động giáo dục kỹ năng xã hội,
kỹ năng sống và giá trị sống phù hợp với đặc điểm tâm lý của học sinh, khuyến khích
sự phát triển của học sinh.
- Biết lựa chọn các hoạt động giáo dục, môi trường giáo dục phù hợp, biết xác
định không gian, thời gian và đánh giá sự phát triển các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống
và giá trị sống của học sinh.
Để có năng lực này, giáo viên phải nắm vững mục tiêu giáo dục. Nắm vững các
kiến thức về giáo dục kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, giá trị sống cần hình thành cho
học sinh. Nắm vững các kiến thức về tâm lý học sinh, các phương pháp, cách thức tiếp
cận trong giáo dục kỹ năng xã hội, kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh.
1.5.2.8. Năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm
Mục tiêu hoạt động trải nghiệm nhằm giúp học sinh hình thành các kỹ năng sống
cơ bản, thói quen sinh hoạt tích cực trong cuộc sống hàng ngày, nền nếp học tập ở nhà
cũng như ở trưởng; biết tuân thủ các nội quy, quy định, bắt đầu có định hưởng tự đánh
giá và tự điều chỉnh bản thân; hình thành những hành vi giao tiếp, ứng xử có văn hóa;
có ý thức làm việc nhóm, ý thức tham gia hoạt động lao động, hoạt động xã hội, hoạt
động phục vụ cộng đồng, bước đầu biết cách tổ chức một số hoạt động đơn giản, làm

quen và hình thành hứng thú với một số nghề gần gũi với cuộc sống của học sinh.
* Biểu hiện năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm của giáo viên



×