Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tthcm ve cach mang giai phong dan toc ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.92 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu …………………………………………�� �……………………… 3
Chương mở đầu:Khái niệm,nguồn gốc hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh
I.Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh………………………………………� ��……… 4
II.Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh………………………………………� �� 4
Chương I:Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
I.Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc……………………………………… .8
II.Con đường giải phóng dân tộc-con đường cách mạng vô sản……………………
10
III.Đảng cộng sản Việt Nam ra đời,nhân tố quyết định của cách mạng
giải phóng dân tộc……………………………………… ……………………… 12
IV.Vai trò và sức mạnh của yếu tố dân tộc trong tư tưởng cứu nước của
Hồ Chí Minh………………………………………� ��………………………… 15
V.Liên minh công nông tri thức là nền tảng của mặt trận………………………… 16
VI.Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đườngcách mạng bạo lực……………………………………… …………………20
Kết luận …………………………………………�� �………………………… 23
LỜI NÓI ĐẦU
Lâu nay ,tên tuổi Hồ Chí Minh đã trở nên gần gũi thân thiết đối với hàng
trăm triệu người trên thế giới.Hồ Chí Minh là con người Việt Nam ưu tú điển
hình của mọi thời đại.Suốt cuộc đời hoạt động,Người đã dành phần lớntâm tư
và sức lực cho sự nghiệp vĩ đại là tìm racon đường cách mạng giải phóng dân
tộc.Đây cũng là một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Bài tiểu luận:“Cách mạng giải phóng dân tộc-tư tưởng vĩ đại của những tư
tưởng lớn” sẽ trình bày một cách tương đối có hệ thống về đề tài Cách mạng
giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Qua 3 chương của bài tiêu luận,chúng tôi đã nêu lên được sự cống hiến của
Hồ Chí Minh trong việc làm phong phú thêm những vấn đề lớn trong kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin như về vấn đề cách mạng giải phóng


dân tộc
Tuy nhiên,vấn đề chúng tôi đề cập đến có nội dung lý luận rất lớn,nên bài
tiểu luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót nhất định.Vì thế
chúng tôi mong muốn nhận được ỵ kiến đóng góp từ giảng viên và tất cả các
ban đọc.Xin chân thành cảm ơn.
Thành phố Hồ Chí Minh,ngày 03,tháng 11,năm 2009
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
KHÁI NIỆM,NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
I.KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Theo kết quả nghiên cứu đạt được trong những năm qua có thể bước đầu
định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thông các quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam,từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa,là kết quả vạn dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào điều kiện cụ thể của nước ta,đồng
thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân
tộc,giả phóng giai cấp và giải phóng con người.
II.CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.Cơ sở khách quan
1.1.Điều kiện lịch sử xã hội
-Bối cảnh xã hội Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX
Người sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến động.trong
nước chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành một số chính sách đối nội đối
ngoại bảo thủ phản động:tăng cường đàn áp bóc lột nhân dân.Triều đình nhà
Nguyễn bạc nhược đã lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hang thừa nhận nền
bảo hộ của Pháp trên đất nước ta.
Đến cuối thế kỉ XIX các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu”Cần
Vương”do các sĩ phu văn than lãnh đạo cuối cùng cũng thất bại.điều này
chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời trước hoàn cảnh hiệm vụ của
kịch sử.

Sự khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã khiến cho xã hội Việt Nam có sư
phân hóa và chuyển biến rõ rệt,giai cấp công nhân,tiểu tư sản và tư sản
xuất hiện tạo ra tiền đề bên trong phong trào yêu nước giải phóng dân tộc.
Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc các sĩ phu yêu nước tiên bộ tiêu
biểu như Phan Bội Châu ,Phan Châu Trinh đã tổ chức vận đông cuộc đấu
tranh yêu nước chống Pháp.Song chủ trương của hai bậc tiền bối đều đã thất
bại.Còn con đường của Hoàng Hoa Thám thì mang nặng”cốt cách phong
kiến”chưa phải là hương đi đúng đắn.Từ đó,phong trào yêu nước của nhân
dân ta muốn thắng lợi thì cần có một con đường mới.
-Hoàn cảnh thế giới bấy giở.
Lịch sử thế giới trong giai đoạn này cũng đang có nhứng biến đổi hết sức to
lớn.Chủ nghĩ tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang độc quyền và
thống trị trên phạm vi toàn cầu.Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ
thùchung của nhân dân thuộc địa.
Các cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã dẩn đến một cao trào cách mạng thế giới và đỉnh cao
là cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Cuộc cách mạng này đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lâp chính quyền Xô
Viết-mở ra mọt kỉ nguyên mới cho lịch sử loai người và đã thức tỉnh các dân
tộc châu Á cũng như toàn thế giới.Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga
đã dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
Viết(1922).Tiếp đó là sự ra đời của quốc tế Cộng sản(3-1919) đã làm cho
phong trào công nhân ở các nước có được mối quan hệ mật thiết với nhau
cùng đấu tranh chông chủ nghĩa đế quốc.
1.2.Những tiền đề về tư tưởng lý luận
- Giá trị truyền thông của dân tộc.
Những giá trị truyền thông hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt
Nam đã được hình thành từ lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời và trở
thành tiên đề tư tưởng xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.Đó là
truyền thông yêu nước kiên cường bất khuất,long nhân nghĩa,là ý chí vươn

lên vượt qua mọi khó khăn thư thách,thông minh ,tài sáng tạo.
Chủ nghĩa yêu nước là truyên thống tư tưởng tình cảm cao quý nhất.Chính
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc dục Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước đấu tranh giải phóng dân tộc.Cũng chính từ thực tiển đó Hồ
Chí Minh đã đúc kết thành chân lý”dân ta có một làng nồng nàn yêu nước.Đó
là truyền thống quý báu của ta.Từ xưa đến nay mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng
thì tinh thần ấy lại sôi nổi,nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ ,to
lớn,nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn,nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và cướp nước”
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Đó là sư kết hợp giữa các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với
thành tựu văn hóa phương Tây để góp phần hình thành nhân cách văn hóa
Hồ Chí Minh.
Văn hóa phương Đông đối với Hồ Chí Minh là sự chắt lọc lấy những gì tinh
túy nhất trong các học thuyết triết học,trong tư tưởng của Lảo Tử,Mặc
Tử,Quản Tử Người còn tiếp thu những mặt tích cực của Nho Giáo.Về Phật
Giáo,Hồ Chí Minh tiếp thu va fchiuj ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha,từ
bi bác ái,cứu khổ cứu nạn,thương người là nếp sống có đạo đức trong
sạch,giản dị.Không những thế Người còn tiếp tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam
Dân của Tôn Trung Sơn .
Cùng với tư tưởng triết học phương Đông,Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tiếp
thu ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng phương
Tây.Nhìnchung lại,trên hành trình yêu nước Hồ Chí Minh đã tự làm giàu trí
tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại.Cùng với đó là sự suy nghĩ,lựa
chọn ,kế thừa,đổi mới vân dụng và phát triển.
- Chủ nghĩa Mác-Lê Nin
Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lê Nin trên nền tảng của tri thức văn
hóa tinh túy được chắt lọc và một vốn chính trị,hiểu biết vô cùng phong phú
được Người tích lũy qua thực tiễn hoat động đấu tranh vì mục tiêu giải phóng
dân tộc khọi áp bức nô lệ.

Từ những nhân thức ban đầu về chủ nghĩa Lê Nin,Hồ Chí Minh đã tiến dần
tới những nhận thức “lý tính”trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn đẻ rồi tiếp
thu học thuyết của họ một cách có chọn lọc,không sao chép giáo điều.Người
tiếp thu bằng cách nắm lấy tinh thần bản chất để vân dụng vào thục tiễn
cách mạng Việt Nam.
2.Cơ sở chủ quan
- Khả năng tư duy và trí tuệ thiên tài của Hồ Chí Minh .
Suốt những năm tháng hoạt động bôn ba trên thế giới Người đã không
ngừng quan sát,nhận xét thực tiễn,làm phong phú thêm sự hiểu biết của
mình để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý luận
của Người sau này.
Trong quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã khám phá ra các quy
luật vận động xã hội đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc
trong hoàn cảnh cụ thể khái quát thành lý luận và vận dụng vào thực
tiễn.Nhờ vậy mà lý luận của Người mang tính khách quan,cách mạng và
khoa học.
- Phấm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
Phẩm chất và tài năng đó được biểu hiện trước hết ở tư duy đối lập,tự chủ
sáng tạo với sự sáng suốt tinh tường của Người.Phẩm chất và tài năng ấy
cũng được thể hiện ở bản lĩnh kiên định,kiêm tốn,giản dị,ham học hỏi của
Người.Hồ Chí Minh vì thế đã trở thành anh hung giải phóng dân tộc,lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Người còn là một nhà yêu nước chân chính,một chiến sĩ nhiệt thành với cách
mạng,một trái tim yêu nước thương dân,sẵn sang hi sinh vì độc lập tự do
của Tổ Quốc.Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng của Người đã trở thành tư tưởng
Việt Nam hiện đại của mọi thế hệ hôm nay và mai sau.
CHƯƠNG I.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I.MỤC TIÊU CỦA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1.Tính chất,nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc

Sau một quá trình tìm hiểu và phân tích,Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự phân
hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như ở các nước
tư bản phương Tây.Các giai cấp ở thuộc địa đều có chang một số phận giống
nhau là mất nước,chịu làm nô lệ,nếu như mâu thuẫn ở các nước tư bản chủ
nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thì mâu thuẫn
chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp
bức với chủ nghĩa thực dân.
Hồ Chí Minh đã phân tích:“xã hội phương Đông ,Ấn Độ hay Trung Quốc xét
về mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ
cũng như thời cận đại,và đấu tranh giai cấp không quyết liệ bằng ở đây”.Do
mâu thuẫn chủ yếu khác nhau nên tính chất cuộc đấu tranh cách mạng cũng
khác nhau,nếu như ở các nước tư bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu
tranh giai cấp thì ở các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,trên
hết,trước hết của cách mạng Việt Nam. Giải phóng dân tộc,xét về thực chất
là đánh đổ ách thống trị,áp bức,xâm lược của đế quốc thực dân giành độc
lập dân tộc,hình thành nhà nước dân tộc,độc lập và tự do lựa chọn con
đường phát triển của dân tộc phù hợp với xu thế phát triển của thời đại,tiến
bộ xã hội.Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân
tộc,trong phong trào cộng sản quốc tế có quan điển cho rằng “vấn đề cơ bản
của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân”. Và chủ trương vấn đề ruộng
đất,nhấn mạnh đấu tranh giai cấp
Ở các nước thuộc địa nông dân là nạn nhân chính của chính sách khai thác
thuộc địa,bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất,vì thế kẻ thù số một của
nông dân là bọn đế quốc thực dân.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc,quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.Trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”Nguyễn Áí Quốc đã nhấn mạnh tính chất và
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc,Người nói rõ: “giai

cấp nông dân là số lượng lớn nhất trong dân tộc nên giải phóng dân tộc chủ
yếu là giải phóng nông dân,nông dân có yêu cầu về ruộng đất.Khi tiến hành
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc,yêu cầu đó cũng phần nào được đáp ứng vì
ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân.Đế quốc và tay
sai là kẻ thù số một của nông dân,lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng
hàng đầu của nông dân.Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
càng được thể hiện rõ hơn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do
Nguyễn Áí Quốc soạn thảo.Tại hội nghị lần thư 8 ban chấp hành trung ương
Đảng(5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã quyết định thành lập mặt trận Việt
Minh thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công-nông,giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc,nhấn mạnh đó là nhiện vụ bức thiết nhất,chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và chỉ tiến hành nhiêm vụ
đó ở một mức độ nhất định,thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải
phóng dân tộc.Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,Người cũng đã nêu rõ
và khẳng định “trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi,thông nhất,độc lập
nhất định thành công”.Đó không những là quyết tâm mà còn là nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam bấy giờ.
2.Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi Nguyễn Áí Quốc tìm ra con đường cứu nước,tin tưởng vào chủ nghĩa
Mac_Lênin và quốc tế thứ 3 thì mục tiêu giải phóng dân tộc ngày càng được
thể hiện rõ hơn.mục tiêu cấp thiết của câchs mạng thuộc địa chưa phải là
giành quyền lợi riêng biệt cũa mổi giai cấp mà quyền lợi chung của toàn dân
tộc.đó là những mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc,phù hợp với xu
thế của mỗi thời đại cách mạng chống đế quốc.
Tuy nhiên do những hạn chế trong nhận thức và thực tiễn của cách mạng
thuộc đia,lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều,tả khuynh nhấn mạnh
chiều đấu tranh giai cấp.hội nghị lần thứ nhất ban chấp hành trung ương
đảng(10/1930) đả phê phán những quan điểm của Nguyển Áí Quốc,nhưng

với bản lĩnh cách mạng kiên cường bám sát thực tiễn Viêt Nam,kiên quyết
chống giáo điều,tại Hội nghị lần thứ Tám ban chấp hành Trung Ương Đảng
chủ trương thay đổi chiến lược từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang đấu
tranh giải phóng dân tộc,hội nghị khẳng định cuộc cách mạng Đông Dương là
hiện tại không phải là cuôc cách mạng tư sản dân quyền,cuộc cách mạng
phải giải quyết hai vấn đề:phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng
chỉ giải quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng” vậy thì cuộc cách
mạng Đông Dương trong giai đoạn hiên tại là một cuộc cách mạng giải
phóng”.
Cuối cùng thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 cũng như thắng lợi năm
1975 đã khẳng định dược đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng
độc lập,tư do của Hồ Chí Minh.đem lại kết quả vô cùng ý nghĩa cho cách
mạng Việt Nam.
II.CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC-CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ
SẢN
1.Con đường cứu nước của thế hệ đi trước
Giửa thế kỈ XX,chế độ phong kiến ở Việt Nam,do triều đình nhà Nguyễn đại
diện,đang trong quá trình khủng hoảng trầm trọng và suy vong,biểu hiện cụ
thể và tập trung là sự bộc phát kịch liệt của chiến tranh nông dân trên phạm
vi cả nước.
Sau một quá trình điều tra lâu dài,sáng ngày 1/9/1958 thực dân Pháp đả nổ
súng xâm lược Viêt Nam.
Trước sự xâm lược trắng trợn đó,đòi hỏi giai cấp phong kiến cầm quyền phải
có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của dân tộc.Nhưng ngay từ đầu giai cấp
đó đã trở nên hèn nhát và bất lực,nhanh chóng phân hóa,từng bước nhượng
bộ,để cuối cùng đầu hàng toàn bộ.
Đối với thái độ triều đình nhà Nguyễn,nhân dân cả nước đã sôi nổi vùng dậy
chống giặc ngay nhửng ngay đầu khi chúng xâm phạm bờ cõi thiêng liêng
của Tổ quốc.Phong trào nhân dân kháng chiến ngày một dâng cao trong đó
yêu cầu chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến ngày

càng trở nên cần thiết và tất yếu.với bản hiệp ước ô nhục được kí kết ngày
6/6/1884 triều đình nhà Nguyễn vì lợi ích riêng ích kỉ,thiển cận giai cấp sợ
mất ngôi hơn là sợ mất nước,đã nhượng bộ và thỏa hiệp với đế quốc,cấu kết
với đế quốc chống lại nhân dân đứng lên chống đế quốc đế cưu nước.
Vượt lên tình hình bất lợi đó,nhân dân ta vân anh dũng đứng lên đẩu
tranh,phong trào Cần Vương(1885-1896) dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu
yêu nước chống thực dân Pháp trở nên rầm rộ trong cả nước kéo dài gần
trọn 20 năm cuối thế kỉ XIX nói về phong trào cần vương,đồng chí Lê Duẩn
đả vạch rõ”một bộ phận của phong kiến,một số sỉ phu trí thức thấy rõ quyền
lợi của phong kiến chỉ là quyền lợi làm tay sai cho đế quốc,nên đã đứng lên
chống đế quốc pháp,nhưng tinh thần phản đế cứu nước mạnh mẽ trong tầng
lớp này không phải căn bản dưa trên sinh lực một phần nào đó của chế độ
phong kiến còn sót lại,mà chính là tinh thần độc lập của dân tộc,cơ sở văn
hóa ngàn năm của dân tộc,đang sinh sống trong những người trí thức dân
tộc,trong quần chúng lao động bôt phát dưới ngọn cờ Cần Vương”.
Nhưng các sĩ phu cuối thế kỉ XIX như Phan Đình Phùng,Ngô Xuân Ôn,
Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Bích tuy giàu lòng yêu nước căm thù sâu
sắc bọn Pháp xâm lược, đều xuất than tứ giai cấp phong kiến đả mất vai trò
lịch sử nên không có thời gian thống nhất toàn bộ đấu tranh dân tộc về một
mối.cũng trong các thời kì đó bên cạnh các phong trào do họ cầm đầu vẩn có
các cuộc đấu tranh tự giác của nông dân,với đỉnh cao là của nông dân Yên
Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo(1885-1913).
Cuối cùng phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỉ XIX của nhân dân ta đã
bị dập tắt trong biển máu.kẻ thù trên đà thăng thê nhưng vẫn kinh
hoàng,nhìn nhận mọt thực tế vô cùng nguy hiểm đối với chúng: “chúng ta
không biết rằng việt nam là một dân tộc kiên cường ,gắn bó với lịch sử riêng
của mình,với những thể chế riêng và thiết tha với nền độc lập của
mình.chúng ta không biết rằng trong các thế kỉ trước việt nam chưa bao giờ
chịu khuất phục trước kẻ xâm lược,tình trạng của chúng ta là rất đổi khủng
khiếp,vì chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất mà ý thức dân

tộc của họ không hề bị suy yếu”.
Sự thất bại đau thương của các phong trào trên bộc lộ một tình trạng khủng
hoảng trầm trọng về sự lãnh đạo,những sỉ phu yêu nước chống thực dân
pháp cuối thế kỉ XIX bị điều kiện giai cấp và giai cấp hạn chế,nên trong khi
dựng cơ khởi nghĩa cứu nước,họ vẩn mang ngọn cờ phong kiến đả suy
đồi,không còn tiêu biểu cho dân tộc,một chế độ phong kiến dù độc lập,với
những điều kiện lịch sử của Việt Nam lúc đó thì không còn thích hợp nữa.Vì
vậy chỉ sau một thời kì phát triển bồng bột buổi đầu,phong trào đã dần dần
trở nên rời rạc,lẻ tẻ và cuối cùng tan rã.Nó tuyệt nhiên không có điều kiện
mở rộng để phát triển thành một cao trào cách mạng sôi nổi,khả dĩ đánh đổ
được bọn đế quốc xâm lược,lật đổ được bạn phong kiến tay sai để khôi phục
được nền độc lập của dân tộc và mang lại ruộng đất cho nông dân.Phong
trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỉ XIX thất bại đã kết thúc thời kì xâm lược
và “bình định” của giăc Pháp tại Việt Nam.
Thế kỉ XX mở màn chà đạp lên gót dày còn rỉ máu của phong trào kháng
chiến của nhân dân ta vừa thất bại,bọn tư bản Pháp bắt tay ngay vào việc
khai thác bóc lột để biến Việt Nam thành thuộc địa bảo đảm lợi nhuận cao
nhất cho chúng.Đợt khai thác bóc lột thuộc địa Việt Nam lần thứ nhất bắt
đầu trên quy mô cả nước,với một tốc độ nhanh,có tính hệ thống,đã gây
nhiều biến đổi cho cách mạng Việt Nam về các mặt.Một phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa dưới hình thái thực dân đã được du nhập vào nước
ta,đồng thời quan hệ bóc lột phong kiến vẫn được duy trì ở nông thôn,cơ cấu
xã hội bắt đầu thay đổi nhưng lực lượng xã hội mới hình thành và phát triển
cùng với sự phân hóa giai cấp cũ,bộ mặt các thành thị cũng đổi khác,kéo
theo luôn sự thay đổi của ý thức xã hội,của đời sống con người.
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách
mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con
đường đó.

2.Con đường giải phóng dân tộc-con đường cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế ki XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân
tộc phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách
quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành
các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước
mới.
Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và
cảm động". Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta"1. Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lênin
một con đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Đầu năm 1923, trong Truyền đơn cổ động mua báo Người cùng khổ (Le
Paria), Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi
người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc "2.
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lựa chọn con đường cách
mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con
đường đó.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm
những nội dung chủ yếu sau:
- Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước "đi tới xã
hội cộng sản".
- Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của
nó là Đảng Cộng sản.
- Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
- Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế dưới ngọn cờ tư tưởng
III.ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI,MỘT NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH
CỦA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đầu những năm 1920 đã
chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh hùng của dân tộc ta chống
đế quốc Pháp xâm lược.Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì
chưa có một đường lối cứu nước đúng đắn.
1.Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Trong vòng 7 tháng,từ ngày 17-06-1929 đến ngày 01-01-1930,ở nước ta đã
xuất hiện 3 tổ chức cộng sản:Đông Dương cộng sản Đảng,An Nam cộng sản
Đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn.Các tổ chức cộng sản ra đời là hợp
với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc và thời đại.
Sau khi ra đời,3 tổ chức cộng sản đã có sự tranh giánh ảnh hưởng,tranh
giành quần chúng và công kích lẫn nhau.Đây là mâu thuẫn trong quá trình
phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam.Tình hình ấy phản ánh sự
ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái,tiểu tư sản.Trong phong trào công nhân và
phong trào yêu nước ở thuở ban đầu Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam
cộng sản Đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất đồng
những vẫn không giải quyết được.Đông Dương cộng sản lien đoàn chưa có
ban chấp hành Trung ương của lien đoàn.
Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy
cần phải sớm khắc phục hiện tượng này:thành lập một Đảng cộng sản thống
nhất thực sự mác xít,leninnit để lãnh đạo cách mạng tiến lên giành thắng lợi
Trước tình hình ấy,quốc tế cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản ở
Đông Dương yêu cầu thống nhất lại thành một Đảng duy nhất.Bức thư nêu
rõ:”cho tới nay quá trình thành lập một Đảng cộng sản là rất chậm so với sư
phát triển của phong trào cách mạng Đông Dương.Việc thiếu một Đảng cộng
sản duy nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày

càng phát triển,đã trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước
mắt của cuộc cách mạng ở Đông Dương”.Trong thư còn nêu rõ:”nhiệm vụ
quan trọng nhất và cấp bách nhất cua tât cả những người công sản Đông
Dương là thành lập một Đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp
vô sản,nghĩa là một Đảng cộng sản có tính quần chúng ơ Đông Dương.Đảng
đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương.
Từ ngày 06-01 đến ngày 07-02-1930 hội nghị hợp nhất được tiến hành tại
nhà một người công nhân lao động nghèo ở bán đảo Cửu Long gần Hương
Cảng.
Tham dự hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương cộng sản Đảng là Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh và hai đại biểu của An Nam cộng sản Đảng là
Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm.Đông Dương cộng sản lien đoàn vì thaanhf
lập muộn hơn nên không kịp cử đại biểu đến dự.Hội nghị tiến hành dưới sự
chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc,đại biểu của quốc tế cộng sản.
Sau một quá trình làm việc khẩn trương các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí
tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về thong nhất các Đảng phái
hiện có trong nước thành một Đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Hồ Chí Minh đã xây dưng được một đảng cách mạng tiên phong,phù hợp với
thực tiễn Việt Nam,gắn bó với nhân dân,với dân tộc,một lòng phụng sự nhân
dân,được nhân dân,được dân tộc thừa nhận là đọi tiên phong của mình.
Theo Hồ Chí Minh,Đảng cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân,của nhân dân lao đọng và của dân tộc Việt Nam.Kết hợp với lý luận
Mác-Lê Nin về Đảng Công Sản với thực tiễn cách mạng Việt Nam,Hồ Chí
Minh đã vân dụng và phát triển sang tạo chủ nghĩa Mác-LêNin trên một loạt
vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc,xây dựng nên một lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc.Hồ Chí Minh cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam là
“Đảng của giai cấp vô sản” đồng thời là “Đảng của dân tộc Việt Nam”.Khi
khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam Hồ Chí Minh đã nêu một luân điểm quan trọng bổ sung thêm

cho lý luận của chủ nghĩa Mác-LêNin về Đảng cộng sản định hướng cho việc
xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân,với nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực
lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt
Nam.Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của Đảng.Nhờ đó ngay
từ khi mới ra đời,Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối vởi cách mạng
và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
2.Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Với tư tưởng độc lập tự chủ tự lực tự cường và với nhãn quan chính trị mẫn
cảm,sắc bén,Hồ Chí Minh đã vận dụng đường lối của Quốc tế cộng sản một
cách sang tạo vào điều kiện nước ta.Những đường lối quan điểm chiến lược
và sách lược cách mạng đúng đắn,sáng tạo của Người đã được thể hiện
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Về đánh giá tình hình và tính chất cách mạng Việt Nam,cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã phân tích sâu sắc tính chất xã hội nước ta là một nước thuộc
đia,nửa phong kiến.Trong xã hội đó nổi bật lên hai mâu thuẩn cơ bản ngày
càng gay gắt.đó là mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và
mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân đông đảo,chủ yếu là nông dân với địa
chủ phong kiến.
Muốn giải quyết mâu thuẩn đó,mở đường cho dân tộc ta đi đến tự do,hạnh
phúc nhân dân ta phải tiến hành đấu tranh cách mạng đánh đổ hai đối tượng
của cách mạng là:đánh đổ đế quốc thực dân pháp giành độc lập dân tộc và
đánh đuổi giai cấp địa chủ,thực hiện khẩu hiệu”người cày có ruộng” giải
quyết vấn đề yêu cầu ruộng đất cho nông dân.
Về mục tiêu và mục đích của cách mạng cương lĩnh thể hiện ở hai cấp độ cho
một cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa.Ở giai đoạn đầu,mục tiêu của
nó là tiến hành cách mạng chính trị lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay
sai của chúng,giành độc lập tự do dân chủ cho nhân dân,Mục đích cuối của

cách mạng là”đi tới xã hôi công sản”
Theo Hồ Chí Minh,cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ
nghĩa liên quan mật thiết nội tại với nhau,ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau
,cuộc vận động trước thành công làm tiền đề cho cuộc vận động sau thắng
lợi.đó là cuộc vận động giải phóng dân tôc về mặt chính trị và cuộc vận động
giải phóng dân tộc về kinh tế.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong cách mạng Việt Nam.Cương lĩnh đả trả lời đúng những vấn đề cấp
bách mà phong trào cách mạng Việt Nam đặt ra.Nó là vũ khí sắc bén chống
lại những tư tưởng và hành động trái với chủ nghỉa Mác_Lênin tính cách
mạng triệt để chứa đựng trong cương lĩnh là sự phát triển tiếp tục luận điểm
nổi tiếng của Hồ Chí Minh từ gần mười năm trước khi thành lập Đảng”chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc”.Cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa công sản và cuộc cách
mạng thế giới.
IV.VAI TRÒ VÀ SỨC MẠNH CỦA YẾU TỐ DÂN TỘC TRONG TƯ TƯỞNG
CỨU NƯỚC CỦA HỒ CHÍ MINH
1.Yếu tố dân tộc trong cách mạng Việt Nam
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-LêNin đã chỉ rõ mối quan hệ không thể
tách rời giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp,cũng như giữa dân tộc và
dân chủ.Song căn cứ tình hình ở các nước tư bản phương Tây giữa thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX mà Mác,Ăngghenc cũng như LêNin đều coi trọng yếu tố giai
cấp hơn,đều lấy sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản làm nhiệm vụ trung
tâm và điều kiện cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và thuộc
địa,Mác,Ăngghen viết: “hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xóa bỏ.Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các
dân tộc cũng đồng thời mất theo”.
Vận dụng học thuyết cách mạng vô sản của Mác vào hoàn cảnh chủ nghĩa tư
bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc và từ thực tiễn phong trào cách

mạng thuộc địa những năm đầu thế kỉ XX,LêNin đã chú ý nhiều hơn đến vấn
đề dân tộc.Tại đại hội lần thứ II của Quốc tế Cộng sản(1920),LêNin đề xuất
thay danh từ “dân chủ tư sản” bằng “dân tộc cách mạng”.Theo ông,ý nghĩa
của việc thay thế ở chổ những người cộng sản phải ủng hộ và chỉ ủng hộ
những phong trào giải phóng có tính chất tư sản trong các nước thuộc
địa.Nhưng với 2 điều kiện:một là,phong trào đó thực sự cách mạng;hai
là,những lãnh tụ của phong trào đó không ngăn cản những người cộng sản
tuyên truyền,giáo dục và tổ chức quần chúng theo tinh thần cách
mạng.LêNin chỉ rõ: “nếu không có được những điều kiện như thế thì những
người cộng sản ở trong nước đó phải đấu tranh chống giai cấp tư sản cải
lương,trong đó có cả những anh hùng của quốc tế II”.Căn cứ vào 2 điều kiện
đó mà LêNin đã ủng hộ và giúp đỡ Tôn Dật Tiên và cách mạng Tân Hợi ở
Trung Quốc.Đại hội lần thứ VI Quốc tế cộng sản (1928) đã tổng kết phong
trào cách mạng thuộc địa và khẳng định yếu tố dân tộc có ảnh hưởng rất lớn
đối với quá trình cách mạng của tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Để phát huy yếu tố dân tộc khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam,Người
chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng,các lực lượng và các cá
nhân yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh chống đế quốc và tay
sai,giải phóng dân tộc để tới xã hội cộng sản.
2.Yếu tố dân tộc là một động lực lớn của cách mạng Việt Nam
Trong khi nhiều người cộng sản thì phê phán chủ nghĩa dân tộc,đánh giá chủ
nghĩa dân tộc là sản phẩm và thành quả của giai cấp tư sản thì từ 1924,Hồ
Chí Minh đã viết: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”.Bằng
câu nói đó,Người đã phân biệt chủ nghĩa dân tộc của các dân tộc thuộc địa
và chủ nghĩa dân tộc tư bản.Theo Hồ Chí Minh,các dân tộc thuộc địa bị chủ
nghĩa tư bản đế quốc tước mất quyền độc lập tự do,tước mất quyền làm
người.Vì thế họ phải đấu tranh giành lại cái mà họ bị tước đoạt.Khái niệm
“chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”mà Người dùng để đối lập
với chủ nghĩa dân tộc mà chủ nghĩa tư bản thường rêu rao.Người viết:
“Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908,nó dạy cho người

culi biết phản đối,nó làm cho người nhà quê phản đối ngầm trước thuê tạp
dịch và thuế muối.Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà
buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc;nó đã thúc
dục thanh niên bãi khóa,làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản
và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917”.
Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa dân tộc đồng nghĩa với chủ nghĩa yêu nước,chủ
nghĩa dân tộc chân chính,cần được khơi dậy và phát huy theo tinh thần vô
sản.Người dự báo “nhất định chũ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa
quốc tế.”
V.LIÊN MINH CÔNG NÔNG TRI THỨC LÀ NỀN TẢNG CỦA MẶT TRẬN
1.Liên minh công nông và đôi ngũ trí thức trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân
Đảng Cộng Sản vạch ra cương lĩnh đúng là vấn đề có ý nghĩa quyết định
hàng đầu đối với thắng lợi của cách mạng.Song,muốn đưa cách mạng đến
thắng lợi hoàn toàn,Đảng còn phải xây dựng lực lượng cách mạng hùng
hậu,mà trong đó quan trọng hơn cả là xây dựng mối liên minh công
nhân,giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức cách mạng.Dựa vào khối liên
minh này,Đảng mới đoàn kết được các lực lượng tiến bộ làm cho cuộc cách
mạng mang tính chất nhân dân.
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,Người xác định cách mạng bao
gồm cả dân tộc:Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân.tập hợp
đại bộ phận nông dân và phải dựa vào dân cày nghèo,lãnh đạo nông dân
làm cách mạng ruộng đất ,lôi kéo tiểu tư sản,trí thức,trung nông…đi vào phe
vô sản giai cấp:đối với phú nông,trung,tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lơi dụng,ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lâp.Bộ phân nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh rằng vấn đề
nông dân,công nhân chẳng những là nội dung cơ bản của cách mạng dân tộc
dân chủ,mà còn là lực lương co ý nghĩa quyết định đối với việc xác lập vai trò
lảnh đạo của Đảng ta,phương pháp cách mạng trong việc giành và giử chính

quyền .Người khẳng định:công nông”là gốc cách mệnh” khẳng định vai trò
động lực cách mạng của thức của những nhà yêu nước trước đó.
Liên minh công nông và đôi ngũ trí thức là môt nguyên tắc chiến lược của
chủ nghĩa Mác_Lenin ,một tất yếu phổ biến đối với các cuộc cách mạng do
Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo.Liên minh này đặc biệt có tầm quan trọng
đối với cách mạng nước ta nhất là ở chặng đường đầu của thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Hơn 45 năm tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,Đảng ta đã dày
công xây dựng khối liên minh công nông và đội ngũ trí thức cách mạng.Đảng
chú ý giáo dục tinh thần yêu nước của chủ nghĩa Mác-Lê Nin cho công nhân
nông dân và trí thức để đoàn kết,tập hợp họ chiến đấu dưới ngọn cờ của
Đảng,chống đế quốc và tay sai.
2.Củng cố và phát triển lực lượng cách mạng
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,Đảng ta xây dựng khối
lien minh công nông và đội ngũ trí thức cách mạng trên cơ sở nhận thức và
giải quyết sớm những vấn đề cơ bản:Một là sớm nhận thức vị trí các giai cấp
trong lien minh,coi trọng khả năng cách mạng của đội ngũ trí thức.Hai là giải
quyết kịp thời quyền lợi thiết than của công,nông và trí thức.Ba là xác định
đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng.
- Sớm nhận thức vị trí các giai cấp trong liên minh.
Thấm nhuần học thuyết Mác-LêNin,những người cộng sản Việt Nam sớm
khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt
Nam.Giai cấp công nhân Việt Nam tồn tại và trưởng thành trước giai cấp tư
sản Việt Nam và bước lên vũ đài chính trị sau cách mạng tháng Mười Nga đã
giành được thắng lợi và giai cấp tư sản ở nhiều nước đã vứt bỏ ngọn cờ dân
tộc.Chính bối cảnh chính trị thế giới ấy đã làm cho giai cấp công nhân Việt
Nam có them uy tín chính trị để giương cao ngọn cờ lãnh đạo dân tộc làm
cách mạng giải phóng,giành độc lập dân chủ theo con đường mới.
Điều quan trọng hơn là giai cấp công nhân Việt Nam sớm chủ nghĩa Mác-
LêNin,có lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng tiền phong đáp ứng yêu cầu đòi hỏi

của dân tộc và giai cấp.Sau khi ra đời Đảng đã lập ra tổ chức công hội,hội
văn hóa cứu quốc và đoàn thể thanh niên,phụ nữ…để giáo dục,tổ chức công
nhân,trí thức và các từng lớp lao động khác.Đánh giá về giai cấp công nhân
Việt Nam,chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:“chỉ có giai cấp công nhân là
dũng cảm nhất,cách mạng nhất,luôn luôn gan góc đối đầu với bon thực
dân.Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản
quốc tế,giai cấp công nhân đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và
đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”.
Hồ Chí Minh và những người công sản Việt Nam thấu hiểu điều mong muốn
tha thiết của nông dân.Từ khi thành lập,Đảng cộng sản Việt Nam đã chủ
trương lãnh đạo dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh đổ bọn đại địa
chủ và phong kiến.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm cho phong trào nông dân từng bước xích lại gần với phong trào
công nhân.
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cộng sản sớm coi trọng yếu tố dân tộc,đồng thời
cũng là người đề cao sức mạnh dân tộc.Người cho rằng dân khí mạnh thì
quân lính nào,súng ống nào cũng không chống lại nổi.Khi thành lập
Đảng,Người vạch ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng,trong đó nêu cao
tư tưởng đoàn kết dân tộc,đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng bao
gồm:công nhân,nông dân,tiểu tư sản trí thức,trí thức,tư sản dân tộc và cá
nhân yêu nước thuộc tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ đứng dưới ngọn cờ của
Đảng đấu tranh cho độc lập dân tộc,dân chủ“để đi tới chủ nghĩa cộng
sản”.Khi được Quốc tế cộng sản phân công về phụ trách cách mạng Đông
Dương và chủ trì hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng Người kêu gọi
phát huy cao độ yếu tố dân tộc để đấu tranh giải phóng khỏi ách phát xít
Nhật,Pháp.
Chủ trương tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh phản ánh tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc của Người.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ

Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm "lấy dân làm gốc"
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Người đặt niềm tin ở
truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định:
"Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được
lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta".
Khi phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (tháng 12-
1946), Người kêu gọi toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có
trong tay: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng
gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước".
Kêu gọi toàn dân kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định:
Chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam
yêu nước. "Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, thực sự là cuộc chiến tranh
nhân dân". "31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải
là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối
cùng". Ngày 9-4-1965, trả lời phóng viên báo Acahata (Nhật Bản) Hồ Chí
Minh khẳng định, trong thời đại chúng ta, một dân tộc đoàn kết chặt chẽ,
đấu tranh kiên quyết, hoàn toàn có thể đánh bại bọn đế quốc xâm lược hung
hãn, gian ác và có nhiều vũ khí.
Xuất phát từ tương quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ Chí
Minh không chủ trương tiến hành kiểu chiến tranh thông thường, chỉ dựa vào
lực lượng quân đội và tiến hành một số trận quyết tử với kẻ thù, mà chủ
trương phát động chiến tranh nhân dân.
Kháng chiến toàn dân gắn với kháng chiến toàn diện. Lực lượng toàn dân là
điều kiện để đấu tranh toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc. Hồ
Chí Minh nói: "Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng
phó, không thể nào thắng lợi được".
Trong chiến tranh, "quân sự là việc chủ chốt", nhưng đồng thời phải kết hợp

chặt chẽ với đấu tranh chính trị. Theo Người, thắng lợi quân sự đem lại thắng
lợi chính trị, thắng lợi chính trị sẽ làm cho thắng lợi quân sự to lớn hơn.
Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, có tác
dụng thêm bạn bớt thù, phân hóa và cô lập kẻ thù, phát huy yếu tố chính
nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ quốc tế
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa - vì độc lập tự do, làm cho
khả năng tiến hành chiến tranh nhân dân trở thành hiện thực, làm cho toàn
dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí
Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng
chiến thắng lợi, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ trong 30 năm chiến
tranh cách mạng Việt Nam, làm nên thắng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu
sắc. . Hồ Chí Minh chủ trương: "vừa đánh vừa đàm", "đánh là chủ yếu, đàm
là hỗ trợ".
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, phát triển
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Người kêu gọi "hậu phương thi đua
với tiền phương", coi "ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà
nông là chiến sĩ", "tay cày tay súng, tay búa tay súng, ra sức phát triển sản
xuất để phục vụ kháng chiến".
VI. CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC PHẢI ĐƯỢC TIẾN HÀNH BẰNG
CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG BẠO LỰC
1.Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm
lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để
giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.
Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ
Chí Minh cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp
và của dân tộc,cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách

mạng,giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng.Hình
thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang, nhưng phải "tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu
tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu
tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành thắng lợi cho cách mạng".
Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ
vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại
những âm mưu quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang
không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách
mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có
cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ
trang.
Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người
tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải
quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng,
chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành các hội nghị Việt - Pháp và ký các hiệp định trong năm 1946
là thể hiện tư tưởng nhân đạo và hòa bình của Hồ Chí Minh. Theo Người, tinh
thần thiện chí của Việt Nam khi ký hiệp ước còn giá trị hơn mọi văn bản và
lời nói, vì chúng ta bảo đảm những lợi ích tinh thần, văn hóa và vật chất của
Pháp, và ngược lại, Pháp phải bảo đảm nền độc lập của chúng ta. Một chữ
"Độc lập " là đủ để đưa lại một sự tín nhiệm đang cần được khẳng định. "Tôi
không muốn trở về Hà Nội tay không. Tôi muốn khi trở về nước sẽ đem về
cho nhân dân Việt Nam những kết quả cụ thể với sự cộng tác chắc chắn mà
chúng tôi mong đợi ở nước Pháp".
Sau khi miền Bắc nước ta được giải phóng, Người kiên trì yêu cầu đối
phương thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, thực hiện hiệp

thương tổng tuyển cử thống nhất nước nhà.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không
còn khả năng thương lượng, hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập
trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh
mới kiên quyết phát động chiến tranh.
2.Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng
dân tộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,
Người nói: "Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị
nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng"1, "Trường kỳ kháng chiến
nhất định thắng lợi". Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít,
nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của
toàn dân. Theo Người, họa thực dân cũng như một chứng bệnh trầm trọng.
Muốn chữa bệnh ấy, ta phải thật gan dạ để chịu đau đớn khi mổ xẻ, phải có
đủ thời giờ để bồi dưỡng lại sức, kết quả nhất định tẩy trừ được bệnh ấy.
Công cuộc kháng chiến cũng như vậy. Người phân tích: "Với binh nhiều,
tướng đủ, khí giới tối tân, chúng định đánh mau thắng mau.
Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng
chiến thắng lợi với trường kỳ phải đi đôi với nhau".
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng
và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi
nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn.
Tự lực cánh sinh cũng là một phương châm chiến lược rất quan trọng, nhằm
phát huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông
chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Người chỉ
rõ: muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã.

Tháng Tám (1945) khi thời cơ tổng khởi nghĩa xuất hiện, Hồ Chí Minh kêu
gọi Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Tại Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (tháng 6-1952), Người nói,
muốn thắng lợi phải trường kỳ gian khổ, muốn trường kỳ phải tự lực cánh
sinh.
Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Hồ Chí Minh luôn đề cao sức
mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nỗ lực của dân tộc, đề cao
tinh thần độc lập tự chủ. Người nói: "Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng
thời lại phải tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình Cố nhiên sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong
chờ người khác".
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân
tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có
hiệu quả, cả về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận điểm
sáng tạo,làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp phần
vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận
Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng chính trị vô sản.Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề
dân tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa
xã hội.Vì vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một
hệ thống những luận điếm sáng tạo và lý luận đó luôn đúng đắn.Cũng chính
lý luận ấy đã làm phong phú them chủ nghĩa Mác-LêNin về cách mạng thuộc
địa.
Hồ Chí Minh đã từng bước tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc một cách
hết sức độc đáo,sáng tạo thấm nhuần tính nhân văn.Đó là phương pháp khởi

nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân.Người đã vận dụng sáng tạo và phát
triển học thuyết LêNin về cách mạng thuộc địa thành hệ thống luận điểm
mới mẽ sáng tạo.Chính Hồ Chí Minh đãlàm chuyển hóa tính cách mạng từ
việc tập hợp các thanh niên yêu nước dẫn dắt họ đi theo đất nước.Chúng ta
phải biết khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước trên lập trường giai cấp
công nhân,cùng nhau xây dựng mối đoàn kết toàn dân,giữa các dân tộc an
hem.Góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh dân chủ công bằng xã hội văn
minh,sánh vai được với các cường quốc trên thế giới
PHỤ LỤC :ĐỂ LÀM BÀI TIỂU LUẬN CHÚNG TÔI CÓ SỬ DỤNG CÁC TÀI LIỆU
1.GIÁO TRÌNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC,CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ

×