Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đổi mới dạy học đại học cần những điều kiện nào? Theo anh chị điều kiện nào là quan trọng nhất? Giải thích tại sao? Tiểu luận lý luận dạy học đại học nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.72 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI TIỂU LUẬN/BÀI THI KẾT THÚC CHUYÊN ĐỀ
“LÍ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC”
LỚP NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO GIẢNG VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
Họ và tên:
Ngày/tháng/năm sinh:
Nơi sinh:
Đơn vị công tác (Nếu có):
Số điện thoại:
Địa chỉ email:
CHUYÊN ĐỀ 2
“LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC”
MÃ CHUYÊN ĐỀ: LLDH
Câu 1 (5 điểm). Theo anh/chị tại sao cần đổi mới dạy học đại học? Đổi mới
dạy học đại học cần những điều kiện nào? Theo anh/chị điều kiện nào là quan
trọng nhất? Giải thích tại sao.
Câu 2 (5 điểm). Phân biệt các khái niệm: Quan điểm dạy học, Phương
pháp dạy học, Kĩ thuật dạy học. Mỗi khái niệm cho một ví dụ để làm rõ.
Bài làm
Câu 1
 Tại sao cần đổi mới dạy học đại học?
Đổi mới phương pháp dạy và học ở đại học là một yêu cầu khách quan của thực tế,
đòi hỏi mỗi thầy, cô giáo nhận thức sâu sắc được vai trò và trách nhiệm tích cực tham
gia vào quá trình đổi mới phương pháp dạy ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải thay đổi
cách học cho phù hợp. Đổi mới phương pháp dạy và học để góp phần đào tạo những
con người “vừa hồng, vừa chuyên”, để hội nhập vào q trình tồn cầu hóa và hội


nhập kinh tế quốc tế.

1


Ở nước ta hiện nay, mặc dù chưa có định nghĩa chính thức về giáo dục đại học,
nhưng qua các văn bản khơng chính thức, có thể hiểu giáo dục đại học là hình thức tổ
chức giáo dục cho các bậc học sau giai đoạn bậc phổ thông với các trình độ đào tạo:
gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại học đã xuất hiện ở nước ta cách đây trên cả
nghìn năm. Cho đến nay, lịch sử giáo dục đại học Việt Nam đã trải qua các nền giáo
dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và chủ nghĩa thực dân mới (ở miền Nam Việt
Nam trước năm 1975). Sự nghiệp giáo dục đại học từ sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945 đã trải qua gần 70 năm qua và đạt được những thành tựu to lớn, trong đó quan
trọng nhất là đã góp phần tạo ra các thế hệ nguồn lực con người Việt Nam, nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
hiện nay, nền giáo dục của nước ta ngày càng bộc lộ những bất cập và hạn chế.
Về mục tiêu, trong một thời gian dài, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng ta
chưa chú trọng đúng mức đến việc đặt ra mục tiêu cho nền giáo dục của đất nước,
trong đó có giáo dục đại học. Thời gian gần đây, mục tiêu giáo dục đại học ở nước ta
có sự thay đổi, như việc xác định quan niệm, mục đích của giáo dục đại học là đào tạo
nhân tài (Luật Giáo dục Việt Nam năm 2012). Tuy nhiên, hiểu thế nào là nhân tài thì
cho đến nay vẫn chưa có quan niệm thống nhất. Nếu coi nhân tài là người có sáng
kiến, có khả năng, năng động, có đóng góp quan trọng vào sự phát triển dù trong lĩnh
vực nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực tiễn, nghĩa là nhân tài phải là những người
nổi trội và hiếm trong xã hội thì mục tiêu này khó đạt được đối với chất lượng thực tế
của giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, các trường đại học ở Việt
Nam hiện nay, nhiều lắm cũng mới chỉ đủ khả năng trang bị cho người học (sinh viên,
học viên hay nghiên cứu sinh…) kiến thức cơ bản, trang bị khả năng phân tích độc lập,

dám suy nghĩ và biết suy nghĩ (suy nghĩ có phương pháp - tư duy khoa học). Như vậy,
rõ ràng là ngay cả khi chúng ta đổi mới mục tiêu giáo dục đại học thì mục tiêu này
cũng không phù hợp với khả năng, cũng như chất lượng thực tế của nền giáo dục đại
học trong nước. Trong khi đó, rất nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả các quốc gia
có nền giáo dục đại học tiên tiến khi đặt ra mục tiêu giáo dục, họ đều nêu lên những
mục đích rất thực tế. Một trường đại học danh tiếng ở Mỹ đã xác định mục tiêu của
mình như sau: “Mục đích của môi trường giáo dục và sinh hoạt sinh viên là đào tạo

2


những cá nhân thành đạt và cơng dân có trách nhiệm. Người tốt nghiệp cảm thấy tự tin
trong việc tìm hiểu rộng rãi nhiều vấn đề và kinh nghiệm ở mơi trường đại học hay
ngồi đời, dù là học bất cứ ngành chun mơn nào”. Chữ “thành đạt” có thể hiểu là có
sự hiểu biết về tri thức cơ bản, được sửa soạn kỹ càng để có thể tự tin vào đời và vào
thị trường lao động (kiếm sống cũng như phát triển tri thức). Nhưng mục đích đào tạo
thành những “cơng dân có trách nhiệm” thì được thể hiện rất rõ ràng. Với những mục
tiêu như thế này, hầu hết các trường đại học ở Việt Nam hiện nay ít đặt ra hoặc chưa
thực sự coi trọng, nên cũng là một trong những nguyên nhân góp phần làm giảm chất
lượng sản phẩm (người học) sau đào tạo.
Về nội dung, mặc dù những năm qua đã có nhiều cố gắng đổi mới, cải cách nội
dung giáo dục ở các cấp học theo hướng tiến bộ hơn, song nhìn chung so với một số
nước trong khu vực và trên thế giới, nền giáo dục của nước ta vẫn còn lạc hậu, nhất là
nội dung giáo dục ở bậc đại học. Nhìn tổng thể, phần lớn nội dung và chương trình
giáo dục các cấp hiện nay ở nước ta đều được biên soạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi nội
dung, chương trình giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đặc biệt nền
giáo dục Xô-viết. Trong một thời gian dài, những nội dung và chương trình giáo dục
này khá phù hợp với nền giáo dục của nước ta và đã mang lại những thành tựu hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, nội dung
chương trình giáo dục đại học nước ta đang bộc lộ rất nhiều bất cập và hạn chế:

Một là, nội dung kiến thức đào tạo còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa
tạo được sự thống nhất gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu tìm kiếm việc làm đối với
người học.
Hai là, chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực giáo dục đại học trong
nước và quốc tế. Mặc dù được đặt dưới sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, nhưng trên thực tế, khả năng liên thông kiến thức giữa các cơ sở giáo
dục đại học ở nước ta hiện nay còn rất hạn chế, ít thừa nhận và tiếp nhận các kết quả
đào tạo của nhau, nên người học rất khó khăn khi chuyển trường, ngành học. Việc liên
thông kiến thức giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước và ngoài nước lại càng khó
khăn hơn do có sự khác biệt về mục tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo giữa các cơ
sở giáo dục đại học trong nước và quốc tế (trừ các chương trình liên kết đào tạo theo
thỏa thuận). Điều này khơng những gây khó khăn cho người học khi muốn chuyển đến
cơ sở giáo dục ngoài nước, mà ngay cả việc công nhận văn bằng, chứng chỉ của các cơ

3


sở giáo dục trong nước tại các nước mà người học chuyển đến định cư hoặc công tác
cũng không phải dễ dàng.
Ba là, chương trình học còn nặng với thời lượng lớn. Một thống kê và so sánh cho
thấy, thời gian học 4 năm ở một lớp đại học tại Việt Nam là 2.138 giờ so với Mỹ là
1.380 giờ. Như vậy chương trình học ở Việt Nam dài hơn 60% so với Mỹ. Thời gian
học nhiều như vậy nên người học khó tránh khỏi việc rơi vào trạng thái ln bị áp lực
hồn thành các chương trình mơn học, ít có thời gian để tự học, tự nghiên cứu, hoặc
tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhìn chung, trong bối cảnh hội nhập quốc tế,
chương trình giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay tỏ ra bất cập và kém hiệu quả.
Đây cũng được coi là nguyên nhân cơ bản khiến nền giáo dục đại học ở Việt Nam
đang có xu hướng tụt hậu.
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học đại học, các trường đại học ở nước
ta hiện nay nhìn chung chưa tiếp cận với các phương pháp và hình thức tổ chức dạy

học đại học phổ biến của thế giới. Nhằm mục tiêu “nhấn mạnh đến kỹ năng xử lý vấn
đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến thức đã có sẵn”, việc
áp dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của các trường đại học trên thế
giới thường rất linh hoạt, dựa trên tinh thần đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện
tối đa cho người học có thể tự học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay,
do quan niệm “nền giáo dục cần trang bị cho người học một lượng kiến thức càng
nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng vững chãi khi ra trường” nên vai trò, vị trí
của người học chưa thực sự được quan tâm. Các phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học còn khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực địa của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ
năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như
sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình
và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và
giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu
thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như
phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; sinh
viên học một cách thụ động. Mặc dù, những năm gần đây, theo chủ trương của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng
phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo phương thức tín chỉ, nhưng theo đánh giá
của nhiều chuyên gia, “Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh

4


thần của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa thốt khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ
động của sinh viên còn yếu kém”. Sự đổi mới về phương pháp giảng dạy trong các
trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Các thiết bị
giảng dạy, như máy chiếu, video... chỉ là phương tiện hỗ trợ để nâng cao chất lượng
giảng dạy, điều quan trọng hơn cả là sự nhận thức rằng giáo dục phải mang tính sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến về phương pháp và chương trình
học vẫn chưa được chú trọng.

 Đổi mới dạy học đại học cần những điều kiện nào?
 Về vấn đề dạy học
Dạy học là một khoa học đồng thời là một nghệ thuật. Đây không phải là một định
nghĩa hoạt động dạy học mà còn là một yêu cầu đối với nhiều ngành nghề trong xã hội.
Dạy học là một khoa học, vì vậy đòi hỏi các thầy cơ phải nắm vững những kiến thức
cơ bản nhất của môn học, đặc biệt là dạy các mơn lý luận chính trị, các môn khoa học
xã hội và nhân văn, thầy cô không chỉ truyền lại cho sinh viên những kiến thức khoa
học mà còn là những cảm xúc rung động, những kinh nghiệm sống, những tấm gương
đạo đức… với tất cả sự hấp dẫn, lôi cuốn người học.
Dạy học phải phát huy tính năng động, sáng tạo của mỗi sinh viên. Trong q trình
đổi mới, hiện đại hóa phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực nhận
thức của người học. Giáo dục dạy học là một vấn đề hết sức phức tạp và là một lĩnh
vực quan trọng cấu thành xã hội. Phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm,
trong quá trình dạy học gắn liền với tư tưởng dân chủ hóa trong giáo dục, xóa bỏ tình
trạng áp đặt trong dạy học.
Phải tạo ra cho người học sự tự do, sự năng động và sáng tạo trong học tập. Trong
xã hội, mọi người vẫn thường nói: thầy nào trò nấy, thầy dạy như thế nào thì trò tiếp
thu như thế.
Nếu thầy dạy theo kiểu đọc chép thì trò sẽ học và thi theo kiểu đọc chép. Hậu quả
của việc dạy và học như thế sẽ dẫn đến tai hại là sinh viên khó có khả năng giải quyết
được những vấn đề mới và những tình huống mới đặt ra trong học tập và thực tiễn.
Dạy học bằng cách tạo ra những tình huống lơi cuốn sự chú ý của người học, buộc
người học phải suy nghĩ độc lập, có những nhận xét, phê phán, đánh giá, …là tạo cơ
hội cho người học được giải quyết vấn đề, rút ra những bài học bổ ích nhằm hình
thành tính năng động một cách tự nhiên. Trong q trình dạy học cần chú trọng động

5


viên, khích lệ, gợi mở, tạo mọi điều kiện giúp cho sinh viên phát huy tính tích cực, chủ

động học tập, hoạt động dã ngoại, vui chơi giải trí. . .
Yêu cầu về phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng tích cực hóa q trình dạy
học đòi hỏi người thầy phải nghiên cứu, tìm tòi, cải tiến và vận dụng các hình thức và
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên trong học
tập.
Vì vậy, phương pháp dạy học mới, hiện đại, chính là quá trình chuyển từ việc dạy học
truyền thống lạc hậu, dạy theo kiểu áp đặt một chiều sang việc dạy học chủ yếu là tổ
chức, hướng dẫn quá trình khám phá, tự tìm tòi kiến thức của sinh viên để họ trở thành
những con người năng động, sáng tạo, tư duy độc lập, tự chủ, đáp ứng nhu cầu cuộc
sống hiện nay. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh yêu cầu của nền Giáo
dục Đào tạo nước ta là phải gắng sức phấn đấu theo kịp với trình độ và chất lượng của
các nước văn minh, tiên tiến: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng,
phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chun mơn nhằm thiết thực giải quyết
các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những
đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”. Để có thể làm tròn trách nhiệm của mình là người
hướng dẫn, cung cấp thơng tin, cố vấn, giúp đỡ sinh viên người thầy phải hiểu biết sâu
sắc những kiến thức cơ bản của các mơn khoa học mà mình dạy, phải có sự đầu tư chất
xám nhiều hơn, bồi dưỡng và cập nhật những vấn đề lý luận và thực tiễn đang diễn ra
trong nước và quốc tế, tìm ra các phương pháp tổ chức lớp học thích hợp, phương
pháp dạy học hiệu quả phù hợp với từng đối tượng.
 Đổi mới cách học
Đổi mới cách dạy còn phải đi đôi với đổi mới cách học. Nghị quyết Trung ương
2 khóa VIII của Đảng ta đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học”. Đổi
mới phương pháp giảng dạy của người thầy chỉ có thể mang lại hiệu quả nếu dựa trên
cơ sở đổi mới phương pháp học tập của sinh viên. Bởi vì tự học là xương sống của quá
trình đào tạo vì nó định hình cho một phong cách học tập mà ở đó sinh viên có được
những ưu điểm sau:
- Sinh viên biết nỗ lực, vượt khó, lấy sức mình để thúc đẩy, tìm tòi trong học
tập.


6


- Sinh viên hình thành thói quen tự học, sẽ giúp họ trở thành chính mình, khơng
là bản sao hay bóng mờ của người khác.
- Sinh viên tự học là con đường có thể tự hồn thiện mình.
- Sinh viên đọc giáo trình, tài liệu trước khi nghe giảng giúp họ phát hiện những
luận điểm, những điểm quan trọng trong tài liệu cần chú ý.
- Sinh viên nêu câu hỏi thắc mắc, tranh luận để hiểu sâu hơn về những vấn đề lý
luận và thực tiễn đặt ra.
- Giúp sinh viên có thói quen phân tích, đối chiếu, so sánh theo vấn đề, theo
thời gian, khơng gian và những tình huống cần phải giải quyết.
- Sinh viên có thể phát hiện được những vấn đề lý luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện nay cần được vận dụng như thế nào.
- Sinh viên được sinh hoạt, học tập nhóm, thảo luận, tham gia hội thảo, làm đề
cương nghiên cứu một vấn đề nào đó. . . Đây là một hình thức tập dượt để sinh viên có
thói quen nghiên cứu khoa học.
Sinh viên tự bản thân họ phải có ý thức học tập thật tốt để phát huy tri thức
khoa học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và nhân cách của một
chuyên gia tương lai để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sinh
viên là chủ thể của quá trình học. Vì vậy, sinh viên muốn biến đổi mình, phải năng
động, phải “tự thân vận động”, phải đổi mới cách học của mình thì mới góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo.
 Về giáo trình, tài liệu học tập cho sinh viên
Hầu hết các trường đại học hiện nay đang chuyển từ hình thức đào tạo niên chế
sang đào tạo học chế tín chỉ. Đây là một hình thức đào tạo được hầu hết các nước tiên
tiến trên thế giới áp dụng. Học chế tín chỉ tạo điều kiện và bắt buộc sinh viên phải chủ
động trong việc học tập. Vì vậy giáo trình và tài liệu học tập của các mơn học là hết
sức cần thiết để giúp cho sinh viên có thể tự học đạt kết quả tốt.

Giảng viên cần mạnh dạn, đầu tư thời gian, tâm huyết viết tài liệu tham khảo
cho sinh viên, tài liệu phải hấp dẫn về nội dung, phong phú về hình thức nhằm lơi cuốn
sinh viên tích cực tìm tòi, nghiên cứu.

7


 Về đổi mới cách kiểm tra, đánh giá đối với sinh viên
Khi mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp dạy học đã thay đổi thì
khơng thể khơng thay đổi cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đối với sinh viên.
Gần đây, việc ra đề theo lối trắc nghiệm khách quan đã và đang trở thành xu thế
chung trong quy trình kiểm tra, đánh giá của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Với phương pháp kiểm tra, đánh giá theo hình thức trắc nghiệm khách quan đã
tỏ rõ ưu thế đối với không ít môn học, nhất là các môn khoa học tự nhiên và ngoại
ngữ. Ưu điểm của nó là mở rộng tồn diện hơn về kiến thức, đảm bảo tính khách quan,
công bằng hơn, tiết kiệm được thời gian do tận dụng được sự hỗ trợ của những phương
tiện kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên, hình thức kiểm tra, đánh giá này cũng có những hạn
chế nhất định đối với một số môn học về Khoa học Xã hội và Nhân văn. Khoa học
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới cách ra đề truyền thống là một yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng
dạy học, hỗ trợ tích cực việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường đại học. Việc dạy
học và cách đánh giá theo đó phải hướng tới đáp ứng và thích nghi với người học, chứ
không phải bắt buộc người học tuân theo những quy định sẵn có từ trước.
Trong q trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần được tiến
hành bằng nhiều hình thức. Chẳng hạn đánh giá q trình học tập, thi, kết thúc mơn
học bằng những hình thức đa dạng có thể kết hợp trắc nghiệm khách quan với đề tự
luận theo hướng phân hóa đối tượng. Đề tự luận dùng đề đóng kiểm tra được kiến thức
cơ bản của sinh viên, còn đề tự luận dạng đề mở để kiểm tra khả năng vận dụng, năng
lực chủ động, sáng tạo đối với từng sinh viên.
Có thể nói, việc ra đề thi giữ vị trí rất quan trọng trong việc kiểm tra, đánh giá

kết quả học tập của sinh viên, đúng như Giáo sư Phan Trọng Luân có viết: “. . . đề thi
là lực nắn cách dạy, cách học. Đề thi là cái kích cho cỗ máy giáo dục. Ra đề thi sáng
tạo thì tự nhiên sẽ diệt trừ tận gốc mọi phao thi, mọi trò luyện thi. Trong nhà trường sẽ
học sáng tạo, dạy thông minh. Thực học sẽ được phục hưng, hư học sẽ bị đẩy lùi. . .”
 Về đội ngũ giảng viên
Các trường đại học và cao đẳng ở nước ta cần xây dựng cho mình một đội ngũ
giảng viên đầu đàn, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp thông tin, tư
liệu hàng năm cho giảng viên là hết sức cần thiết. Từng giảng viên cần khắc phục tình
trạng dạy q nhiều giờ, ít nghiên cứa khoa học, không cập nhật được thông tin, kiến

8


thức mới để nâng cao trình độ và đáp ứng yêu cầu đổi mới về phương pháp giảng dạy
hiện nay.
Bàn về vai trò của người thầy và phương pháp giảng dạy, một nhà Triết học
phương Tây cho rằng: trong gia đình dạy được người chồng chỉ được một người, dạy
được một người vợ sẽ được cả một gia đình, dạy được một người thầy sẽ được cả một
thế hệ. Do đó chúng ta cần thiết phải chăm lo xây dựng đổi mới người thầy đủ về số
lượng, tốt về chất lượng, có như vậy mới đạt được hiệu quả, chất lượng đào tạo tốt
hơn. Người thầy phải có phẩm chất tốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở:” Giáo viên
phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chun mơn, đức là chính trị. Muốn cho học
sinh có đức thì giáo viên phải có đức...cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu,
nhất là đối với trẻ con”
 Theo anh/chị điều kiện nào là quan trọng nhất? Giải thích tại sao.
Trước bối cảnh của thời đại cách mạng khoa học và cơng nghệ phát triển như vũ
bão, tồn cầu hóa có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực đang đặt ra cho hệ thống giáo
dục ở Việt Nam những thách thức khơng nhỏ. Vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy
và học trong các trường đại học và cao đẳng ở nước ta hiện nay là một đòi hỏi khách
quan đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, điều

kiện về vấn đề dạy học là quan trọng nhất, việc đổi mới phương pháp dạy học lấy
sinh viên làm trung tâm không phải là phương pháp dạy học cụ thể mà đó là một tư
tưởng.quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy học chi phối tất cả quá
trình dạy học về mục tiêu, quan điểm, phương pháp, cách tổ chức, phương tiện dạy và
học, đánh giá kết quả học tập...Có như vậy việc đổi mới phương pháp dạy và học ở đại
học mới tạo ra được sản phẩm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho xã
hội.

9


Câu 2
 Quan điểm dạy học
Là những định hướng tổng thể cho các hành động phương pháp, trong đó có sự kết
hợp giữa nguyên tắc dạy học làm nền tảng, những cơ sở lý thuyết của lý luận dạy học
đại cương hay chuyên ngành, những điều kiện dạy học và tổ chức cũng như những
định hướng mang tính chiến lược dài hạn, có tính cương lĩnh, là mơ hình lý thuyết của
PPDH. Tuy nhiên các quan điểm dạy học chưa đưa ra những mơ hình hành động cũng
như những hình thức xã hội cụ thể của phương pháp.
Ví dụ:
Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm
Trước hết cần phải nhận thức trong ba thành tố cơ bản của hoạt động dạy học là
người dạy - người học - mơi trường (điều kiện dạy học) có mối quan hệ biện chứng,
tương tác với nhau, tạo nên thế kiềng 3 chân vững chắc. Vì thế, khơng thể coi thành tố
nào là chính, thành tố nào là phụ, bởi chúng phải cùng tồn tại gắn bó mật thiết, tác
động tương hỗ, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Quan niệm dạy học lấy người học làm trung tâm là một tư tưởng, một quan
điểm dạy học chi phối cả mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và đánh
giá hiệu quả dạy học. Việc xác định người học làm trung tâm ở đây phải được hiểu là
dạy học hướng vào người học, tập trung mọi điều kiện tốt nhất cho người học được

học, phát triển. Do vậy, mọi nỗ lực của người dạy là vì người học, cho người học, việc
chuyển bị điều kiện dạy học (môi trường) tốt nhất cũng cho người học có điều kiện
nhận thức tốt nhất có thể.
Quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm không những không hạ thấp
vai trò của người dạy mà trái lại đòi hỏi người dạy phải có trình độ cao hơn nhiều về
phẩm chất và năng lực nghề nghiệp. S.Rassekh (1987) viết: “Với sự tham gia tích cực
của người học vào quá trình học tập tự lực, với sự đề cao trí sáng tạo của mỗi người
học thì sẽ khó mà duy trì mối quan hệ đơn phương và độc đoán giữa thầy và trò.
Quyền lực của giáo viên không còn dựa trên sự thụ động và dốt nát của học sinh mà
dựa trên năng lực của giáo viên góp phần vào sự phát triển tột đỉnh của các em… Một
giáo viên sáng tạo là một người biết giúp đỡ học sinh tiến bộ nhanh chóng trên con
đường tự học. Giáo viên phải là người hướng dẫn, người cố vấn hơn là chỉ đóng vai trò
cơng cụ truyền đạt tri thức”.

10


Hình thức dạy học giúp cho người học chủ động chiếm lĩnh tri thức, phát triển
tư duy nhận thức cho người học, phát huy mạnh mẽ tính tích cực trong học tập. Để
việc dạy học lấy người học làm trung tâm này thật sự phát huy tác dụng khi có những
điều kiện giáo dục nhất định như: ý thức tự giác học tập của học sinh cao, cơ sở vật
chất phục vụ dạy học đầy đủ và phù hợp, giáo viên có năng lực khơi gợi tạo tình
huống, mơi trường giáo dục xã hội thuận lợi, nguồn tài liệu,...
Dạy học lấy người học làm trung tâm có nghĩa là việc học hoàn toàn do người học
quyết định và người học có thể đưa ra sự chọn lựa về việc học cái gì, học như thế nào
và học khi nào ngay từ lúc họ bắt đầu sắp xếp việc học của mình có sự hỗ trợ, hướng
dẫn của người dạy.
Bốn đặc trưng cơ bản của dạy học lấy người học làm trung tâm là:
- Người học - chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách
tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình.

- Người học tự thể hiện mình và hợp tác với các bạn, học bạn.
- Người dạy là thầy học - chuyên gia về học và tự học, là người tổ chức và hướng
dẫn quá trình dạy - tự học, quá trình kết hợp cá nhân hố với xã hội hố việc học của
người học.
- Người học tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh hoạt động nhận thức.
 Phương pháp dạy học
Tính đến thời điểm hiện tại, hồn tồn chưa có một định nghĩa thống nhất về
phương pháp dạy học là gì. Một số quan niệm định nghĩa rằng “Phương pháp dạy học
chính là cách thức làm việc giữa người dạy và người học, thơng qua đó giúp người học
có thể nắm vững đầy đủ các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo nhằm hình thành nên năng
lực và thế giới quan”.
Khái niệm PPDH ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là các PPDH, các mơ hình
hành động cụ thể. PPDH cụ thể là những cách thức hành động của giáo viên và học
sinh nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định, phù hợp với những nội dung và
điều kiện dạy học cụ thể. PPDH cụ thể bao gồm những phương pháp chung cho nhiều
môn và các phương pháp đặc thù bộ môn. Bên cạnh các phương pháp truyền thống
quen thuộc như thuyết trình, đàm thoại, trực quan, làm mẫu, có thể kể một số phương

11


pháp khác như: phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp học tập theo tra cứu,
phương pháp dạy học dự án…
Ví dụ:
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Bản chất: Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu
chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong
cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề. Đơi khi nghiên
cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng catset mà
khơng phải trên văn bản viết.

Quy trình thực hiện:
- Học sinh đọc (hoặc xem, hoặc nghe) về trường hợp điển hình
- Suy nghĩ về nó (có thể viết một vài suy nghĩ trước khi thảo luận điều đó với người
khác).
- Thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi hướng dẫn của GV.
Một số lưu ý
- Vì trường hợp điển hình được nêu lên nhằm phản ánh tính đa dạng của cuộc sống
thực, nên nó phải tương đối phức tạp, với các tuyến nhân vật và những tình huống
khác nhau chứ khơng phải là một câu chuyện đơn giản.
- Trường hợp điển hình có thể dài hay ngắn, tuỳ từng nội dung vấn đề song phải phù
hợp với chủ đề bài học, phù hợp với trình độ HS và thời lượng cho phép.
- Tùy từng trường hợp, có thể tổ chức cho cả lớp cùng nghiên cứu một trường hợp điển
hình hoặc phân cơng mỗi nhóm nghiên cứu một trường hợp khác nhau.
 Kỹ thuật dạy học
Là những động tác, cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong các tình
huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các KTDH
chưa phải là các PPDH độc lập. Bên cạnh các KTDH thường dùng, có thể kể đến một
số KTDH phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như: Kỹ thuật công não, kỹ
thuật thông tin phản hồi, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật tia chớp…
Ví dụ:
Kỹ thuật "
bể cá"

12


Khái niệm: là một kỹ thuật dùng cho thảo luận nhóm, trong đó một nhóm HS
ngồi giữa lớp và thảo luận với nhau, còn những HS khác trong lớp ngồi xung quanh ở
vòng ngồi theo dõi cuộc thảo luận đó và sau khi kết thúc cuộc thảo luận thì đưa ra
những nhận xét về cách ứng xử của những HS thảo luận.

Trong nhóm thảo luận có thể có một vị trí khơng có người ngồi. HS tham gia
nhóm quan sát có thể ngồi vào chỗ đó và đóng góp ý kiến vào cuộc thảo luận, ví dụ
đưa ra một câu hỏi đối với nhóm thảo luận hoặc phát biểu ý kiến khi cuộc thảo luận bị
chững lại trong nhóm. Cách luyện tập này được gọi là phương pháp thảo luận “bể cá”,
vì những người ngồi vòng ngồi có thể quan sát những người thảo luận, tương tự như
xem những con cá trong một bể cá cảnh. Trong quá trình thảo luận, những người quan
sát và những người thảo luận sẽ thay đổi vai trò với nhau.
Bảng câu hỏi dành cho những người quan sát
-

Người nói có nhìn vào những người đang nói với mình khơng?

-

Họ có nói một cách dễ hiểu khơng?

-

Họ có để những người khác nói hay khơng?

-

Họ có đưa ra được những luận điểm đáng thuyết phục hay khơng?

-

Họ có đề cập đến luận điểm của người nói trước mình khơng?

-


Họ có lệch hướng khỏi đề tài hay khơng?

-

Họ có tơn trọng những quan điểm khác hay không?

13



×