Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công theo pháp luật việt nam và một số quốc gia khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 78 trang )

NGUYỄN HƯƠNG GIANG
MSSV: 1953801090026

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CĨ MỘT
BÊN LÀ CHỦ THỂ CƠNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn:
TS. Lê Thị Ngọc Hà
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2023


NGUYỄN HƯƠNG GIANG
MSSV: 1953801090026

THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CĨ MỘT
BÊN LÀ CHỦ THỂ CƠNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Niên khóa: 2019 - 2023

Người hướng dẫn:
TS. Lê Thị Ngọc Hà
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2023



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Ngọc Hà, đảm bảo tính trung thực và tuân
thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 6 năm 2023
Tác giả

Nguyễn Hương Giang


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

TTTM

Trọng tài thương mại

PPP

Đầu tư theo hình thức đối tác công tư


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CĨ MỘT BÊN LÀ CHỦ THỂ
CƠNG .............................................................................................................................. 6
1.1. Khái quát về hợp đồng có một bên là chủ thể cơng .......................................... 6
1.1.1. Khái niệm hợp đồng có một bên là chủ thể công .......................................... 6
1.1.2. Đặc điểm hợp đồng có một bên là chủ thể cơng ........................................... 9
1.2. Khái quát về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ................. 13
1.2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài ........................................ 14
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài........................................ 15
1.3. Một số vấn đề trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể
công bằng trọng tài ................................................................................................... 17
1.3.1. Về thẩm quyền của trọng tài đối với tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ
thể cơng ................................................................................................................... 17
1.3.2. Về lợi ích công cộng và nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên
................................................................................................................................. 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ............................................................................................. 21
CHƯƠNG II. THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG CĨ MỘT BÊN LÀ CHỦ THỂ CƠNG THEO PHÁP LUẬT
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI ......................................................... 22
2.1. Thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể
cơng của trọng tài ...................................................................................................... 22
2.1.1. Quốc gia và quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng có một bên là chủ thể
công và thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan của trọng tài ..................... 22
2.1.2. Lý giải việc trọng tài có thẩm quyền giải quyết tất cả tranh chấp liên quan
................................................................................................................................. 29
2.1.3. So sánh và bình luận .................................................................................... 31


2.2. Thẩm quyền giải quyết một số loại tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ
thể cơng của trọng tài ............................................................................................... 32

2.2.1. Quốc gia và quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng có một bên là chủ thể
cơng và thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan của trọng tài ..................... 32
2.2.2. Lý giải việc trọng tài có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp liên quan
................................................................................................................................. 40
2.2.3. So sánh và bình luận .................................................................................... 40
2.3. Trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên
là chủ cơng ................................................................................................................. 41
2.3.1. Quốc gia và quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng có một bên là chủ thể
công và thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan ........................................... 41
2.3.2. Lý giải việc trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan
................................................................................................................................. 45
2.3.3. So sánh và bình luận .................................................................................... 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG II............................................................................................ 48
CHƯƠNG III. THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN LÀ CHỦ THỂ CƠNG TẠI VIỆT
NAM VÀ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT LIÊN QUAN 49
3.1. Thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên
là chủ thể công tại Việt Nam .................................................................................... 49
3.1.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công bằng
phương thức trọng tài ............................................................................................ 49
3.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên
là chủ thể cơng ........................................................................................................ 50
3.1.3. Quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam điều chỉnh hợp đồng có một bên
là chủ thể cơng và thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
liên quan ................................................................................................................. 52
3.1.4. Lý giải về cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam ........................................ 56
3.1.5. So sánh và bình luận .................................................................................... 57


3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của trọng tài trong

giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng ................................ 59
3.2.1. Về cơ sở xác định thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp
đồng có một bên là chủ thể công ........................................................................... 59
3.2.2. Quy định về phạm vi thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp
hợp đồng có một bên là chủ thể cơng .................................................................... 60
3.2.3. Quy định điều kiện để trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp
đồng có một bên là chủ thể công ........................................................................... 61
3.2.4. Về tên gọi của Luật Trọng tài Thương mại Việt Nam ................................ 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG III .......................................................................................... 64
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, chủ thể công không chỉ là cơ quan ban hành các quyết định, văn bản
hành chính để thực hiện chức năng quản lý mà còn là một bên tham gia ký kết hợp đồng
với chủ thể tư nhân. Các hợp đồng đó bao gồm nhưng khơng giới hạn hợp đồng dịch vụ,
hợp đồng thuê mướn, hợp đồng xây dựng, hợp đồng mua sắm hàng hóa, vật dụng, hợp
đồng hợp tác đầu tư... Trong quá trình các bên tham gia thực hiện hợp đồng, chủ thể
cơng và tư đã có xảy ra tranh chấp. Hiện nay, có nhiều phương thức để giải quyết tranh
chấp hợp đồng. Bên cạnh tòa án, các bên cũng có thể lựa chọn các phương thức khác
như hịa giải, thương lượng và trọng tài. Trong đó, trọng tài là một cơ quan giải quyết
tranh chấp trong hoạt động thương mại. Các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận với nhau để
ủy thác việc giải quyết tranh chấp cho trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập.
Việc thỏa thuận trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa các thương nhân trong hoạt
động thương mại khơng có gì để tranh cãi. Tuy nhiên, đối với việc sử dụng trọng tài để
giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công lại gây ra nhiều ý kiến trái
chiều. Có ý kiến cho rằng, trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng
có một bên là chủ thể cơng vì những hợp đồng này không mang bản chất thương mại.

Tuy nhiên, quan điểm lại khác cho rằng, chủ thể công tham gia hoạt động ngoại thương
sẽ xử sự như một chủ thể trong hoạt động ngoại thương, và do đó có quyền thỏa thuận
đưa tranh chấp ra trọng tài.1
Tại Việt Nam, thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng hành
chính là vấn đề mới về lý luận và pháp lý ở nước ta. Pháp luật trọng tài Việt Nam khơng
có quy định riêng điều chỉnh thẩm quyền của trọng tài trong tranh chấp hợp đồng có một
bên là chủ thể cơng. Trong nước chưa có các cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Những
cơng trình nghiên cứu nước ngoài tập trung đưa ra cơ sở lý luận, nêu lên một số bất cập
nhưng vẫn chưa phân tích, đánh giá sự tác động, ảnh hưởng và đưa ra giải pháp khi quy
1

ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật Trọng tài thương mại, NXB Hồng Đức, tr. 123.

1


định thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ
thể cơng.
Từ nhu cầu về thực tiễn và nghiên cứu học thuật như trên, đề tài thẩm quyền của
trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng được chọn để
nghiên cứu trong khóa luận này. Tác giả mong muốn có thể cung cấp kiến thức về mặt
lý luận, thực tiễn và đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thẩm quyền
của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Đến thời điểm hiện tại, liên quan đến thẩm quyền của trọng tài trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng, có một số cơng trình nghiên cứu như
sau:
2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước
Hiện nay, khơng có cơng trình nào trong nước nghiên cứu về thẩm quyền của trọng
tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng.

2.2 Tình hình nghiên cứu ngồi nước
1. Ching-Lang Lin, Arbitration in administrative contracts: comparative law
perspective, Law. Institut d’études politiques de paris - Sciences Po, 2014
Tác giả đã phân tích, so sánh mối tương quan giữa luật tư và luật công khi cho phép
trọng tài giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng. Đồng thời, tác giả
nêu ra một số vấn đề pháp lý về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trong
trường hợp này. Ngồi ra, thơng qua việc so sánh, đối chiếu tương đối công phu, chi tiết
các quy định pháp luật của các nước Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Canada, tác giả đã
chỉ ra sự khác nhau trong cách quy định về thẩm quyền của trọng tài ở mỗi quốc gia. Tác
giả cũng lí giải một số nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt trên.
2. Jack I. Garver, Arbitration involving governmental entities, University of San
Francisco Law Research Paper No. 2018-06.

2


Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đưa ra nhu cầu và xu hướng thỏa thuận trọng
tài trong hợp đồng có một bên là chủ thể cơng. Tác giả cũng nêu ra ưu điểm và nhược
điểm của phương thức trọng tài. Từ đó nêu ra một số vấn đề khi cho phép trọng tài giải
quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng như vấn đề liên quan đến lợi ích
cơng, trật tự cơng, một số vấn đề liên quan đến nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở cơ sở lý luận, chưa có sự đối chiếu với quy
định pháp luật.
3. Asam Saud Alsaiat, Disputes in administrative contracts and the possibility of
utilizing, Public Policy and Administration Research, ISSN 2224-5731(Paper), Vol.5,
No.6, 2015.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả đã nêu ra cơ sở lý luận về phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài đối với hợp đồng có một bên là chủ thể cơng, nêu ra một số lợi
ích, hạn chế khi sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp. Tác giả cũng khái
quát về tranh chấp trong hợp đồng có một bên là chủ thể cơng. Từ đó, tác giả chỉ ra vai

trò của trọng tài đối với loại tranh chấp này. Tuy nhiên, bài nghiên cứu chỉ dừng lại ở lý
thuyết mà chưa đi sâu nghiên cứu pháp luật quốc gia và cũng khơng có kiến nghị, giải
pháp hồn thiện.
Như vậy, những cơng trình trên đã đưa ra cơ sở lý luận chung về thẩm quyền của
trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công và nêu lên
được một số bất cập. Tuy nhiên, các tài liệu này chưa đề cập nhiều đến thực trạng quy
định pháp luật của các quốc gia trên thế giới và đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề. Phần
chưa được giải quyết sẽ được tác giả giải quyết tại đề tài khóa luận này.
3. Mục tiêu, đối tượng, giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu và nhiệm vụ đề tài
Mục tiêu của đề tài là đánh giá quy định pháp luật của Việt Nam về thẩm quyền
của trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng trong mối
tương quan so sánh với pháp luật của (i) nhóm quốc gia cho phép trọng tài có thẩm quyền
3


giải quyết tất cả các tranh chấp liên quan (Đài Loan, Brazil, Peru), (ii) nhóm quốc gia
cho phép trọng tài có thẩm quyền giải quyết một số tranh chấp (Pháp, Trung Quốc,
Canada) và (iii) nhóm quốc gia khơng cho phép trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp (Rumani, Tây Ban Nha). Từ đó, đề tài đưa ra một số phương hướng để hoàn thiện
quy định pháp luật liên quan.
Để đạt được mục tiêu này, đề tài đầu tiên tìm hiểu cơ sở lý luận nhằm làm rõ khái
niệm, đặc điểm hợp đồng có một bên là chủ thể cơng và khái quát đặc điểm, nguyên tắc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Từ đó nêu lên những vấn đề có thể xảy ra khi trọng
tài giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng. (Chương I). Tiếp đến, đề
tài tìm hiểu, so sánh quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới theo ba nhóm
nêu trên (Chương II). Sau cùng, đề tài nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật tại Việt
Nam và chỉ ra điểm giống, điểm khác so với ba nhóm quốc gia đã được nghiên cứu ở
Chương II, trước khi đưa kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật trọng tài tại Việt Nam
(Chương III).

3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, đề tài nghiên cứu thẩm quyền của trọng tài trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung vào quy định của pháp luật Việt Nam và
một số quốc gia trên thế giới cụ thể là Đài Loan, Brazil, Peru, Pháp, Trung Quốc, Canada,
Rumani, Tây Ban Nha về hợp đồng có một bên là chủ thể công và thẩm quyền giải quyết
tranh chấp liên quan. Đề tài không nghiên cứu về thẩm quyền của trọng tài đối với tranh
chấp giữa chủ thể công và chủ thể tư khởi kiện trên cơ sở hiệp định đầu tư giữa các quốc
gia.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

4


Thứ nhất, phương pháp tổng hợp. Đây là phương pháp được sử dụng chủ yếu ở
Chương I và Chương II để tác giả khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng
có một bên là chủ thể công và thẩm quyền của trọng tài.
Thứ hai, phương pháp phân tích kết hợp so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng
nhiều nhất ở Chương II và Chương III để so sánh quy định pháp luật giữa các nhóm quốc
gia và giữa các quốc gia đó với pháp luật Việt Nam.
5. Cấu trúc đề tài
Đề tài gồm ba chương:
Chương I. Những vấn đề chung về trọng tài trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
có một bên là chủ thể công
Trong chương thứ nhất, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận chung về khái
niệm, đặc điểm hợp đồng có một bên là chủ thể cơng; đặc điểm, nguyên tắc giải quyết
tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài. Đồng thời tác giả nêu ra một số vấn đề phát sinh
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công bằng trọng tài.
Chương II. Quy định pháp luật của một số quốc gia về thẩm quyền trọng tài trong

giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể công
Trong chương hai, tác giả tập trung nghiên cứu khung pháp lý, so sánh và bình luận
quy định của pháp luật nước ngồi theo ba nhóm quốc gia khác nhau.
Chương III. Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật việt nam về trọng tài
trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng
Trong chương ba, thơng qua việc phân tích quy định của pháp luật Việt Nam, so
sánh đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam với nhóm các quốc gia đã nghiên cứu
trước đó ở Chương II, tác giả đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật trọng tài
Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng.

5


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG
TÀI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN LÀ CHỦ
THỂ CƠNG
1.1. Khái qt về hợp đồng có một bên là chủ thể công
1.1.1. Khái niệm hợp đồng có một bên là chủ thể cơng
Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của hai hay nhiều chủ thể trong quan
hệ hợp đồng nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Chủ thể tham gia
giao kết hợp đồng có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách
chủ thể đều có quyền giao kết hợp đồng, bao gồm cả chủ thể cơng.
Tuy nhiên, khơng có định nghĩa cho hợp đồng có một bên là chủ thể cơng. Vì trên
thực tế, chủ thể cơng tham gia ký kết nhiều loại hợp đồng khác nhau. Mỗi quốc gia có
cách phân loại và gọi tên hợp đồng có một bên là chủ thể công bằng nhiều thuật ngữ
pháp lý khác nhau. Hiện nay, chủ thể cơng có thể tham gia ký kết nhiều hợp đồng như
hợp đồng sử dụng công sản, công quản2; hợp đồng hợp tác công - tư3; hợp đồng lao động
với cá nhân, hợp đồng sử dụng dịch vụ.... Trong đó, có ba thuật ngữ tương đối phổ biến
được pháp luật các quốc gia dùng để gọi chung cho các hợp đồng có chủ thể cơng tham
gia ký kết là “hợp đồng hành chính” (administrative contract), “hợp đồng cơng” (public

contract), và “hợp đồng chính phủ” (government contract).
Thứ nhất, đối với thuật ngữ hợp đồng hành chính. Thuật ngữ này được sử dụng khá
phổ biến trong pháp luật và khoa học pháp lý của các nước Châu Âu. Chẳng hạn, theo
Sắc luật ngày 17/6/1938 của Pháp, hợp đồng sử dụng công sản bắt buộc phải mang tính
chất hợp đồng hành chính; tất cả hợp đồng được giao kết theo quy định của Bộ pháp điển
về giao thầu cơng là hợp đồng hành chính; hợp đồng hợp tác cơng – tư là hợp đồng hành
chính4. Mặt khác, theo từ điển luật học, hành chính (Administrative) theo hệ thống thông
Sắc luật ngày 17/6/1938 của Pháp về các hợp đồng sử dụng công sản, công quản bắt buộc mang tính chất hợp
đồng hành chính.
3
Pháp lệnh ngày 17/6/2004.
4
Pháp lệnh ngày 17/6/2004.
2

6


luật có nghĩa là sự quản lý và chỉ đạo của cơ quan hành pháp hoặc bộ máy có chức năng
công cộng, hoặc dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền khác nhau. Thuật
ngữ “hành chính” cũng được áp dụng theo quy ước cho toàn bộ tầng lớp cơng chức hoặc
những người có trách nhiệm quản lý, điều hành một bộ phận. Hợp đồng hành chính
(administrative contract) là hợp đồng được giao kết có một bên là cơ quan nhà nước
(public agency) hoặc người được ủy quyền bởi cơ quan nhà nước, thường là hợp đồng
nhượng quyền, hợp đồng thực hiện dịch vụ công, hợp đồng cung cấp dịch vụ, tiện ích
cơng cộng và hợp đồng khai tác tài nguyên thiên nhiên5. Ngoài ra, tác giả Ramey và
Erlewine trong bài báo của Ủy ban Năng lượng Nguyên tử với các hợp đồng nghiên cứu
và phát triển đã mơ tả hợp đồng hành chính là một loại hợp đồng của Chính phủ được sử
dụng như một cơng cụ quản lý hữu ích trong việc hồn thành cơng việc bởi các bên hành
động một cách thiện chí. Họ chỉ ra rằng, hợp đồng hành chính được thỏa thuận như một

điều lệ, trong đó các bên thiết lập một thỏa thuận chi tiết sắp xếp thực hiện một công
việc. Đ.N Bakhrắc, tác giả cuốn “Luật hành chính”6 đã đưa ra giải thích chi tiết hơn rằng,
hợp đồng hành chính là một văn bản đa diện dựa trên cơ sở các quy phạm pháp luật hành
chính, được xác lập dựa vào kết quả sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều chủ thể luật
hành chính, trong đó một chủ thể bắt buộc là chủ thể công quyền, làm phát sinh, thay đổi
các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia và của những người khác.
Thứ hai, đối với thuật ngữ hợp đồng công. Theo từ điển Black Law, “Public” được
dùng để chỉ một tiểu bang, một quốc gia hoặc tồn bộ cộng đồng.7 Chính quyền liên
bang, tiểu bang và địa phương cũng ký kết hợp đồng mua hàng hóa và dịch vụ. Việc xây
dựng các tịa nhà cơng cộng, đường cao tốc, cầu và các cấu trúc khác được điều chỉnh
bởi một quy trình đấu thầu cạnh tranh dựa trên hợp đồng nhằm giúp công chúng tránh
khỏi việc lãng phí cơng quỹ và ngăn chặn các hành vi gian lận hoặc thiên vị. Hợp đồng

5

Xem tại: />Phạm Hồng Thái, “Một số vấn đề lý luận về hợp đồng hành chính”, Tạp chí Luật học 2012, số 6.
7
Xem tại: />6

7


cơng là cam kết có hiệu lực pháp lý của một bên để thực hiện công việc mà cơ quan công
quyền mong muốn. Hợp đồng công phần lớn được điều chỉnh bởi luật chung của hợp
đồng. Tuy nhiên, các cá nhân, tổ chức tư nhân phải tuân theo các tiêu chuẩn khắt khe
hơn trong các giao dịch với chính phủ so với hợp đồng tư. Ngược lại, chính phủ phải đối
xử công bằng với bên đã ký hợp đồng và tuân thủ hiếp pháp, pháp luật liên bang. Ngoài
ra, thuật ngữ hợp đồng công cũng thường đi kèm với từ “trao thầu”. Đối với các khoản
chi tiêu đáng kể của cơng quỹ như xây tịa nhà cơng cộng, đường cao tốc, các cơ quan
chính phủ phải thực hiện quy trình đấu thầu. Khi đó, chính phủ sẽ mời thầu hoặc đưa ra

“các yêu cầu đối với các đề xuất” để có thể trao hợp đồng cho nhà thầu đủ điều kiện.
Thứ ba, thuật ngữ hợp đồng chính phủ. Hợp đồng chính phủ là hợp đồng được trao
bởi một thực thể chính phủ cho mục đích chung như dự án xây dựng, cải tiến, dịch vụ
hoặc cơng trình cơng cộng hoặc để mua vật tư, vật liệu, trang thiết bị.8 Thuật ngữ hợp
đồng chính phủ tương tự như hợp đồng cơng.
Ngồi những thuật ngữ trên, một số ý kiến cho rằng cần đưa ra khái niệm phân biệt
hợp đồng có một bên là chủ thể công với những hợp đồng tư nhân thông thường khác.
Tuy nhiên, theo quan điểm của các luật gia, khơng nhất thiết phải có một khái niệm phân
biệt vì về cơ bản, hợp đồng có một bên là chủ thể công vẫn mang bản chất cơ bản của
một hợp đồng thông thường. Điều khác biệt ở đây chính là sự tham gia của chủ thể cơng
trong hợp đồng. Sự tham gia này, có thể dẫn đến một số đặc điểm khác biệt của hợp đồng
so với hợp đồng thông thường giữa các tư nhân (sẽ được phân tích chi tiết tại mục 1.1.2).
Như vậy, có thể khái qt hợp đồng có một bên là chủ thể cơng là hợp đồng được
xác lập trên cơ sở thống nhất ý chí của hai hay nhiều chủ thể, trong đó có một chủ thể
bắt buộc là pháp nhân cơng pháp – đại diện cho nhà nước, làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích
chung của cộng đồng, xã hội, nhà nước.

8

Xem tại: />
8


1.1.2. Đặc điểm hợp đồng có một bên là chủ thể cơng
Về cơ bản, hợp đồng có một bên là chủ thể công vẫn mang bản chất của một hợp
đồng. Việc xác lập, ký kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng tuân theo quy định của pháp
luật dân sự. Tuy nhiên, hợp đồng có một bên là chủ thể công vẫn tồn tại một số đặc trưng
về chủ thể, đối tượng, nội dung của hợp đồng... sẽ được trình bày cụ thể dưới đây.
a. Về chủ thể

Trong hợp đồng có một bên là chủ thể cơng sẽ có một bên luôn là pháp nhân công
quyền đại diện cho quyền lực nhà nước. Bên cịn lại của hợp đồng có thể là pháp nhân
tư hoặc pháp nhân công quyền khác. Chủ thể tư thực hiện nghĩa vụ của mình để đảm bảo
hoạt động trơn tru và liên tục của dịch vụ công mà họ đã đồng ý cộng tác.
Về lợi ích của các bên, có sự khác biệt về lợi ích của chủ thể công và chủ thể tư khi
giao kết hợp đồng. Trong hợp đồng giữa các tư nhân thơng thường, về cơ bản, mỗi bên
chỉ tìm kiếm lợi ích, lợi nhuận cho riêng mình. Đó có thể là tiền, một số tài sản cụ thể
hay một công việc phải thực hiện. Trong hợp đồng có một bên là chủ cơng, nhà thầu
cũng tìm kiếm lợi ích của chính mình. Và nhà thầu sẽ chỉ trở thành một bên của hợp
đồng nếu họ nghĩ rằng theo một cách nào đó, hợp đồng sẽ có lợi cho họ. Nhưng về phía
chủ thể cơng, họ khơng đại diện cho lợi ích riêng của họ mà đại diện cho lợi ích của cơng
chúng, của xã hội nói chung.9 Điều này sẽ dễ nhìn thấy trong hợp đồng hợp tác cơng tư,
với đối tượng là các dịch vụ xây dựng, đầu tư hệ thống cầu đường, cơng trình cơng cộng
phục vụ cho đời sống người dân.
b. Về đối tượng
Đối tượng của hợp đồng có một bên là chủ thể cơng chủ yếu là hàng hóa, dịch vụ
được cung cấp, thực hiện vì lợi ích chung của xã hội. Đối tượng đó có thể liên quan đến
hoạt động cung cấp dịch vụ công cho công chúng, cho nhà nước như cung cấp điện, nước,
giao thông vận tải, dịch vụ y tế, dịch vụ an ninh quốc phòng hoặc đối tượng là các tài
9

Phạm Hồng Thái, “Một số vấn đề lý luận về hợp đồng hành chính”, Tạp chí Luật học 2012, số 6, tr. 38.

9


sản liên quan đến hoạt động mua sắm công như mua máy tính, mua trụ sở của nhà nước.
Một số dạng hợp đồng có một bên là chủ thể cơng như:
Thứ nhất là loại hợp đồng cung ứng vật tư, kỹ thuật cho cơ quan nhà nước. Nhằm
đáp ứng cho nhu cầu vận hành hoạt động của cơ quan, chủ thể cơng có thể ký kết với cá

nhân, pháp nhân có chun mơn để họ cung ứng vật tư, kỹ thuật. Đối tượng của hợp
đồng này là dịch vụ. Bên cung ứng là thể nhân, pháp nhân thuộc mọi thành phần kinh tế.
Chẳng hạn, cá nhân, pháp nhân có thể kí kết hợp đồng vận chuyển vật tư, kỹ thuật cho
qn đội hay cơng an. Để đảm bảo bí mật, cơ quan quân đội, công an nhân dân sẽ quy
định cụ thể thời gian, địa điểm, tuyến đường vận chuyển vật tư cho bên cung ứng dịch
vụ.
Thứ hai là loại hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao là loại hợp đồng
được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư để xây dựng cơng trình
kết cấu hạ tầng. Khi xây dựng xong, nhà đầu tư được kinh doanh trong thời gian nhất
định để thu hồi vốn, lợi nhuận. Hết thời hạn kinh doanh, nhà đầu tư sẽ chuyển giao khơng
bồi hồn cơng trình xây dựng đó cho cơ quan nhà nước.
Thứ ba là loại hợp đồng mua sắm chính phủ. Mua sắm chính phủ là q trình một
cơ quan mua sắm, có quyền sử dụng hoặc mua được hàng hóa, dịch vụ vì mục đích cơng
và khơng nhằm mục đích bán, bán lại mang tính thương mại hoặc sử dụng trong việc sản
xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ vì mục đích bán hay bán lại mang tính thương mại.10
Ngồi ra, mục đích của việc ký kết hợp đồng của chủ thể cơng cịn nhằm tăng
cường hiệu quả trong việc phân phối, điều hành và quản lý dự án về hạ tầng; giúp nhà
nước khai thác công nghệ tiên tiến; tiếp cận nguồn vốn của đối tác tư nhân.
Hơn nữa, chủ thể công chọn ký kết hợp đồng với đối tác tư nhân khi khơng thể
hoặc khó áp dụng phương pháp cổ phần hóa và một lý do nào đó nhà nước khơng thể
tham gia trực tiếp. Việc cổ phần hóa cũng kéo theo sự hợp tác giữa nhà nước và tư nhân,
nhưng hoạt động này chịu sự điều chỉnh chung của luật doanh nghiệp và nhà nước tham
10

Điều 9.1(d) EVFTA.

10


gia quan hệ với tư cách giống như các cổ đơng khác, mà khơng có địa vị pháp lý đặc thù

của nhà nước.11
c. Phương thức xác lập
Để đạt được mục tiêu quản lý xã hội, nhà nước chủ yếu sử dụng phương pháp mệnh
lệnh, quyền uy – phục tùng thông qua hoạt động mang tính pháp lý như ban hành quyết
định hành chính, quyết định quy phạm, quyết định cá biệt... và hoạt động ít hay khơng
mang tính pháp lý như đánh giá, hội họp, tổng kết thực tiễn... Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, để đáp ứng nhu cầu cần thiết cho cộng đồng, chủ thể cơng cịn phải ký kết
các hợp đồng. Hợp đồng có chủ thể cơng về bản chất vẫn là một hợp đồng theo nghĩa
đầy đủ nhất. Hợp đồng vẫn được xác lập thông qua phương thức thỏa thuận giữa nhà
nước và tư nhân.
Hợp đồng có một bên là chủ thể cơng khơng thể áp đặt quyền hay nghĩa vụ lên bất
cứ chủ thể ký kết nào nếu khơng có sự đồng ý của các bên. Hợp đồng cũng không thể bị
thay đổi bởi một trong các bên nếu khơng có sự thống nhất ý chí của các bên cịn lại.
Chẳng hạn, trong vụ việc của Socigtg d’Entreprises,12 một công ty đã vận hành một số
nhà tắm thành phố theo hợp đồng nhượng quyền với một xã. Do tính tốn sai lầm, cơng
ty này phát hiện ra rằng, nếu nó chỉ có thể tính các khoản phí đã được thỏa thuận như
một điều khoản của hợp đồng, thì cơng ty sẽ thua lỗ. Do đó, cơng ty này đã tìm cách
giảm bớt khoản phí mà họ đã ký hợp đồng để trả cho xã. Tòa hành chính cho rằng điều
này khơng được cho phép vì thẩm phán không thể sửa đổi các điều khoản của hợp đồng
được các bên tự do thỏa thuận. Trong trường hợp khơng có bất kỳ điều khoản nào quy
định về việc sửa đổi mức phí phải nộp, nhà thầu khơng có căn cứ để u cầu giảm mức
phí đó so với mức đã ấn định trong hợp đồng. Điều này áp dụng cho cả hai bên trong
hợp đồng (trừ ngoại lệ về quyền hạn của chính quyền hành động vì lợi ích của cơng
Đào Đăng Kiên, “Áp dụng hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước”, ngày 30/10/2017, xem tại:
(truy cập
ngày 20/6/2023).
12
Alan W. Mewett, The theory of Government contracts, tr. 224.
11


11


chúng), và không thể làm lại một hợp đồng đã được ký kết, cũng như chính quyền có thể
áp đặt một hợp đồng đối với nhà thầu ngay từ đầu.
Đặc điểm về phương thức xác lập này cũng giúp phân biệt hợp đồng có một bên là
chủ thể cơng với các quyết định hành chính hay hoạt động ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Xét về ý chí, các cơ quan có thẩm quyền được thể hiện ý chí đơn phương
thông qua hoạt động ban hành pháp luật hoặc quyết định hành chính. Trong khi đó, hợp
đồng có một bên là chủ thể công được xác lập bằng phương thức thỏa thuận, thể hiện ý
chí của cả hai bên. Mục đích duy nhất của quyết định quản lý hành chính nhà nước là
phục vụ cho lợi ích cơng và thi hành pháp luật nhưng mục đích của hợp đồng có một bên
là chủ thể cơng vẫn tồn tại lợi ích riêng của bên tham gia ký kết là tư nhân.
d. Nội dung hợp đồng
Nội dung hợp đồng có một bên là chủ thể công sẽ quy định các điều khoản cơ bản
như công việc phải làm, giá phải trả, v.v và bao gồm cả phương thức giải quyết tranh
chấp như một hợp đồng thông thường. Chủ thể tư nhân có quyền yêu cầu nhà nước bồi
thường thiệt hại cho mình trong bất kỳ trường hợp nào theo quy định tại hợp đồng. Về
nghĩa vụ, theo luật gia Jèze,13 nghĩa vụ của chủ thể tư bao trùm tất cả những gì cần thiết
để đảm bảo hoạt động trơn tru và liên tục của dịch vụ công mà họ thực hiện.
Tuy nhiên trên thực tế, chủ thể tư có thể phải thực hiện nhiều công việc hơn hoặc
cung cấp nhiều vật tư hơn so với thỏa thuận vì lợi ích cơng và khi cần thiết, chủ thể cơng
có thể chấm dứt hợp đồng, chỉ đạo phương thức thực hiện hoặc sửa đổi các thông số kỹ
thuật của hợp đồng.14 Về vấn đề này, pháp luật về hợp đồng hợp tác công tư giữa cơ
quan công quyền và nhà đầu tư của Hàn Quốc có quy định Chính phủ có quyền đơn
phương điều chỉnh hợp đồng trong các trường hợp cần bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích

13
14


Lcs Contrats Adinistratils, tr. 14-15.
Phạm Hồng Thái, “Một số vấn đề lý luận về hợp đồng hành chính”, Tạp chí Luật học, 2012, số 6, tr. 42.

12


cơng cộng.15 Ngồi ra, trong vụ Ministre de la Guerre vs. Association Coopérative des
Ouvriers Paveurs,16 nhà đầu tư tư nhân đã đồng ý xây dựng một cống thoát nước bằng
bê tông cho Bộ Chiến tranh. Thỉnh thoảng, Bộ trưởng ra chỉ thị cho nhà thầu về tính chất
và độ dày của bê tông mà họ sẽ sử dụng, cũng như cách thức xây dựng cống rãnh. Nhà
thầu đã không tuân thủ một số chỉ thị này và Hội đồng nhà nước đã cho rằng họ phải
chịu trách nhiệm pháp lý nếu vi phạm hợp đồng, mặc dù hợp đồng không quy định về
những vấn đề này. Quyền lực này của chính quyền trong việc chỉ đạo và kiểm sốt
phương thức và hoạt động thực hiện của một cơ quan hành chính là một phần của luật
cơng chung và hồn tồn không phụ thuộc vào một số điều khoản hợp đồng để có hiệu
lực đó. Bất kỳ người nào tham gia vào một hợp đồng có một bên là chủ thể cơng lập tức
phải chịu quyền hạn giám sát của chính quyền. Do đó, hợp đồng mặc dù là điều kiện tiên
quyết để kiểm soát quyền và nghĩa vụ của các bên, nhưng cơ sở để kiểm soát quyền và
nghĩa vụ của các bên khơng chỉ có hợp đồng.
1.2. Khái qt về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Hiện nay, có nhiều phương thức để giải quyết tranh chấp hợp đồng. Bên cạnh tịa
án, các bên cũng có thể lựa chọn các phương thức khác như hòa giải, thương lượng và
trọng tài. Trong đó, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp trong hoạt động thương
mại. Các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp cho
trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập. Bằng việc dựa trên những tình tiết khách
quan, trọng tài sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng và quyết định này có giá trị bắt buộc thi
hành đối với các bên.17 Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp đều thuộc thẩm quyền giải
quyết của trọng tài.
“Giải quyết tranh chấp Hợp đồng PPP: Cần tiếp cận tốt khi xây dựng khung khổ chính sách”, xem tại:
(truy cập ngày 6/7/2019).

16
Ching-Lang Lin, Arbitration in administrative contracts: comparative law perspective, Law. Institut d’études
politiques de paris - Sciences Po, 2014.
17
Trong cuốn sách Trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL: “Trọng tài là những tranh chấp hay bất đồng
được đưa ra cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có
tính ràng buộc đối với hai bên”.
15

13


1.2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Thẩm quyền của trọng tài là quyền để xem xét, đưa ra kết luận và định đoạt về vụ
việc tranh chấp thương mại khi các bên có tranh chấp đồng ý trao quyền cho trọng tài
bằng thỏa thuận trọng tài theo trình tự, thủ tục do pháp luật về trọng tài quy định. Thẩm
quyền của trọng tài có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thẩm quyền của trọng tài do sự thỏa thuận của các bên trong tranh chấp.
Thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của hội đồng trọng tài xuất phát từ sự thống nhất ý chí
của các bên tranh chấp căn cứ vào quy định của luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài, luật
áp dụng giải quyết tranh chấp và luật nơi công nhận, cho thi hành phán quyết trọng tài.
Khoản 1 Điều 5 Luật TTTM năm 2010 quy định tranh chấp được giải quyết bằng trọng
tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Như vậy, thẩm quyền của trọng tài khơng mang
tính đương nhiên. Thỏa thuận giữa các bên tranh chấp là điều kiện tiên quyết để làm phát
sinh thẩm quyền của trọng tài. Trong khi đó, đối với Tịa án, các bên tranh chấp đều có
quyền yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vụ việc mà khơng cần sự đồng ý của bên cịn
lại.
Thứ hai, thẩm quyền của trọng tài giới hạn trong tranh chấp có yếu tố thương mại.
Thẩm quyền của trọng tài khơng bị giới hạn bởi yếu tố địa lý, hệ thống pháp luật hay chế
độ chính trị. Tuy vậy, nhà nước vẫn giành cho mình quyền năng xét xử trong những lĩnh

vực nhất định nhằm bảo vệ không chỉ quyền lợi của các bên trong tranh chấp mà còn
bảo vệ trật tự công cộng, quyền lợi của những người liên quan. Đa số các quốc gia trên
thế giới chỉ quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài trong lĩnh vực luật
tư.18 Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nằm mục đích sinh
lợi khác. Hoạt động thương mại suy cho cùng vẫn dựa trên nền tảng dân sự, vì vậy pháp
luật sẽ tơn trọng quyền thỏa thuận của các bên, khi có tranh chấp các bên sẽ được quyền
chọn trọng tài hay tòa án làm cơ quan giải quyết. Không nhất thiết cả hai bên tranh chấp
18

Xem tại: />
14


đều phải là thương nhân mà chỉ cần một bên có hoạt động thương mại lựa chọn trọng tài
để giải quyết tranh chấp thì thẩm quyền của trọng tài sẽ phát sinh.
Thứ ba, thẩm quyền của trọng tài mang tính chất phi nhà nước. Trọng tài là một tổ
chức tư nhân, độc lập với nhà nước. Thẩm quyền của hội đồng trọng tài do các bên tranh
chấp thỏa thuận trao cho. Thẩm quyền này khơng mang tính đương nhiên và khơng mang
tính quyền lực nhà nước. Tính phi nhà nước của trọng tài quyết định tính độc lập của
trọng tài trong quá trình giải quyết tranh chấp đối với các bên. Đặc điểm này quyết định
các trình tự, thủ tục liên quan đến việc thành lập hội đồng trọng tài, phương thức giải
quyết tranh chấp của hội đồng trọng tài, số lượng thành viên của hội đồng trọng tài...
Tính chất phi nhà nước này cũng liên quan đến các phán quyết được hội đồng trọng tài
ban hành cũng như mối quan hệ giữa Tòa án và trọng tài.
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài cũng phải tuân theo các nguyên tắc
nhất định. Các nguyên tắc đó bao gồm:
Thứ nhất, trọng tài viên tôn trọng đối với các bên tranh chấp về phạm vi thỏa thuận
trọng tài và quyền, nghĩa vụ của các bên. Với việc đề cao thỏa thuận của các bên là mục

tiêu hàng đầu trong giải quyết tranh chấp thương mại nhằm tìm ra phương hướng giải
quyết tốt nhất mà vẫn đảm bảo lợi ích của các bên không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự
thỏa thuận của các bên phải không vị phạm điều cấm hay trái đạo đức xã hội thì mới
được chấp nhận.
Thứ hai, trọng tài viên trong việc giải quyết tranh chấp thương mại đóng vai trị
như thẩm phán để đưa ra quyết định khách quan, vơ tư. Vì vậy, trọng tài viên phải có vai
trị độc lập với các bên tranh chấp, khơng được là người có quyền, lợi ích liên quan đến
bất kỳ bên tranh chấp nào. Điều này đảm bảo được sự công bằng khi giải quyết tranh
chấp, để đưa ra một quyết định ổn thỏa nhất.
Thứ ba, về sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp. Các bên có
quyền và nghĩa vụ như nhau, khơng hề có tính chất thiên vị bất kỳ bên nào giống như
15


hình thức giải quyết tranh chấp tại Tịa án. Điều này cho thấy việc giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại cũng vẫn đảm bảo sự cơng bằng như tại
Tịa án.
Thứ tư, việc giải quyết tranh chấp không công khai. Đây là điểm đặc biệt của hình
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại. Nếu giải
quyết tại Tòa án thì phiên tịa giải quyết vụ việc này sẽ là cơng khai, bất kỳ ai cũng có
thể tới tham dự được. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến uy tín thậm chí là đời sống
riêng tư của các bên tranh chấp. Chưa kể đến việc những chứng cứ thu thập được để
mang ra xét xử có thể là bí mật kinh doanh của các bên liên quan trực tiếp đến lợi ích
của các bên. Vì vậy việc giải quyết tranh chấp thương mại không công khai là điều cần
thiết cho lợi ích của các bên tham gia tranh chấp.
Cuối cùng là nguyên tắc đặc trưng nhất của phương thức giải quyết bằng trọng tài
thương mại. Đó là phán quyết của trọng tài viên là chung thẩm. Nghĩa là phán quyết
không thể bị kháng cáo để xét xử lại bởi bất kỳ một trọng tài hay một Tòa án nào khác.
Điều có thể làm chỉ là thực hiện theo phán quyết đó hoặc khơng đồng ý thì một bên u
cầu Tịa án hủy phán quyết đó mà thơi. Ngun tắc này khiến cho việc giải quyết tranh

chấp nhanh gọn hơn thay vì việc ra một quyết định rồi một bên khơng vừa ý thì lại kháng
cáo để xử lại, điều này rất tốn thời gian và công sức. Đồng thời, nguyên tắc này cũng áp
đặt lên các bên tranh chấp việc buộc phải chấp nhận phán quyết của Trọng tài viên.
Như vậy có thể nhận thấy, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp phi
chính phủ. Hội đồng trọng tài không phải do nhà nước lập ra mà do các bên thỏa thuận
hình thành. Do đó, khi trọng tải tham gia giải quyết một tranh chấp có một bên là chủ
thể công, nhiều ý kiến, vấn đề liên quan đến thẩm quyền, thủ tục của trọng tài đã được
đặt ra.

16


1.3. Một số vấn đề trong giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ
thể cơng bằng trọng tài
Việc thỏa thuận trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại là vấn đề khơng có
gì để tranh cãi. Tuy nhiên, việc sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp hợp đồng có
một bên là chủ thể cơng lại gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Những ý kiến xoay quanh các
vấn đề như liệu trọng tài có được phép giải quyết tranh chấp có một bên là chủ thể cơng
hay khơng? Nếu có, thẩm quyền của trọng tài sẽ được giới hạn hay mở rộng tới đâu? Và
có những vấn đề nào phát sinh trong q trình giải quyết tranh chấp? Nhưng vấn đề này
sẽ được trình bày cụ thể dưới đây.
1.3.1. Về thẩm quyền của trọng tài đối với tranh chấp hợp đồng có một bên là
chủ thể công
Như đã đề cập, thẩm quyền của trọng tài chỉ giới hạn trong các tranh chấp có yếu
tố thương mại. Đối với hợp đồng có một bên là chủ thể công ký kết với chủ thể tư, vấn
đề đặt ra là làm sao phân định đây là hợp đồng mang yếu tố công hay yếu tố tư. Bởi lẽ,
theo một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, để tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ
thể công được giải quyết bằng phương thức trọng tài, hợp đồng này phải có yếu tố thương
mại. Mà pháp luật mỗi quốc gia có cách phân định khác nhau đối với bản chất công và
bản chất tư của hợp đồng.

Với những quốc gia không cho áp dụng trọng tài trong giải quyết hợp đồng có một
bên là chủ thể cơng, một trong những lí do đưa ra là vì hợp đồng này mang bản chất hành
chính. Cụ thể, các luật gia cho rằng hợp đồng có một bên là chủ thể cơng được chính phủ
sử dụng như một cơng cụ quản lý xã hội. Nó phản ánh hoạt động của cơ quan hành chính
và do đó những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng chỉ nên được giải quyết bởi Tòa án,
một cơ quan tư pháp được thành lập bởi nhà nước. Trong khi đó, phương thức trọng tài
là phương pháp giải quyết dành cho hợp đồng tư, chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật
tư. Ngược lại, đối với những quốc gia cho phép áp dụng trọng tài, ngoài yếu tố về chủ
thể ký kết phải có một là chủ thể cơng, họ cịn xác định hợp đồng mang bản chất hành
17


chính phải có mục đích hoặc nội dung hướng tới lợi ích chung của cơng cộng.19 Do đó,
những hợp đồng được cho phép áp dụng trọng tài sẽ là những hợp đồng khơng vì mục
đích cơng cộng mà vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, khơng phải quốc gia nào cũng dựa vào bản chất hợp đồng để quy định
phương thức giải quyết tranh chấp. Theo luật gia Léon Duguit, các yếu tố thiết yếu của
hợp đồng luôn giống nhau và nếu hợp đồng đó thỏa mãn các điều kiện của Bộ luật Dân
sự thì nó được xem là hợp đồng. Do đó, theo Léon Duguit, đơi khi các hợp có một bên
là chủ thể cơng được gửi đến các tịa án hành chính, khơng phải vì chúng khác về bản
chất so với các hợp đồng tư nhân, mà chỉ vì sẽ thuận tiện hơn khi có các thẩm phán là
chuyên gia trong lĩnh vực luật hành chính.20
Ngồi ra, trong một số trường hợp, việc tranh chấp được coi là có bản chất “cơng
hay tư” cịn phụ thuộc vào quan điểm của thẩm phán hoặc trọng tài viên. Điều này được
minh họa qua một vụ kiện được đưa ra trước Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Nguyên đơn là
một công dân Hoa Kỳ được Ả Rập Saudi thuê ở Hoa Kỳ để giám sát an toàn tại một bệnh
viện Saudi. Khi đang làm việc ở Ả Rập Saudi, công dân này bị chính quyền Ả Rập Saudi
bắt và bị lạm dụng thể xác. Tòa án tối cao của Hoa Kỳ kết luận Ả Rập Saudi được miễn
trừ khỏi vụ kiện vì những gì liên quan hành động của cảnh sát Ả Rập Xê Út được mô tả
là hoạt động công. Điều này bất chấp thực tế là hợp đồng thuê của nguyên đơn là một

hợp đồng thương mại, mang bản chất thương mại”, và rằng hợp đồng được đàm phán và
ký kết tại Hoa Kỳ.21
1.3.2. Về lợi ích cơng cộng và nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên
Bên cạnh vấn đề về thẩm quyền của trọng tài, việc áp dụng phương thức trọng tài
để giải quyết tranh chấp hợp đồng có một bên là chủ thể cơng còn được cho là sẽ ảnh

Đào Đăng Kiên, “Áp dụng hợp đồng hành chính trong quản lý nhà nước”, ngày 30/10/2017, xem tại:
(truy cập
ngày 20/6/2023).
20
Ching-Lang Lin – Arbitration in Administrative Contracts: Comparative Law Perspective 2014, Tr.315.
21
Arbitration Involving Governmental Entities, Jaque I. Garvey, tr.8.
19

18


×