Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Phân tích hàng hóa sức lao động của C.Mác? Liên hệ vấn đề này với thị trường lao động ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.06 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC

*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích hàng hóa sức lao động của C.Mác?
Liên hệ vấn đề này với thị trường lao động ở nước ta hiện nay?”

( ĐỀ 5 )

Sinh viên thực hiện: Trần Cơng Chính
Mã sinh viên: 72DCHT20064
Lớp: 72DCHT22
Khóa: 72DHCQ
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thu Trà

HÀ NỘI – 2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
NỘI DUNG ......................................................................................................... 2
PHẦN I: LÝ LUẬN HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC ........... 2
1.1.Sức lao động là gì?................................................................................... 2
1.2.Điều kiện để sức lao động thành hàng hóa ........................................... 2
3.Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động .............................................. 3
PHẦN II: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀO
THỰC TIỄN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NƯỚC TA HIỆN NAY ............. 7


2.1.Vai trò của việc vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thực
tiễn thị trường lao động nước ta hiện nay ................................................. 7
2.2.Thực trạng nguồn lao động nước ta hiện nay ...................................... 8
2.3.Một số giải pháp cải thiện chất lượng nguồn lao động hiện nay ...... 10
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 14


LỜI MỞ ĐẦU

Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác đã có những luận điểm khoa học,
tồn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, tạo tiền đề vững chắc cho việc lý giải và
áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp nhằm ổn định và phát triển thị trường
của loại hàng hoá đặc biệt này. Ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới
sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề thị trường hàng hoá sức lao động là một vấn đề cấp
thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Cụ thể hơn đó là hàng hóa sức lao
động với nguồn nhân lực trẻ ngày càng được cải thiện về chất lượng thì việc sử
dụng có hiệu quả nguồn lực quan trọng này trong công cuộc xây dựng kinh tế đất
nước là việc vô cùng quan trọng. Đặc biệt, đối với một đất nước đang trong thời
kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố và tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề
này lại càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Chính vì thế, sau một thời gian học tập mơn Kinh tế chính trị Mác-Lênin tại
trường, và tìm hiểu thêm các giáo trình, trong bài tiểu luận này em xin trình bày
đề tài : “ Phân tích hàng hóa sức lao động của C.Mác? Liên hệ vấn đề này với
thị trường lao động ở nước ta hiện nay? ”. Với việc lựa chọn đề tài này, em
muốn trình bày về những vấn đề cơ bản như: Sức lao động là gì? Điều kiện đề sức
lao động trở thành hàng hóa? Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động? Qua đó,
vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thực tiễn thị trường lao động ở nước
ta hiện nay.
Mặc dù đã cố gắng và nghiêm túc trong quá trình thực hiện. Song, bản tiểu

luận khơng tránh khỏi những khuyết điểm và hạn chế. Kính mong nhận được sự
quan tâm, góp ý chân thành từ q thầy cơ.
Em xin chân thành cảm ơn !

1


NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG CỦA C.MÁC
1.1. Sức lao động là gì?
Theo C.Mác: “Sức lao động, đó là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân
thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà
con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.”. Sức lao động
là cái có trước cịn lao động là q trình vận dụng sức lao động.Trong bất cứ xã
hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không
phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa.
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất.
Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hố. Sức
lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định
sau:
Thứ nhất, người lao động là người tự do về thân thể của mình, có khả năng
chi phối sức lao động ấy và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng
hóa.
Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất, để
tồn tại buộc anh ta phải bán sức lao động của mình để sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động trở thành
hàng hóa. Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến
thành tư bản. Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thơng hàng hóa và lưu
thơng tiền tệ phải phát triển đến một mức độ nhất định.

Trong các hình thái xã hội trước chủ nghĩa tư bản chỉ có sản phẩm của lao
động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ
nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ (sản xuất nhỏ, phường hội,
phong kiến) bị phá vỡ, thì mới xuất hiện những điều kiện để cho sức lao động trở
thành hàng hóa, chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động làm cho sản xuất
2


hàng hóa có tính chất phổ biến và đã báo hiệu cho sự ra đời của một thời đại mới
trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.
1.3. Các thuộc tính hàng hóa sức lao động
Là một hàng hoá được mua bán trên thị trường, cho nên hàng hóa sức lao
động cũng có giá trị và giá trị sử dụng như những hàng hóa thơng thường khác.
Tuy nhiên, là một hàng hố đặc biệt, hàng hóa sức lao động có tính chất khác xa
so với những hàng hóa thơng thường khác.
Về giá trị hàng hóa sức lao động:
Giá trị sức lao động được quyết định bởi lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động là khả năng lao động, nên số
thời gian lao động cần thiết kết tinh trong nó chính là do giá trị của những tư liệu
sinh hoạt mà người có sức lao động ấy đã tiêu dùng tạo thành.
Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất
ra năng lực đó, người cơng nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất
định để mặc, ở, học nghề... Ngoài ra người lao động cịn phải thoả mãn những nhu
cầu của gia đình và con cái anh nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được
sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục.
Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ
được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt ni sống bản thân người cơng nhân và gia đình anh ta; hay nói cách
khác, giá trị hàng hố sức lao động được đo gián tiếp rằng giá trị của những tư
liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Là hàng hoá đặc biệt, giá

trị hàng hố sức lao động khác với hàng hố thơng thường ở chỗ nó cịn bao hàm
cả yếu tố tinh thần và lịch sử.
Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người cơng nhân cịn có
những nhu cầu về tinh thần, văn hoá..

3


Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của
mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó cịn phụ thuộc cả vào điểu kiện địa lý, khí
hậu của nước đó.
Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một nước
nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mơ những tư liệu sinh hoạt cần
thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được
lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người cơng nhân;
Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái
và gia đình người cơng nhân.
Giá trị của mọi hàng hóa khác có xu hướng càng giảm càng tốt, nhưng giá trị
của hàng hố sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó, đó chính là “giá trị
của cái khối lượng hàng hóa mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, tức
con người, sẽ khơng thể khơi phục lại q trình sống của mình, tức là tạo thành
giá trị của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý”. Vượt
mức giới hạn này, người lao động sẽ có cuộc sống thấp và việc sử dụng sức lao
động của người này sẽ bị ảnh hưởng và giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động
khó phát huy tốt được. Cũng như các hàng hóa khác, người mua hàng hố tuy phải
thực hiện giá trị, nhưng mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hố đó. Nhà
tư bản cũng vậy, họ bỏ tiền ra mua sức lao động chỉ vì hàng hóa này có giá trị sử

dụng rất đặc biệt, thoả mãn sự thèm khát của nhà tư bản và duy trì quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
Về giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:
Trên thị trường, người công nhân và nhà tư bản thoả thuận với nhau về giá cả
sức lao động cũng như những điều kiện của lao động. Bước ra ngoài thị trường
sức lao động, hay khỏi q trình lưu thơng thì sức lao động đã hồn tồn là của
4


nhà tư bản. Lúc này mới chính là lúc giá trị sử dụng của sức lao động biểu hiện.
C.Mác đã viết: "Giá trị của nó cũng như giá trị của bất cứ hàng hoá nào khác, đã
được quyết định trước khi nó đi vào lưu thơng..., nhưng giá trị sử dụng của sức
lao động thì chỉ bao hàm ở những biểu hiện sau này của sức đó mà thơi".
Giá trị sử dụng của sức lao động là tính có ích của sức lao động thoả mãn
nhu cầu sản xuất của nhà tư bản. Nhà tư bản cần có sức lao động của người công
nhân kết hợp với tư liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra các
hàng hóa. Chính vì vậy, mà tính có ích của sức lao động chỉ được thể hiện ra trong
quá trình sản xuất. Người lao động bán sức lao động bằng cách lao động sản xuất
theo yêu cầu của người mua. Người mua tiêu dùng sức lao động là nhằm sử dụng
tính có ích của sức lao động. Đặc tính có ích của sức lao động khơng chỉ là năng
lực tạo ra các giá trị sử dụng mà "cái có ý nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc
biệt của thứ hàng hóa đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh ra giá trị, hơn
nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó. Đó là sự phục vụ
đặc biệt mà nhà tư bản mong chờ ở nó”. Điều này cũng có nghĩa là giá trị của sức
lao động và giá trị được tạo ra trong quá trình sử dụng sức lao động là hai đại
lượng khác nhau. Chính nhà tư bản đã nhằm vào sự chênh lệch và giá trị đó khi
mua sức lao động, và do đó mới chính là tính có ích thật sự của sức lao động đối
với nhà tư bản. Bên cạnh đó, quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hố sức động
khác với q trình tiêu dùng hàng hố thơng thường ở chỗ:
Đối với các hàng hóa thơng thường, sau q trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả

giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.
Đối với hàng hố sức lao động, q trình tiêu dùng chính là q trình sản xuất
ra một loại hàng hố nào đó, đồng thời là q trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn
giá của bản thân hàng hố sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư
mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
có chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khố để giải thích mâu thuẫn

5


của cơng thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của
hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.
Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, nó mang yếu tố tinh thần và
lịch sử. Hơn thế nữa, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có một tính năng
đặc biệt đó là trong khi sử dụng nó, khơng những giá trị của nó được bảo tồn mà
cịn tạo ra được lượng giá trị lớn hơn.

6


PHẦN II: VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG VÀO
THỰC TIỄN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1.Vai trị của việc vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động vào thực tiễn thị
trường lao động nước ta hiện nay
Việc vận dụng hàng hoá sức lao động có vai trị rất quan trọng trong việc xây
dựng thị trường lao động ở Việt Nam. Khi nước ta thực hiện q trình chuyển đổi
nền kinh tế kế hoạch hố tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạt động của nền
kinh tế đã có sự khởi sắc và làm nẩy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi sự lý giải và hướng

dẫn của lý luận cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Một trong những vấn đề đó là
vấn đề thị trường sức lao động.
Trước đây, mặc dù trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cho phép,
nhưng do nơn nóng muốn khắc phục ngay sự tha hoá lao động, Đảng ta đã coi sức
lao động khơng phải là hàng hố và khơng hề quan tâm đến vai trị của thị trường
sức lao động trong nền kinh tế. Điều này đã làm cho hiệu quả sử dụng lực lượng
lao động trong nền kinh tế không cao và trở thành một trong những nhân tố quan
trọng đưa dần nền sản xuất xã hội rơi vào khủng hoảng. Nhận ra sai lầm, Đảng ta
đã chủ trương đổi mới và thực hiện nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trên cơ sở đó, Đảng
ta đã ngày càng coi trọng sự phát triển của kinh tế thị trường. Trong xu hướng
phát triển nền kinh tế thị trường, mọi yếu tố liên quan đến q trình sản xuất và
lưu thơng hàng hố đều có thể trở thành hàng hố và có thị trường riêng của mình.
Một bộ phận sức lao động đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt và thị trường
sức lao động cũng đang trong quá trình hình thành, phát triển.
Hàng hoá sức lao động đã xuất hiện trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ
nghĩa và đã được C. Mác nghiên cứu, xây dựng thành lý luận hàng hóa sức lao
động. Với lý luận này C.Mác đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất hàng hoá Tư
bản chủ nghĩa và khám phá ra quy luật chi phối sự vận động và phát triển của xã
hội tư bản chủ nghĩa Việt Nam chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
7


định hướng Xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế này có sự khác biệt về chất với nền kinh
tế thị trường Tư bản chủ nghĩa.
Yếu tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hoá Tư bản chủ nghĩa với sản xuất
hàng hoá theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là khả năng phát huy vai trò tạo ra
giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động. Đây là vấn đề then
chốt trong việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác để có thể xây
dựng một quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ

nghĩa tốt đẹp hơn quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao
động là một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa
giúp kích thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích
cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
2.2.Thực trạng nguồn lao động nước ta hiện nay
Hiện nay, nước ta khi mới bước vào những năm đầu tiên của thời kỳ mớithời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nguồn lao động nước
ta cần mang những sắc thái đặc thù, gắn chặt với trình độ phát triển của quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.
Về ưu điểm nguồn lao động, nước ta có nguồn lao động dào dồi, trình độ học
vấn tương đối cao, đáp ứng được các nhu cầu của thị trường trong cũng như ngoài
nước. Người lao động có trình độ chun mơn khoa học kĩ thuật được nâng cao,
cần cù, siêng năng và sáng tạo,…. Chất lượng lao động ngày càng tăng lên tỉ lệ
thất nghiệp và thiếu việc làm ngày càng giảm xuống, cơ cấu lao động có sự chuyển
biến tích cực.
Bên cạnh đó, tuổi trẻ chính là lợi thế của nguồn lao động tại Việt Nam, nhất
là khi Việt Nam đang trong giai đoạn "dân số vàng" với đội ngũ lao động đơng
đảo, có khả năng học tập rất tốt, đã và đang trải qua rất nhiều chương trình đào
tạo cơ bản, với khả năng chuyên môn tốt, với tư duy nhanh nhạy, tư duy chịu khó
và chịu khổ. Với chương trình giáo dục 12 năm học có áp lực cực kỳ lớn, đó chính

8


là động lực để đội ngũ nhân sự trẻ tại Việt Nam với đầy đủ tư duy, tiềm lực rất
lớn để phát triển trong thị trường thế giới.
Về hạn chế nguồn lao động, nước ta có nguồn lao động khá đơng đảo nhưng
có sự phân bố khơng đồng đều giữa thành thị và nông thôn; giữa đồng bằng, ven
biển và miền núi; không đồng đều giữa cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
Hiện nay ở Việt Nam cung về sức lao động đang vượt quá cầu và sẽ cịn tiếp tục

vượt trong tương lai, điều đó tạo ra một áp lực rất lớn về việc làm cho dân cư. Đó
là hậu quả của việc bùng nổ dân số trong những năm vừa qua. Đây là những bất
cập ngày càng lớn giữa quy mô chung và cấu trúc “cung-cầu” sức lao động trên
thị trường lao động. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của nước ta hiện nay còn khá
thấp. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo
nhóm, khơng có khả nặng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và
chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Hơn thế, ý thức kỷ luật tác phong nghề nghiệp của người lao động còn rất
yếu, thể hiện ở lối sống vô tổ chức, vô kỷ luật, làm việc tùy tiện, thiếu sự hợp tác
giữa các thành viên với nhau... Tình trạng thừa thấy thiếu thợ do kết quả của việc
quá tập trung vào lý thuyết nhưng không đi vào thực hành chuyên sâu. Mức lương
trung bình của người lao động cịn thấp so với mức thu nhập trung bình của lao
động xã hội, chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện để người lao động phát huy hết khả
năng của mình.
Ngồi ra, kỹ năng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh của phần lớn cơng nhân
Việt Nam cịn rất kém dẫn đến việc thất bại trong việc thâm nhập thị trường nước
ngồi với mức lương cao.
Vậy ngun nhân gì đã dẫn tới những hạn chế của nguồn lao động Việt Nam?
Thứ nhất, nạn thất nghiệp đang là một vấn đề đáng nhắc tới tại Việt nam, giải
thích về vấn đề này có rất nhiều nguyên nhân. Đặc biệt, do suy giảm nền kinh tế
toàn cầu là nguyên nhân chủ yếu , sự suy giảm kinh tế tồn cầu khiến cho nhiều
xí nghiệp nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng cửa do sản phẩm
làm ra khơng tiêu thụ được. Chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu còn
9


thấp không sánh kịp với các sản phẩm chất lượng cao của các quốc gia có trình
độ phát triển cao. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cắt giảm nguồn lao
động dẫn đến lao động mất việc làm từ có khơng có được nguồn lao động chất
lượng.

Thứ hai, đội ngũ nguồn lao động có chất lượng cao vẫn hạn chế và khó có thể
đáp ứng được với khối lượng cơng việc đang có hiện nay đó là bởi người lao động
dần trở nên mất kiên nhẫn, coi nhẹ giá trị sản phẩm và dịch vụ khi làm việc. Khả
năng học hỏi chưa thực sự tốt với tư duy khá bảo thủ với một số vị trí nhất định.
Tư tưởng ‘lười làm chăm chơi’ thấm nhuần do cuộc sống hiện đại phát triển q
nhanh. Gia đình có điều kiện, khiến nhóm nhân sự trẻ mới tốt nghiệp có tư tưởng
ỉ lại, chây ỳ và không muốn tiến bộ. Mất định hướng công việc, bị tụt hậu so với
thị trường do không biết điểm mạnh, điểm yếu và bản thân nên làm gì tiếp theo.
Thứ ba, tiền lương chưa phản ánh đúng giá cả sức lao động, chưa thực sự gắn
với mối quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường, tốc độ tăng tiền lương nhỏ
hơn tốc độ tăng của năng suất lao động. Còn trong các doanh nghiệp nhà nước,
cơ chế phân phối tiền lương chưa thực sự theo ngun tắc thị trường, cịn mang
nặng tính bình qn. Mức độ chênh lệch về tiền lương, thu nhập giữa các loại lao
động khơng lớn, chưa khuyến khích người có trình độ chun mơn cao vào khu
vực nhà nước. Các doanh nghiệp ngồi nhà nước có tình trạng ép mức tiền công
của người lao động, không thực hiện đúng công tác bảo hiểm xã hội… Mức lương
tối thiểu còn thấp chưa theo kịp với yêu cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức
lao động và sự phát triển kinh tế – xã hội.
2.3. Một số giải pháp cải thiện chất lượng nguồn lao động Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, tơn trọng nhân cách, phát huy vai trị làm chủ, năng động sáng tạo,
tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Nhân cách của người lao
động được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và
cộng đồng trách nhiệm trong mọi cơng việc được giao. Do đó, tơn trọng nhân cách
10


là làm cho những tố chất đó khơng hề bị vi phạm, ngược lại, nó được phát huy
một cách mạnh mẽ trong lao động sản xuất, khiến cho người lao động toàn tâm,
toàn ý, đem hết tài năng, sức lực của mình để đóng góp cho xã hội, cho doanh
nghiệp lập mối quan hệ lao động thân thiện giữa người sử dụng lao động vì lợi

ích chung.
Thứ hai, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề về mọi mặt của người
lao động, tạo cho họ những khả năng lao động tự giác và sáng tạo đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, đào tạo
cũng nên chú trọng đào tạo tốt người lao động về kỹ năng ngoại ngữ để dễ dàng
thâm nhập vào các thị trường nước ngoài. Tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng tại
trường, tại chức và nhiều hình thức phương pháp khác để nâng cao tay nghề, mở
rộng đào tạo nghề: bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học công nghệ, kinh
doanh, về quản lí kinh tế - xã hội... Đi đơi với đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ thuật cho người lao động, cần quan tâm giáo dục phẩm chất đạo
đức, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cho dù người lao động đó làm việc trong bất cứ
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào. Giáo dục mọi người yêu quý lao động,
yêu quý nghề nghiệp, lao động có kỉ luật, chống mọi thói xấu lười biếng ỷ lại,
khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người tự tìm tịi, tự tạo việc làm cho mình
và cho người khác.
Thứ ba, chú trọng công tác chăm lo cho các nhu cầu vật và tinh thần cho người
lao động và gia đình họ vì khi làm tốt vấn đề này thì người lao động mới tồn tâm
tồn ý cho cơng việc. Chú trọng về chính sách tiền lương, tăng lương tối thiểu cho
người lao động; cần thêm những động thái tích cực nhằm kích cầu tiêu dùng; tăng
khoảng cách giữa các bậc liền kề trong bảng lương; hoàn thiện chính sách tiền
lương, tiền cơng theo hướng thị trường; cần có chế độ, chính sách về tiền lương
và phụ cấp đối với cán bộ, công chức tạo cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế
thị trường; cần quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để
người lao động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương, đồng thời
11


tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi của người lao động;
tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường sức lao động;

tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành
nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tạo các khu vui chơi giải trí có
chất lượng và hoạt động có hiệu quả, tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động đoàn
thể cho người lao động.
Thứ tư, thực hiện phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng bằng việc mở
thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu chế xuất…tăng cường ở những vùng kinh tế
kém phát triển hơn nhằm cân đối lại thị trường lao động để khai thác hết tiềm
năng của đất nước.
Thứ năm, đầu tư xây dựng một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn
khu vực với trang thiết bị hiện đại. Đây sẽ là đầu mối cung cấp các thông tin đầy
đủ nhất về cung - cầu lao động trên thị trường. Ngồi ra, một hệ thống thơng tin
bao gồm hướng nghiệp dạy nghề; dịch vụ việc làm; thống kê thị trường lao động...
cũng sẽ được thiết lập từ thành phố đến từng quận, huyện và xã, phường nhằm
cung cấp thơng tin về việc làm nhanh chóng và chuẩn xác nhất cho người lao
động.
Thứ sáu, có các chính sách thu hút nhân tài, đãi ngộ giáo viên, cơ chế ưu đãi
để khuyến khích các thành phần kinh tế, tổ chức cá nhân tham gia vào công tác
đào tạo, chuyển đổi nghề cho người lao động.

12


KẾT LUẬN
Hàng hóa sức lao động xuất hiện đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử
phát triển kinh tế của xã hội lồi người. Nó thể hiện sự thay đổi to lớn trong trình
độ của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ, năng suất lao
động tăng cao, xã hội chuyển từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Hàng hóa sức lao động đã xuất hiện trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa và đã được C.Mác nghiên cứu, xây dựng thành lý luận hàng hoá
sức lao động. Việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vào vấn

đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam có một ý nghĩa chiến lược vô cùng
to lớn. Sự kết hợp hài hịa giữa lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác với
thực tiễn thị trường lao động ở Việt Nam vừa là nhiệm vụ hàng đầu của nền kinh
tế lại vừa là mục tiêu quan trọng nhằm phát triển nguồn lao động, nâng cao dân
trí, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, có đủ năng lực để thực
hiện chiến lược cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp tích cực nhằm
hình thành và phát triển “nền kinh tế tri thức” của Việt Nam giúp nước ta ngày
càng lớn mạnh, sánh ngang với các quốc gia khác trên thế giới, xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Dù đã rất cố gắng trong q trình tìm tịi và hồn thành bài tiểu luận này
nhưng khơng tránh khỏi những sai sót. Em hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến
đóng góp từ các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của
cơ Nguyễn Thị Thu Trà trong suốt thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn !

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GT học phần Kinh tế chính trị MNL(K) Tr đầu- Tr100x.pdf (moet.gov.vn)
2. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin - KTHN
3. Phân tích lý luận của C.Mác về hàng hóa sức lao động. Vận dụng lý luận hàng
hóa - Tài liệu text (123docz.net)
4. Thị trường lao động - việc làm và quan hệ lao động trong điều kiện hội nhập
ở Việt Nam: Thực trạng và một số định hướng chính sách (hdll.vn)
5. Quan điểm của C. Mác về hàng hoá sức lao động và chất lượng nguồn lao
động Việt Nam hiện nay - StuDocu
6. Hàng hóa sức lao động là gì? Lý luận về hàng hóa sức lao động
(luanvan1080.com)


14


15



×