Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích đánh giá pháp luật về hợp đồng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.03 KB, 17 trang )

Đề: Phân tích đánh giá pháp luật về hợp đồng ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

1


I.

MỞ ĐẦU

Pháp luật về hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, bởi vì, hầu hết các giao dịch trong xã hội, dù có mục đích kinh doanh hay
nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thông thường, đều liên quan đến hợp đồng. Mục
đích của pháp luật về hợp đồng là nhằm bảo vệ quyền tự do ý chí của các bên. Quyền
tự do ý chí này chỉ bị hạn chế bởi một số ngoại lệ nhằm bảo vệ trật tự công hoặc
nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên thứ ba.
Pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay, tuy có một số hạn chế nhất định
vẫn đang được các nhà làm luật đánh giá và tiếp tục sửa đổi, bổ sung để bắt kịp với
thực tiễn xã hội. Nhưng nhìn chung được xem là khá tiến bộ và phù hợp với xu
hướng phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hiện nay. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ
sung các chế định về hợp đồng đã phần nào quán triệt, thể chế hoá các chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời điểm, cụ thể
hoá các quyền về kinh tế, dân sự của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và đáp
ứng được các yêu cầu trong quá trình hội nhập kinh tế trong nền kinh tế thị trường
mạnh mẽ. Các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm tăng
cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được toàn quyền quyết định về
đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, nội dung của hợp đồng và
trách nhiệm của các bên khi có vi phạm.
Bộ luật Dân sự quy định những vấn đề chung về hợp đồng như khái niệm hợp
đồng, giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng…còn các luật


chuyên ngành thì chỉ quy định các vấn đề mang tính đặc thù của hợp đồng trong các
lĩnh vực khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, phần nội dung sẽ phân tích đánh giá
khái quát pháp luật hợp đồng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cũng như phân
tích đánh giá một số chế định hợp đồng tiêu biểu của pháp luật hợp đồng của nền
kinh tế thị trường để làm rõ nét vấn đề này.

II. NỘI DUNG CHI TIẾT
1.
1.1.

Khái quát chung về pháp luật hợp đồng hiện hành
Về hợp đồng và khái niệm hợp đồng

Theo Điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân
sự”. Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc thoả
thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong điều
kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và chấm dứt.
Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ
thể khác. Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là tài sản,
hàng hoá hoặc dịch vụ. Nguyên tắc quan trọng và được pháp luật bảo vệ là nguyên
2


tắc tự do thoả thuận, bình đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng,
không phân biệt mục đích của hợp đồng là kinh doanh thu lợi nhuận hay nhằm phục
vụ cho tiêu dùng.
1.2. Về giao kết hợp đồng
Về đề nghị giao kết hợp đồng được quy định tại Khoản 1 Điều
386 BLDS 2015. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý

định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của
bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau
đây gọi chung là bên được đề nghị). Như vậy, so với quy định trong
BLDS 2005, điểm mới trong BLDS 2015 là mở rộng và rõ hơn về bên
được đề nghị giao kết hợp đồng. Có thể có nhiều bên nhận được đề
nghị trong giao kết hợp đồng. Và điều này hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện nay.
Thông tin giao kết hợp đồng: Theo quy định tại Điều 387 BLDS
2015, đối với trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc
chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho
bên kia biết. Trường hợp một bên nhận được thông tin bí mật của
bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì có trách nhiệm bảo
mật thông tin và không được sử dụng thông tin đó cho mục đích
riêng của mình hoặc cho mục đích trái pháp luật khác. Bên vi phạm
quy định trên mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là điều hoàn
toàn mới, nhằm quản lý chặt chẽ thông tin trong quá trình giao kết
hợp đồng và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Thời điểm giao kết hợp đồng: Tại Khoản 1 điều 388 trong BLDS
2015 có quy định: Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực
được xác định như sau: Do bên đề nghị ấn định. Nếu bên đề nghị
không ấn định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi
bên được đề nghị nhận được đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên
quan có quy định khác. Ở đây, BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm
chế định loại trừ “Trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”,
phù hợp với thực tiễn áp dụng ở nước ta. Và quy định như vậy là để
tránh mâu thuẫn giữa các đạo luật khác, đồng thời ưu tiên áp dụng
luật chuyên ngành.
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng: Theo Điều 391 trong
BLDS 2015, thì việc đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt trong
trường hợp sau đây: Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp

đồng; Bên được đề nghị trả lời không chấp nhận; Hết thời hạn trả lời
chấp nhận; Khi thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị có
3


hiệu lực; Khi thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; Theo
thỏa thuận của bên đề nghị và bên được đề nghị trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời. Như vậy, ở chế định này đã bổ bổ sung
thêm trường hợp: Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng.
Và việc bổ sung quy định này vừa đúng về mặt lý luận và phù hợp
với thực tiễn áp dụng.
Im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng: Theo quy định tại
Điều 393 của BLDS 2015, sự im lặng của bên được đề nghị không
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có
thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên. Đây
là quy định làm rõ hơn trường hợp nào thì im lặng được coi là chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng và trường hợp im lặng nào thi
không. Với việc bổ sung nội dung này đã hạn chế những tranh chấp
phát sinh từ sự im lặng.
I.3.

Về thời điểm có hiệu lực hợp đồng

Theo Điều 401 của BLDS 2015, hợp đồng được giao kết hợp
pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Như vậy, từ thời điểm
hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối
với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ
theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Và
quy định này là nhẳm đảm bảo việc thực hiện hợp đồng của các

bên, đồng thời rõ ràng hơn trong việc thay đổi nội dung hợp đồng
(tức là phải có sự thỏa thuận giữa các bên).
BLDS xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu
lực của cam kết, thoả thuận của các bên, không phụ thuộc vào hình thức của hợp
đồng. Do đó, về mặt nguyên tắc, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận giao kết của bên được đề nghị. Hợp đồng cũng xem như
được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu các bên
có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. Trên cơ sở hình thức của hợp
đồng, pháp luật cũng quy định cụ thể đối với từng trường hợp, ví dụ, đối với hợp
đồng được giao kết bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên
đã thoả thuận về nội dung của hợp đồng; đối với hợp đồng được giao kết bằng văn
bản thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính từ thời điểm giao kết, tuy nhiên
vẫn có các ngoại lệ đó là khi các bên có thoả thuận khác, ví dụ hợp đồng được các
bên ký vào ngày 01/01/2009 nhưng các bên thoả thuận là hợp đồng được coi là ký
kết vào ngày 01/02/2009 hoặc khi pháp luật có quy định khác, ví dụ theo pháp luật
về đất đai thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng thế chấp là thời điểm đăng ký.
4


I.4.

Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

Theo Điều 401 của BLDS 2015, hợp đồng được giao kết hợp
pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc luật liên quan có quy định khác. Tuy nhiên, BLDS lại không
quy định thế nào là "được giao kết hợp pháp", do đó phải áp dụng Điều 117 BLDS
2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự vì hợp đồng là một trong những
hình thức giao dịch dân sự.

Giao dịch dân sự được coi là có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
+ Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
+ Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
+ Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
Ngoài các điều kiện trên đây, nếu pháp luật quy định giao dịch phải được thể
hiện bằng một hình thức cụ thể, ví dụ phải thể hiện bằng văn bản, thì hình thức của
giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
Như vậy, khi hợp đồng có đủ ba điều kiện trên thì sẽ có hiệu lực trừ một số
trường hợp mà pháp luật yêu cầu hợp đồng phải tuân theo một hình thức nhất định.
I.5.

Về điều kiện vô hiệu của hợp đồng

Theo quy định của Điều 407 BLDS 2015 thì vấn đề hợp đồng vô hiệu sẽ được
áp dụng theo các quy định từ Điều 122 đến Điều 133 BLDS 2015 bao gồm các
trường hợp sau:
+ Giao dịch bị vô hiệu khi không có một trong các điều kiện được quy định tại
Điều 117 của BLDS bao gồm: người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Ngoài ra, nếu
pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó thì
hình thức của giao dịch cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội. Điều này có nghĩa rằng nếu giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm
điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu. Vi phạm điều cấm của
pháp luật có nghĩa là vi phạm những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định, ví dụ như hành vi buôn bán chất ma tuý. Đạo đức
xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội
được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo: Nếu một giao dịch dân sự được xác lập
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo đó bị vô
5


hiệu, tuy nhiên giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo
các quy định khác của BLDS. Luật cũng quy định trường hợp giao dịch được xác lập
một cách giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó cũng bị
vô hiệu.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện: Những đối
tượng kể trên mà xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì theo yêu cầu của người đại
diện của người đó, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu nếu theo quy định
của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn: Khi một bên có lỗi vô ý làm cho
bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị
nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia
không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô
hiệu. Trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch thì sẽ áp dụng các quy định tại Điều 132 BLDS về giao dịch dân sự vô hiệu do
bị lừa dối, đe doạ.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doa: Theo quy định của BLDS thì
lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm
cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao
dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thịêt hại
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha,
mẹ, vợ, chồng, con mình. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc
bị đe doạ thì có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được

hành vi của mình: Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào
đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu
cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: Trong
trường hợp pháp luật quy định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch mà các bên không tuân theo thì khi có yêu cầu, toà án, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn, quá thời hạn đó mà các bên không thực hiện thì giao
dịch đó bị vô hiệu. Theo yêu cầu của một hoặc các bên, toà án có thể tuyên hợp đồng
là vô hiệu.
Ngoài các quy định trên, BLDS còn có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do
có đối tượng không thể thực hiện được, đó là trong trường hợp ngay từ thời điểm ký

6


kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan thì hợp
đồng này bị vô hiệu.
+ Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho
bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được. Quy định trên đây cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được nhưng phần còn
lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
+ Theo quy định của BLDS hiện hành thì sự vô hiệu của hợp đồng chính làm
chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng
phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ
không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính trừ trường hợp các bên thoả thuận

hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
I.6.

Về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu

Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết theo quy định của Điều
131 BLDS đối với hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Theo quy định này
thì hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
của các bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia.
I.7.

Về chấm dứt hợp đồng và trách nhiệm của bên vi phạm nghĩa vụ trong
hợp đồng
Theo quy định của BLDS thì hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau:
+ Hợp đồng đã được hoàn thành: đó là khi các bên đã thực hiện xong các
nghĩa vụ của mình theo hợp đồng;
+ Theo thoả thuận của các bên;
+ Cá nhân giao kết hợp đồng chết, phán nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà
hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện. Đây
là loại hợp đồng mà người có nghĩa vụ, do tính chất đặc thù, phải tự họ thực
hiện mà không thể chuyển giao cho người khác.
+ Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện:

Huỷ bỏ hợp đồng: một bên trong hợp đồng có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không
phải bồi thường thiệt hại cho bên kia khi bên kia vi phạm hợp đồng và việc vi phạm
7



đó là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Tuy
nhiên, bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ,
nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và
các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường
thiệt hại. Trong ví dụ trên đây, nếu A chứng minh được mình bị thiệt hại do B không
giao hàng đúng hẹn thì B phải bồi thường cho A.
Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng: Một bên có quyền đơn phương
chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết
về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ
thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Nếu
hợp đồng bị đơn phương chấm dứt do lỗi của một bên thì bên có lỗi phải bồi thường
thiệt hại cho bên kia.
+ Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và
các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
I.8.

Về chế tài đối với hành vi vi phạm trách nhiệm hợp đồng

Ngoài các chế định về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng đã nói ở trên,
pháp luật tạo điều kiện cho các bên được tự do thoả thuận về trách nhiệm của bên vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng, về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng theo đó bên vi phạm phải

trả một khoản tiền cho bên bị vi phạm, mức phạt này do các bên tự thoả thuận. Các
bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm
mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm vừa phải bồi
thường thiệt hại. Nếu các bên không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại
thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Về nguyên tắc, bên vi phạm chỉ phải nộp tiền
phạt vi phạm nếu các bên không có thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại. Về vấn
đề này, Luật Thương mại 2005 lại có quy định khác so với BLDS. Theo Khoản 2
Điều 307 Luật Thương mại thì “trường hợp các bên có thoả thuận phạt vi phạm thì
bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Trừ một số trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại, thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại luôn được đặt ra khi có đủ các yếu tố như: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt
hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
8


I.9.

Về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng

Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 292 đến
Điều 350 BLDS 2015 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản (bao gồm cả cầm cố,
thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và tín
chấp. Theo các quy định của pháp luật hiện hành thì các bên trong hợp đồng có
quyền tự chủ, tự do cam kết và tự do thoả thuận đồng thời các bên cũng phải tự chịu
trách nhiệm đối với các cam kết, thoả thuận của mình. Điều này được thể hiện rõ
nhất trong các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng cầm cố, thế chấp và bảo
lãnh. Các bên có thể linh hoạt hơn và tự chủ hơn trong việc xử lý các tình huống phát
sinh, cụ thể như sau:
+ Về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: các bên được toàn quyền thoả thuận

về phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một
phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu các bên
không có thoả thuận và pháp luật không có quy định thì nghĩa vụ coi như được đảm
bảo toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại. Đồng thời, các bên cũng
có quyền thoả thuận về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ để bảo đảm thực
hiện các loại nghĩa vụ, không chỉ nghĩa vụ hiện tại mà còn nghĩa vụ trong tương lai
hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
+ Về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ:
BLDS thể hiện quan điểm là về nguyên tắc mọi tài sản đều có thể được dùng để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trừ một số trường hợp mà pháp luật cấm. Trước hết, vật
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và
được phép giao dịch. Vật ở đây có thể là vật hiện có hoặc vật được hình thành trong
tương lai. Nếu là vật hình thành trong tương lai thì vật đó phải là động sản, bất động
sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao
dịch bảo đảm được giao kết. Ngoài các tài sản thông thường như đất đai, nhà cửa,
phương tiện giao thông… thì các tài sản khác như tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu
và giấy tờ có giá khác cũng được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Ngoài các tài sản nói trên thì các quyền tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
cũng có thể trở thành tài sản bảo đảm, bao gồm: quyền tài sản phát sinh từ quyền tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền
được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp
trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác
thuộc sở hữu của bên bảo đảm. Quyền sử dụng đất và quyền khai thác tài nguyên
thiên nhiên cũng được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
+ Về vấn đề một tài sản dược dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ:
Một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ nếu giá trị
của tài sản đó tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa
9



vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác. Trong trường hợp này bên bảo đảm phải thông báo cho bên nhận bảo đảm
sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
khác. Trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các
nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng
nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản. Bên nhận bảo đảm đã thông báo về
việc xử lý tài sản có trách nhiệm xử lý tài sản nếu các bên cùng nhận bảo đảm không
có thoả thuận khác. Trường hợp các bên muốn tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ chưa
đến hạn thì có thể thoả thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm việc
thực hiện các nghĩa vụ chưa đến hạn.
Trong số các biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các biện pháp cầm cố và
thế chấp thường được các bên áp dụng nhiều nhất. Do đó, BLDS đã quy định rất cụ
thể về vấn đề này. BLDS thể hiện quan điểm bên cầm cố, thế chấp tuy bị hạn chế
một số quyền nhưng họ cũng có những quyền tự chủ nhất định, nhất là trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Ví dụ, bên thế chấp có quyền được khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế
chấp theo thoả thuận của các bên; được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế
chấp; được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển
trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng
hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua
thanh toán tiền và số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở
thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán; được bán, trao đổi, tặng cho tài
sản thế chấp không phải là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh
doanh nếu được bên nhận thế chấp đồng ý; được cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp
nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho
mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.
2. Phân tích đánh giá các chế định hợp đồng hiện hành của pháp luật hợp
đồng hiện nay
2.1. Đánh giá khái quát về pháp luật hợp đồng hiện nay
Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn

bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự 2015, Luật Thương mại 2005, Luật
Kinh doanh bảo hiểm… Trong đó, Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các
vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận
và tự chịu trách nhiệm. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được áp
dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp
đồng kinh tế, hợp đồng có mục đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật
10


Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật
chuyên ngành có thể có những quy định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối
quan hệ trong lĩnh vực đó, ví dụ như các quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá
trong Luật Thương mại, hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh doanh bảo hiểm... Các
quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là các quy định chung còn các
quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được coi là các quy định chuyên
ngành và các quy định này được ưu tiên áp dụng.
Cơ cấu trong tổng thể pháp luật hợp đồng hiện nay đã tương đối bảo đảm
tính thống nhất của pháp luật về hợp đồng. Các quy định có tính chất chung được
quy định trong Bộ luật Dân sự. Trong Bộ luật này cần có những quy định chung có
tính khái quát cao, thể hiện rõ quyền tự do hợp đồng để bảo đảm tính ổn định cao của
Bộ luật Dân sự.
2.2.
2.2.1.

Phân tích đánh giá một số chế định hợp đồng của pháp luật hiện nay
Đánh giá chế định hợp đồng thương mại thông thường

Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là

hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.
Theo quy định trên thì chủ thể tham gia hợp đồng thương mại ít nhất một bên
phải là thương nhân, và hiện nay, hợp đồng thương mại được điều chỉnh chủ yếu theo
các quy định tại Các Điều ước quốc tế, Luật Thương mại 2005… và một số văn bản
hướng dẫn. Căn cứ theo các quy định của pháp luật hiện nay thì có thể thấy pháp luật
về hợp đồng thương mại có một số ưu điểm và hạn chế như sau:
 Về ưu điểm:
 Pháp luật đã ra khái niệm khái quát về hành vi thương mại theo hướng: hành

vi thương mại là mọi hành vi được thực hiện với mục đích lợi nhuận, đồng
thời, pháp luật đã có những liệt kê và quy định chi tiết về một số hành vi
thương mại điển hình, việc đưa ra khái niệm như vậy giúp phân biệt hợp đồng
thương mại với các loaị hợp đồng dân sự, … là cơ sở để các bên chọn đúng
quy định pháp luật điều chỉnh.
 Pháp luật hiện nay có khá nhiều quy định để điều chỉnh về hợp đồng thương

mại,cụ thể là các quy định về điều kiện giao kết, nguyên tắc giao kết,…đảm
bảo sự công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên khi tham gia quan hệ
hợp đồng.
 Do mang bản chất của Hợp đồng dân sự, theo đó pháp luật hiện nay cũng có

những quy định kế thừa từ những quy định dân luật truyền thống như: chủ thể,
11


hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, các chế tài giải quyết tranh chấp
hợp đồng,… những quy định này có vai trò quan trọng để các bên thực hiện
hợp đồng.
 Có thể thấy, trải qua một thời gian rất dài , pháp luật về hợp đồng thương mại


có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh mối quan hệ các bên tham gia hợp
đồng, thúc đẩy hoạt động thương mại phát triển, thúc đẩy sự phát triển kinh tếxã hội,…
 Về nhược điểm:
-

Mặc dù đã có những quy định về hợp đồng thương mại, tuy nhiên có nhiều
quy định chưa rõ ràng, và quy định còn khá rải rác trong nhiều văn bản khác
nhau, khiến việc áp dụng những quy định đó còn khó khăn và hiệu quả áp
dụng chưa thực sự có hiệu quả.

-

Cùng với sự phát triển của xu thế hội nhập, việc tham gia hợp đồng thương
mại ngày càng nhiều, tuy nhiên có vấn đề hiện nay vẫn chưa có những quy
định cụ thể để điều chỉnh, đặc biệt là hợp đồng thương mại có yếu tố nước
ngoài. Dẫn tới việc khi có những tranh chấp sảy ra thì gặp nhiều khó khăn
trong việc giải quyết, và có thể gây ra những thiệt hại đáng kể.

 Kiến nghị hướng hoàn thiện

Để tiếp tục phát huy những vai trò và để khắc phục những hạn chế như trên,
pháp luật về hợp đồng thương mại cần được hoàn thiện hơn nữa, một số kiến nghị để
hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng thương mại như:
-

Các quy định về hợp đồng thương mại cần được quy định một cách cụ thể và
tập trung để có thể áp dụng một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao.

-


Cần bổ sung những quy định mới để điều chỉnh quan hệ hợp đồng thương mại,
đặc biệt là đối với hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài.

-

Một hệ thống pháp luật rõ ràng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia
quan hệ hợp đồng, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại đạt hiệu quả cao.
2.2.2. Đánh giá chế định hợp đồng trong thương mại điện tử

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, giao kết hợp
đồng truyền thống đang dần được thay thế bởi một phương thức mới chính là giao
kết hợp đồng điện tử. Khi giao kết thông qua hợp đồng điện tử các doanh nghiệp đã
giảm đáng kể được chi phí giao dịch, thời gian giao dịch, dễ dàng hơn trong việc tiếp
12


xúc với khách hàng và thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Xét
trong giai đoạn hội nhập hiện nay, Việt Nam ra nhập WTO chưa lâu nên việc giao kết
thông qua hợp đồng điện tử không chỉ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn
ra thị trường quốc tế mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận
với các hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Luật Giao dịch điện tử năm 2015 là đạo Luật
đầu tiên điều chỉnh trực tiếp việc sử dụng các phương tiện điện tử trong giao dịch
hợp đồng, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp
lý về giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng. Tuy nhiên, trong
quá trình pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử đi vào thực tiễn ở Việt Nam đã
xuất hiện những điểm hạn chế cần phải sửa đổi và khắc phục nhằm thúc đẩy hoạt
động thương mại điện tử phát triển manh mẽ, đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay.
 Về khái niệm hợp đồng điện tử


Điều 33 của Luật Giao dịch điện tử có quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp
đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của Luật này.” Nội
dung quy định này là điểm khác biệt so với Luật mẫu của UNCITRAL về thương
mại điện tử. Luật mẫu UNCITRAL không quy định cụ thể về hợp đồng điện tử mà
chỉ đưa ra các nguyên tắc cơ bản khi soạn thảo hợp đồng điện tử dựa trên những đặc
điểm đặc trưng nhất của loại hợp đồng này. Theo nguyên tắc chung, đối với những
hợp đồng điện tử được ký kết bằng cách các bên không trực tiếp gặp gỡ nhau, mà chỉ
trao đổi thông tin qua lại bằng thư từ, quy trình tạo lập và hình thành hợp đồng bao
gồm hai giai đoạn mang nặng tính pháp lý về thủ tục, đó là: Giai đoạn đề nghị giao
kết hợp đồng và giai đoạn chấp nhận giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, Luật Giao dịch
điện tử năm 2005 không quy định cụ thể về hai giai đoạn này, mà chỉ đặt ra các quy
định về Người khởi tạo thông điệp dữ liệu - Điều 16; Thời điểm, địa điểm gửi thông
điệp dữ liệu - Điều 17; Nhận thông điệp dữ liệu - Điều 18; Thời điểm, địa điểm nhận
thông điệp dữ liệu - Điều 19; Gửi và nhận tự động thông điệp dữ liệu - Điều 20. Như
vậy, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 mới chỉ quy định những vấn đề liên quan đến
yếu tố kỹ thuật của việc trao đổi trong giao dịch điện tử mà chưa đưa ra được các quy
định mang tính thủ tục pháp lý liên quan đến các giai đoạn đề nghị và chấp nhận đề
nghị giao dịch ký kết hợp đồng điện tử. Chính điều này đã làm phát sinh nhiều vấn
đề gây khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp nếu có sau này.
 Về đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng

Pháp luật về thương mại điện tử hiện hành không quy định cụ thể về lời mời
“đề nghị giao kết hợp đồng”, “chấp nhận giao kết hợp đồng” mà được đề cập thông
qua hoạt động gửi nhận thông điệp dữ liệu. Về bản chất, việc giao kết hợp đồng nói
chung cũng như giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói riêng đều bao gồm hai
hoạt động “đề nghị giao kết hợp đồng” và “chấp nhận giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên,
13


Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và Nghị định 52/2013/NĐ-CP lại không sử dụng

thuật ngữ này, nhưng trong giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng trực
tuyến trên website (tại mục 2 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) lại dùng sử dụng thuật ngữ
“đề nghị giao kết”, “chấp nhận giao kết” mà không thông qua thông điệp dữ liệu điện
tử. Việc quy định thuật ngữ thiếu đồng nhất giữa văn bản luật và nghị định hướng
dẫn hay trong cùng nghị định là thiếu hợp lý về kỹ thuật lập pháp.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng không xác định rõ thời điểm hợp đồng
điện tử được coi là đã giao kết. Điều 17, 18, 19 của Luật này chỉ quy định về thời
điểm, địa chỉ gửi, địa chỉ nhận thông điệp dữ liệu mà không có quy định nào đề cập
việc nhận một thông điệp dữ liệu như thế nào thì được coi là chấp nhận chào hàng và
từ đó hình thành hợp đồng điện tử. Việc xác định thời điểm hợp đồng có ý nghĩa rất
quan trọng vì đây là một trong những điều kiện xác định hiệu lực trong hợp đồng. Có
thể thấy, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi
hành cũng không quy định nào về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng điện tử, cũng
như không quy định các trường hợp hợp đồng điện tử bị coi là vô hiệu, hậu quả pháp
lý của hợp đồng điện tử vô hiệu. Hơn nữa, trong hầu hết các văn bản luật và dưới
luật liên quan đến giao dịch điện tử, hợp đồng điện tử, thương mại điện tử, chữ ký
điện tử,… đều không có sự kết nối với các văn bản pháp luật quy định về hợp đồng,
giao kết hợp đồng, hợp đồng điện tử bị vô hiệu và cách giải quyết. Đây là sự không
đồng bộ của quy định pháp luật về giao dịch hợp đồng điện tử nói chung và Luật
Giao dịch điện tử năm 2005, Nghị định 52/2013/NĐ-CP nói riêng.
 Về giao kết hợp đồng thương mại điện tử có yếu tố nước ngoài

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và các văn bản dưới luật vẫn chưa có quy
định cụ thể việc hợp đồng thương mại điện tử được giao kết với doanh nghiệp nước
ngoài, mà chỉ quy định về thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài:
“Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước
ngoài nếu chữ ký điện tử hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cậy tương đương với
độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc
xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn
cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan khác” (khoản 1 Điều
27). Vậy làm thế nào để xác định một chữ ký điện tử nước ngoài là có độ tin cậy
tương đương với chữ ký điện tử thông thường theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Hiện cũng chưa có một văn bản nào thừa nhận những tiêu chuẩn quốc tế, hay các
điều ước quốc tế nào mà Việt Nam là thành viên để xác định độ tin cậy của một chữ
ký điện tử nước ngoài. Khoản 2 Điều 27 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng quy
định: “Chính phủ quy định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện
tử nước ngoài” nhưng cho đến nay, sau hơn 10 năm từ khi Luật Giao dịch điện tử ra
14


đời vẫn chưa có một văn bản nào của Chính phủ quy định cụ thể về vấn đề này1. Có
thể thấy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay, vấn đề
giao kết hợp đồng thương mại điện tử với người nước ngoài cần đặc biệt quan tâm.
Chính phủ không những cần thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, chứng thư
điện tử nước ngoài, mà còn cần quy định chi tiết về lời đề nghị, chấp nhận giao kết,
hiệu lực hợp đồng cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp Việt
Nam với các thương nhân nước ngoài.
 Về giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết hợp đồng thương mại

điện tử
Vấn đề giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm được Luật Giao dịch điện tử
năm 2005 quy định 3 điều (từ Điều 50 đến Điều 52) và mới chỉ đề cập đến vấn đề xử
lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong các giao dịch điện tử, chưa có
quy định nào để giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng điện tử nói
chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng. Điều 52 Luật Giao dịch điện tử
năm 2005 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong giao dịch
điện tử giải quyết thông qua hòa giải. Trong trường hợp các bên không hòa giải được
thì thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được thực
hiện theo quy định của pháp luật”. Đây là quy định được đánh giá chưa cụ thể và rõ

ràng, gây khó khăn giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến giao dịch điện tử.
Thông thường khi có tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể của hợp đồng, việc đầu
tiên hai bên phải làm là tiến hành thương lượng với nhau. Nếu giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng không đạt kết quả thì các bên tiến hành hòa giải. Với sự tham gia
của bên thứ ba, hai bên có thể giải quyết được những vướng mắc mà khi gặp gỡ trực
tiếp không tháo gỡ được. Nếu sau khi thực hiện hòa giải vẫn không thành công thì
hai bên có thể áp dụng thủ tục giải quyết tranh chấp tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử ngày 16/5/2013 quy định về
phương thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại điện tử: “Việc giải
quyết tranh chấp phải thông qua thương lượng giữa các bên, hòa giải, Trọng tài hoặc
Tòa án theo các thủ tục, quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp” (khoản 4 Điều
76). Trong khi đó, Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định rất cụ thể về hình thức
giải quyết tranh chấp tại Điều 317 như sau: “1. Thương lượng giữa các bên; 2. Hoà
giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận
chọn làm trung gian hòa giải; 3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án. Thủ tục giải
quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Tòa án được tiến hành theo các thủ
tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định”. Có thể thấy, tuy cùng liệt kê
4 phương thức giải quyết tranh chấp là: Thương lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án,
nhưng chỉ Luật Thương mại 2005 mới liệt kê theo đúng trình tự ưu tiên áp dụng các
phương thức mà các bên có thể lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Nghị định
15


52/2013/NĐ-CP mới chỉ liệt kê mà không quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải
quyết của từng phương thức.
III.

KẾT LUẬN

Ý thức được tầm quan trọng của pháp luật hợp đồng trong điều chỉnh quan hệ

kinh tế trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam từ khi bắt tay vào tiến hành công cuộc
đổi mới năm 1986 đã chú trọng tới ban hành các văn bản pháp luật, pháp quy điều
chỉnh quan hệ hợp đồng. Bộ luật Dân sự Việt Nam đã quy định một phần riêng về
quan hệ hợp đồng, nội dung thể hiện sự điều chỉnh thống nhất và đầy đủ quan hệ hợp
đồng, có kết cấu gần với pháp luật của các quốc gia có hệ thống pháp luật châu Âu
lục địa. Ngoài ra, trước đòi hỏi của quá trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới,
để hội nhập tốt hơn vào nền kinh tế quốc tế, cùng với Bộ luật Dân sự các luật chuyên
ngành cũng ra đời để điểu chỉnh các quan hệ đặc thù như Luật Thương mại cũng ra
đời và được sửa đổi bổ sung phù hợp điều chỉnh các quan hệ thương mại và hợp
đồng thương mại, Luật Thương mại điện tử…
Trên đây là những phân tích đánh giá về pháp luật hợp đồng hiện nay trong
mối quan hệ với nền kinh tế thị trường Việt Nam. Trong phạm vi kiến thức còn hạn
hẹp, bài viết còn nhiều thiếu sót nên em rất mong nhận được những nhận xét của
thầy cô để có thể hoàn thiện kiến thức.
Em xin chân thành cám ơn thầy, cô!

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Trang thông tin điện tử của Bộ tư pháp và các bài viết nghiên cứu trao đổi.

17



×