Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tài liệu bồi dưỡng đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.08 KB, 19 trang )

ĐỀ CƯƠNG CÂU HỎI
Câu hỏi 3: Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin được thể hiện ở
những nội dung nào?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương pháp khoa học được
kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của lồi người, của tinh hoa văn hố mà nhân loại đã sáng
tạo ra.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã kế thừa có chọn lọc những thành tựu khoa học, những giá trị
tư tưởng và văn hoá, những tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội mà nhân loại đã đạt được; bằng thiên tài
của trí tuệ cộng với sự lao động nghiêm túc, vượt lên mọi trở ngại, khó khăn, những cám dỗ của vật
chất và vòng cương toả hà khắc của chế độ chính trị đương thời, các ơng đã để lại cho nhân loại một
di sản vô cùng quý báu, một cơ sở lý luận khoa học để giải phóng con người, giải phóng xã hội, đem
lại cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc cho con người.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục tiêu, chỉ rõ con
đường giải phóng triệt để giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế
giới thốt khỏi tình trạng bị nơ dịch và bóc lột, thốt khỏi đói nghèo và tha hố về nhiều mặt. Đồng
thời, học thuyết đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển xã hội là
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ niềm tin vào khả năng và sức mạnh của
chính mình.
Học thuyết đó cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó là quy luật về
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã
hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác khơng phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua
cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Từ đó, Mác-Ăngghen và Lênin đã trực tiếp nghiên cứu sự
vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tìm ra quy luật về sự diệt vong của chủ nghĩa
tư bản cũng như thắng lợi của chủ nghĩa xã hội như một tất yếu thông qua cuộc cách mạng xã hội.
- Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin cịn thể hiện ở chỗ: Đó là học
thuyết mở, khơng cứng nhắc, bất biến mà nó địi hỏi ln được bổ sung, tự đổi mới, tự phát triển
trong dòng phát triển trí tuệ của nhân loại.
Mác-Ăngghen cũng như Lênin đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là
cái đã xong xuôi, bất biến, không phải là giáo điều mà chỉ là kim chỉ nam cho hành động. Nó gắn
liền với sự phát triển của phong trào cách mạng, với thực tiễn vận động của lịch sử, hay nói cách


khác, học thuyết đó chỉ đưa ra cơ sở và phương pháp luận cho suy nghĩ và hành động. Điều đó hồn
tồn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát triển của chính học
thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi lẽ, có nhiều vấn đề mà các ơng chưa có điều
kiện, thời gian nghiên cứu, làm sáng tỏ hoặc do hạn chế của lịch sử nên những luận điểm của các
ông cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Các ơng địi hỏi những người cách mạng đời sau
bổ sung và phát triển làm cho học thuyết đó hồn chỉnh.
Tồn bộ học thuyết Mác-Lênin có giá trị bền vững xét trong tinh thần biện chứng của nó, với
bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, chủ nghĩa Mác-Lênin sống mãi trong sự nghiệp đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới và là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Bài 9:
Rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến
việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất đội ngũ đảng viên. Ngay từ năm 1925, bài giảng đầu tiên của
Người cho những cán bộ cách mạng trẻ tuổi của Việt Nam là vấn đề “tư cách một người cách

1


mệnh”.
Nghiên cứu những bài nói và viết của Người, chúng ta đều thấy mối quan tâm hàng đầu của Người
là xây dựng một đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, lòng trung thành với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân, suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là phẩm chất hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt ra cho mỗi đảng viên cộng sản.
Người căn dặn mỗi đảng viên "không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu
cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên
tồn thế giới"; phải biết đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, ln vững

vàng trước mọi khó khăn, vơ luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết;
nếu khi "lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân thì phải quyết hy sinh lợi
ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng". Người chỉ rõ: suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân "là
phẩm chất cao quý của người cách mạng. Đó là đạo đức cách mạng. Đó là tính Đảng, tính giai cấp,
nó bảo đảm cho sự thắng lợi của đảng, của giai cấp, của nhân dân". Người đánh giá rất cao những
đảng viên luôn luôn trung thành với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và của dân tộc, suốt đời hy
sinh phấn đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời
phê phán nghiêm khắc những kẻ lợi dụng địa vị để mưu cầu lợi ích cá nhân làm tổn hại đến lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lạo động.
Chủ tịch Hồ chí Mình địi hỏi mỗi đảng viên cộng sản cùng với phẩm chất cách mạng cao q cịn
phải có năng lực, vì có năng lực mới hồn thành tốt được nhiệm vụ của Đảng giao cho. Người dạy
rằng, "Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị, mà cịn phải giỏi về chun
mơn, khơng thể lãnh đạo chung chung”. Muốn vừa thạo về chính trị, vừa giỏi về chuyên môn, mỗi
đảng viên phải ra sức "học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, học tập
văn hố, kỹ thuật và nghiệp vụ; khơng ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và năng lực cơng
tác của mình". Bởi vì, có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ
vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt được cơng tác Đảng giao cho
mình; "có nắm vững đường lối cách mạng mới hiểu rõ mình phải làm gì và đi theo phương hướng
nào để thực hiện mục đích của Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay”. Người cũng chỉ rõ rằng,
muốn học tập có kết quả tốt, phải có thái độ đúng và phương pháp đúng, lý luận phải liên hệ với
thực tế, phải "biến những điều đã học thành hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành,
chứ không phải học để nói sng”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một u cầu quan trọng về phẩm chất đảng viên là liên hệ mật thiết với
quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Bởi lẽ,
Đảng là đội tiên phong của quần chúng, nhưng Đảng chỉ có sức mạnh nếu giữ vững được mối liên
hệ chặt chẽ với quần chúng. Muốn làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, người đảng viên "phải
nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.
Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được
lên mặt "quan cách mạng" ra lệnh, ra oai. Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối
quần chúng, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo dục và phát động

quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay
thẳng, không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không
được kiêu ngạo...Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí cơng, vơ tư” và có tinh
thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". "Người nghiêm khắc phê phán những đảng viên "xa rời
quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng...ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần
chúng...mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, không yêu..."
và họ khơng làm nên trị trống gì.

2


Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách đảng viên cộng sản luôn nhấn mạnh vấn đề xây dựng ý thức tổ
chức và kỷ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong
Đảng. Bởi lẽ, sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức nghiêm.
Người chỉ rõ: "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người. Đó là nhờ có kỷ
luật. Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác". Người đòi hỏi mỗi đảng viên cần
phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn
thể nhân dân và của cơ quan chính quyền. Trong giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, người yêu cầu mọi
đảng viên phải ra sức góp phần xây dựng và giữ vững sự đồn kết nhất trí trong Đảng. Bởi lẽ, đồn
kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng. "Nhờ đồn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ
chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác". Do đó, tất
cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau, cũng đều phải đồn kết nhất
trí để làm trịn nhiệm vụ, "giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ những biện pháp thiết thực để mỗi đảng viên cộng sản phấn đấu,
rèn luyện, tu dưỡng nhân cách của mình. Trước hết, mỗi đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn luyện
để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nếu để cho chủ nghĩa cá nhân ám
ảnh, chi phối, người đảng viên sẽ mất dần tư cách, đi tới tự tước bỏ danh hiệu cao quý của mình. Vì
vậy, muốn giữ được tư cách, đảng viên nhất thiết "phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến

bộ mãi. Nếu không cố gắng để tiến bộ, thì tức là thối bộ, là lạc hậu...sẽ bị xã hội tiến bộ sa thải".
Việc giữ gìn bản chất, tư cách đảng viên cộng sản cần gắn với xây dựng, củng cố các tổ chức của
Đảng, nhất là chi bộ, vì chi bộ "là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt". Thực tế đã
chứng minh rất rõ: ở đâu chi bộ mạnh, cấp ủy mạnh thì đảng viên mạnh, ở đâu chi ủy, chi bộ rệu rã
thì ở đó cán bộ, đảng viên tê liệt sức chiến đấu, dễ trở thành hư hỏng, thoái hoá. Cho nên, trong xây
dựng tổ chức đảng, xây dựng chi bộ, các cấp ủy đảng phải thực hiện dân chủ nội bộ, quan tâm đến
đời sống của cán bộ, đảng viên, kịp thời giúp họ giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong cuộc
sống và công tác. Song, phải nghiêm khắc đối với những cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, khuyết
điểm; tẩy bỏ những phần tử hủ hố nhằm giữ gìn nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới.
Cùng với việc giữ nghiêm kỷ luật, phải "mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng,
ở các cơ quan, các đồn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân. Phê bình và tự phê bình phải thường
xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên". Người còn vạch rõ: "Chúng ta không sợ
sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng
nghe quần chúng phê bình và thật thà tự phê bình". Đồng thời, Người yêu cầu phải tăng cường công
tác kiểm tra trong Đảng nhằm "thúc đẩy và giáo dục đảng viên làm trọn nhiệm vụ...,làm gương mẫu
cho nhân dân" và xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đứng trước những vận hội mới và thách thức mới, tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hơn bao giờ hết chúng ta phải giương cao
ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, xây dựng các tổ chức chi bộ vững mạnh, rèn luyện tư cách đảng viên
với phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ. Việc nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cơng tác xây dựng Đảng nói chung, trong rèn luyện phẩm chất, tư cách đảng viên cộng sản nói
riêng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng nhằm củng cố tổ chức đảng, xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân.
ĐỀ TÀI
VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG VỚI SỰ LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CƠNG
NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ NƠNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở CÁC XÃ, PHƯỜNG,
THỊ TRẤN

3



Chủ nhiệm đề tài: Ơng Hồng Hữu Vân, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Hải Dương.
Cơ quan chủ trì: Ban Tổ chức Tỉnh uỷ Hải Dương.
Thời gian thực hiện: 1998-1999.
Đề tài được tổng kết.
I. MỤC TIÊU
- Khảo sát, khái quát hố những vấn đề có tính phổ biến ở các tổ chức cơ sở Đảng, đúc rút những
kinh nghiệm về xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể củng cố và phát huy vai trò tổ chức cơ sở Đảng ở xã, phường, thị trấn
trước u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn ở tỉnh Hải Dương trong giai
đoạn 2000 - 2005 và những năm tiếp theo.
II. TÓM TẮT KẾT QUẢ THỰC HIỆN
1. Đánh giá khát quát thực trạng tình hình tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên ở xã, phường, thị
trấn, những ưu điểm, yếu kém và nguyên nhân chủ yếu.
1.1. Ưu điểm:
- Số đông tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị trấn làm tốt cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, góp
phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống "diễn biến hồ
bình", chống địch phá hoại về tư tưởng chính trị của các tầng lớp nhân dân ở các địa phương.
- Đội ngũ cán bộ cấp uỷ ở xã, phường, thị trấn nhiệt tình, có kinh nghiệm thực tiễn, số đơng cấp uỷ
cơ sở biết vận dụng, thực hiện đúng đắn chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ở địa phương.
- Đa số đảng viên ở xã, phường, thị trấn có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng,
rất tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng.
- Đa số quần chúng nhân dân ở cơ sở cần cù, chịu khó, ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
tâm huyết tham gia xây dựng Đảng và chính quyền ở cơ sở.
1.2. Nhược điểm, yếu kém:
- Công tác tuyên truyền, tổ chức học tập quán triệt chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước tới cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ở một số cơ sở xã,
phường, thị trấn còn hạn chế.

- Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở nhiều xã, phường, thị trấn
chưa tốt, thậm chí có nơi có lúc cịn vi phạm, gây hậu quả phức tạp, làm mất lòng tin của đảng viên,
của nhân dân, làm mất ổn định an ninh, trật tự tại địa phương.
- Tình trạng suy thối đạo đức, lối sống, thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu xa rời quần chúng
nhân dân của một bộ phận cán bộ cơ sở, gây giảm sút sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn nhìn chung cịn yếu và thiếu về chun mơn, lý luận. Khả năng,
năng lực lãnh đạo điều hành rất hạn chế.
1.3. Nguyên nhân chủ yếu của yếu kém.
- Nhìn chung cơ sở vật chất kỹ thuật ở các xã, phường, thị trấn trong tỉnh còn thiếu thốn, nghèo nàn.
- Sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng ở cơ sở khơng theo kịp sự thay đổi cơ chế, chính sách, nhiều vấn đề
chưa có tiền lệ, chưa kịp tổng kết, bổ sung, hồn chỉnh.
- Tình hình tiêu cực trong Đảng có chiều hướng gia tăng, các thế lực thù địch lợi dụng cơ hội cơng
kích, chống phá Đảng và Nhà nước về nhiều mặt.
- Cấp uỷ cấp trên chưa thật sâu sát cơ sở, có nơi bng lỏng quản lý, dẫn đến cơ sở làm sai nguyên
tắc, sai chính sách, pháp luật, nhưng không nắm được và không giải quyết kịp thời.
- Bệnh ham thành tích, báo cáo sai sự thật để vụ lợi danh dự cho tập thể, cá nhân nhất thời còn tồn
tại.
- Một số tổ chức Đảng ở xã, phường, thị trấn chưa quan tâm đúng mức tới cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng.
- Trong cơng tác xây dựng Đảng ở một số xã, phường, thị trấn bị buông lỏng, các nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt Đảng khơng được duy trì.
- Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng không thường xuyên; công tác quản lý đảng viên, phân công
công tác, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở chưa tốt.
- Nhận thức của đảng viên ở nơng thơn cịn thấp, khơng đồng đều.
2. Chủ trương, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị
trấn đối với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nông thôn ở tỉnh Hải

4



Dương.
2.1. Xây dựng Đảng bộ cơ sở về chính trị, tư tưởng.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền làm cho tất cả đảng viên nhận thức được rõ về nền tư
tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đó là bảo vệ lợi
ích của nhân dân.
- Thường xun giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng làm cho mọi đảng viên kiên định lập
trường đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã chọn.
- Làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ
và năng lực của Đảng.
2.2. Xây dựng Đảng bộ cơ sở về tổ chức.
- Các tổ chức cơ sở Đảng xã, phường, thị trấn phải thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp ủy các cấp và của chi bộ; thực hiện nghiêm túc chế độ tự
phê bình và phê bình một cách thường xuyên trong tổ chức Đảng. Chống cách làm hình thức, khơng
sửa chữa khuyết điểm.
- Mỗi chi bộ, mỗi cấp uỷ phải thực hiện tốt công tác quản lý chặt chẽ đảng viên, không để một đảng
viên nào đứng ngoài trách nhiệm quản lý của tổ chức Đảng.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố các chi bộ thuộc Đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn - là cầu nối giữa
Đảng với các tầng lớp nhân dân, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng.
2.3. Nâng cao chất lượng đảng viên.
- Cần phải làm cho mọi đảng viên ở cơ sở nhận thức được tình hình mới hiện nay, người đảng viên
phải có trình độ giác ngộ cách mạng cao, trình độ trí tuệ cao, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, phẩm
chất đạo đức tốt.
- Mọi đảng viên đều được tổ chức Đảng quản lý và phân cơng nhiệm vụ cơng tác cụ thể, hàng năm
phân tích chất lượng đảng viên trên cơ sở mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đảng viên.
- Công tác phát triển đảng viên mới cần phải coi trọng hơn nữa. Phải thường xuyên quan tâm lãnh
đạo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của
công tác xây dựng Đảng.
- Việc phân công công tác cho đảng viên, nên nghiên cứu khả năng và điều kiện của từng đồng chí

để phân cơng cho phù hợp.
- Các cấp uỷ Đảng, đặc biệt là cấp uỷ chi bộ cần quan tâm động viên tới từng đồng chí đảng viên;
khắc phục ngay tình hình thiếu sót khuyết điểm hiện nay là chỉ biết giao nhiệm vụ mà không chú ý
tới đời tư.
2.4. Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Phải rà soát, sắp xếp điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có, trước hết là các chức danh lãnh
đạo ở cấp xã. Đối với cán bộ chủ chốt kiến thức năng lực yếu không đảm đương nổi nhiệm vụ cần
điều chỉnh, bố trí cơng việc thích hợp, ở những nơi trì trệ, yếu kém, cán bộ chủ chốt có sai phạm cần
làm rõ, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
- Nên có kế hoạch và động viên số cán bộ đương chức học chun mơn và nghiệp vụ, chọn hình
thức đào tạo cho phù hợp với điều kiện công tác cơ sở.
2.5 Về công tác vận động nhân dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.
- Trước hết, giáo dục và động viên đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên liên hệ chặt chẽ với quần
chúng, thông qua sự liên hệ, đảng viên tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng đến với quần
chúng với Đảng.
- Cấp uỷ cơ sở phải có kế hoạch chăm lo thường xuyên tới các đồn thể quần chúng, phân cơng đảng
viên làm công tác quần chúng, tạo cho mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân gắn bó hơn.
- Đảng lãnh đạo thơng qua chủ trương, định hướng bằng chương trình kế hoạch, khơng can thiệp
sâu vào việc điều hành của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể.
2.6. Về đổi mới phương thức hoạt động, lãnh đạo của đảng bộ cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Xây dựng chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện quy chế làm việc, đưa các hoạt động của tổ chức Đảng vào
nền nếp, đúng chức năng, rõ nhiệm vụ.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng ra nghị quyết chi bộ, nghị quyết Đảng uỷ và nghị quyết Đảng bộ,
làm cho nghị quyết sát thực tế, phù hợp với đa số cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân.
- Tăng cường công tác kiểm tra, coi công tác kiểm tra là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cấp uỷ
trên các lĩnh vực hoạt động.

5



Bài 4:
Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Câu hỏi 1:
Những tác động chủ yếu của bối cảnh quốc tế mới và tình hình trong nước đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh nước ta như thế nào?
Trả lời:
1. Tác động của bối cảnh quốc tế mới.
Cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ trên thế giới có những bước tiến nhảy vọt. Với tốc độ phát
triển như vũ bão hiện nay, khoa học và công nghệ trong thời gian tới chắc chắn sẽ có nhiều kỳ tích,
đặc biệt trong những lĩnh vực: Điện tử, tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng, nghiên cứu vũ
trụ v.v... Những lĩnh vực này đã tác động trực tiếp vào các mặt của đời sống xã hội đối với từng
quốc gia.
Kinh tế tri thức, đó là nền kinh tế dựa trên nền khoa học công nghệ tiên tiến và mạng xa lộ thông tin
hiện đại, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu chuyển dịch nhanh,
không ngừng đổi mới. Song đây cũng là nền kinh tế mang nhiều tính rủi ro, ln đặt ra nhiều thách
thức mới đối với các quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm phát triển.
Tồn cầu hố kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Đó là cơ
hội lớn cho chúng ta thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, rút ngắn
q trình phát triển theo hướng đi tắt đón đầu. Mặt khác, chủ nghĩa tư bản hiện đại và các thế lực
thù địch đang nắm ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, mưu toan lợi dụng xu thế này chi phối q
trình tồn cầu hố kinh tế, phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản, tiến hành cuộc
xâm lăng văn hố và thơng tin, đồng thời bóc lột cơng nhân, tài nguyên các nước kém phát triển,
trong đó có nước ta.
Từ sau Đại hội IX của Đảng đến nay, tình hình chính trị, kinh tế quốc tế diễn biến rất nhanh chóng
và phức tạp, song khơng ngồi nhận định của Đại hội IX. Sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, bất chấp dư
luận quốc tế phản đối cuộc chiến tranh, bất chấp những thông lệ của luật pháp quốc tế, phớt lờ tổ
chức Liên Hợp Quốc, giới cầm quyền Mỹ và Anh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược
ápganixtan, irắc. Điều đó cho thấy, chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng những ưu thế về kinh tế và
quốc phòng, lợi dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, tăng cường chạy đua vũ trang, can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước hòng thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.

2. Tác động của tình hình trong nước.
Bên cạnh những thành tựu đã giành được làm cho thế và lực của nước ta mạnh hơn nhiều so với
trước đây, đất nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ
ra: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội
chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; " diễn biến hồ bình" do các thế lực thù địch gây ra, đến
nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ
nào.
Trong các nguy cơ, cần xác định cho đúng nguy cơ bên trong. Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX
của Đảng, điều cần nhấn mạnh là: Tình trạng tham nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lịng tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là
nguy cơ cần phải được khắc phục, nếu khơng sẽ khó thành cơng trong việc khắc phục những nguy
cơ khác.
Như vậy, những diễn biến mới của tình hình quốc tế, trong nước cho chúng ta thấy sự phức tạp của
tình hình với những tác động nhiều mặt đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân
ta. Trước cơ hội và thách thức, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách
thức, chúng ta một mặt cần tăng cường quốc phòng, an ninh; mặt khác phải tăng cường xây dựng
Đảng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đảm bảo Đảng ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,

6


xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả, phát triển kinh tế, không ngừng
cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn
biến hồ bình" để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Câu hỏi 2: Nội dung đường lối phát triển kinh tế theo Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng là
gì?
Trả lời:
1. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở

thành một nước công nghiệp.
Nhiệm vụ trung tâm của cách mạng nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là phải xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong
đó có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, văn hố và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện thành
công nhiệm vụ quan trọng đó, nhất thiết phải tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố, tức là chuyển
nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công nghiệp văn minh.
Thực chất của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là chuyển toàn bộ nền sản xuất xã hội từ lao động thủ
cơng là chính sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh tồn cầu hố kinh tế, chúng ta
phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập, tự chủ
về đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, không lệ thuộc vào những điều kiện
kinh tế - chính trị do người khác áp đặt, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ
ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế...có năng lực nội sinh về khoa học và cơng nghệ; bảo đảm an
ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, mơi trường...Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, từ đó phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
2. ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo quy luật chung nhất về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất thì bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, cũng đều là kết quả tất yếu sự phát
triển của lực lượng sản xuất.
Trong suốt cả q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, nhiều ngành kinh tế được đầu tư, từng bước hiện đại. Mặt khác, chúng
ta cũng không coi nhẹ việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp. Thực tế những
năm vừa qua, trong nơng nghiệp, nơng thơn, sự thích ứng giữa trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất mới đã tạo ra những bước phát triển quan trọng trong khu vực kinh tế
này.
3. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Trong bối cảnh khu vực hố và tồn cầu hố kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải phát huy cao độ nội lực,

coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ nguồn ngoại lực, tranh thủ nguồn vốn, khoa
học và công nghệ, kinh nghiệm quản lý...được xem là nguồn bổ sung quan trọng cho sự phát triển
của đất nước.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước
trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hố trong nước
(những mặt hàng có lợi thế). Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững, điều này cần phải được quán triệt trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, cả
trước mắt cũng như lâu dài.
4. Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện mơi trường.
Khái niệm phát triển ngày nay được nhìn nhận một cách đầy đủ, toàn diện hơn. Ngoài chỉ số về tăng

7


trưởng kinh tế (thu nhập bình quân đầu người), phát triển còn bao hàm nhiều chỉ số quan trọng khác
về những giá trị văn hoá và nhân văn.
Đối với nước ta, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và cơng bằng xã hội, nâng cao dân trí, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và cải thiện mơi trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp,
đi đơi với xố đói, giảm nghèo...phải được thực hiện ngay trong từng bước đi của quá trình phát
triển.
5. Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phịng, an ninh.
Xây dựng đất nước đi đơi với bảo vệ Tổ quốc, điều đó được quán triệt trong việc kết hợp phát triển
kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh.
Kinh tế phát triển tạo cơ sở để tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Quốc phòng, an ninh
mạnh tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.
Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch chống chủ nghĩa xã hội vẫn khơng ngừng chạy đua vũ
trang. Hồ bình, ổn định đối với từng quốc gia ln ln bị đe doạ. Vì vậy, chúng ta phải không
ngừng nâng cao cảnh giác, cần nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với tăng cường quốc phòng, an ninh.

Câu hỏi 3: Mục tiêu tổng quát, nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm
2001-2010 là gì?
Trả lời:
1. Mục tiêu tổng quát của chiến lược:
- Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
- Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
2. Nội dung chủ yếu của chiến lược:
* Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước là phải đẩy nhanh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn.
- Cơng nghiệp hố nơng nghiệp là q trình chuyển nền sản xuất nơng nghiệp truyền thống sang
nền nơng nghiệp sản xuất hàng hố dưới tác động của cơng nghiệp.
- Cơng nghiệp hố nơng thơn là q trình thay đổi cơ bản kết cấu kinh tế xã hội nông thôn, đặc biệt
là kết cấu lao động.
- Hiện đại hố nơng nghiệp là q trình ứng dụng những tiến bộ của khoa học và công nghệ tiên
tiến vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các sản phẩm nơng nghiệp.
- Hiện đại hố nông thôn là những hoạt động nhằm làm cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của quá trình
sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng của đời sống kinh tế - xã hội, cuộc sống dân cư ở nông thơn có
trình độ hiện đại.
Các q trình này diễn ra đồng thời, đan xen tác động hỗ trợ lẫn nhau.
* Phát triển kinh tế nhiều thành phần
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
thành phần kinh tế bao gồm: Kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế

8



tư bản Nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
- Trong các thành phần kinh tế đó, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
* Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của
Nhà nước.
- Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Các loại thị trường ở nước ta hiện nay gồm: Thị trường hàng hố; thị trường lao
động (cả trong nước và ngồi nước); thị trường khoa học công nghệ; thị trường vốn, thị trường
chứng khoán, bảo hiểm, thị trường tiền tệ; thị trường bất động sản.
- Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
* Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
- Giải quyết việc làm.
- Cải cách chế độ tiền lương.
- Thực hiện chương trình xố đói, giảm nghèo.
- Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động tồn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp
nghĩa, uống nước nhớ nguồn...
- Đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ở nơng thơn như trường học, trạm y tế,
điện nước sạch, chợ và đường giao thơng.
- Chính sách dân số đáp ứng với u cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Tăng cường lãnh đạo và quản lý phong trào tồn dân đấu tranh phịng chống tội phạm, giữ gìn trật
tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội. Xây dựng lối sống văn minh, lành
mạnh.
- Xã hội hố các chính sách xã hội.

Bài 5:
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
1- Phát triển giáo dục-đào tạo là một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự nghiệp cơng

nghiệp hố, hiện đại hố, là điều kiện tiên quyết để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục tăng đầu tư ngân sách cho giáo
dục - đào tạo.
Đổi mới căn bản và toàn diện nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá và dân chủ hoá. Củng cố thành tựu
xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong
5 năm tới, tạo điều kiện cho những địa phương có khả năng hồn thành sớm việc phổ cập giáo dục
trung học phổ thông, mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

9


Đẩy mạnh phong trào học tập, khuyến khích tự học, tự hồn thiện học vấn và tay nghề, bằng những
hình thức giáo dục chính quy và khơng chính quy, thực hiện tốt khẩu hiệu "giáo dục cho mọi
người", cả nước trở thành một xã hội học tập. Xây dựng quy hoạch đào tạo nhân lực theo phương
thức kết hợp học tập trung, học từ xa, học trên mạng.
Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, phấn đấu để ngày càng có nhiều trường
phổ thơng đủ điều kiện học hai buổi mỗi ngày tại trường và được nối mạng Internet, học sinh từ bậc
tiểu học trở lên được học ngoại ngữ và tin học.
ở mọi cấp học, bậc học, kết hợp dạy và học lý thuyết với thực nghiệm và thực hành. Gắn công tác
đào tạo với công tác nghiên cứu khoa học và sản xuất. Nhà trường và cơ sở đào tạo phối hợp với các
tổ chức khoa học và các cán bộ kỹ thuật truyền bá tri thức sản xuất, chuyển giao công nghệ mới cho
dân. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị cho thanh niên,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và
từng địa phương. Nhanh chóng hiện đại hố một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được
đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội, khuyến khích phát triển hệ thống trường, lớp dạy nghề dân
lập và tư thục; trang bị cho thanh niên những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp
thu công nghệ mới để tự tạo việc làm, chủ động tìm kiếm cơ hội lập thân, lập nghiệp.
Mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, tạo chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo,
phát huy nội lực tự học, nghiên cứu khoa học của sinh viên. Tập trung đầu tư vào hai trường đại học

quốc gia thành những trung tâm đào tạo chất lượng cao, chuẩn bị đội ngũ nhân tài cho đất nước, xây
dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm để nhanh chóng đào tạo được đội ngũ giáo viên
giỏi cho hệ thống trường, lớp ở bậc phổ thông cũng như ở bậc đại học.
Huy động sức mạnh toàn dân vào việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển đa dạng
các hình thức đào tạo, mang lại cho mọi người dân cơ hội học tập và đóng góp nhân lực, vật lực, tài
lực cho giáo dục. Phát triển mạnh hội khuyến học, quỹ khuyến khích tài năng và các tổ chức bảo trợ,
hỗ trợ giáo dục.
Tăng cường giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho thế hệ trẻ. ở các trường đại học,
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, cải tiến và hiện đại hoá việc giảng dạy và học tập các bộ mơn
khoa học Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tiếp
tục xây dựng các trường phổ thông nội trú cho con em dân tộc thiểu số, chú trọng đặc biệt đến
quyền lợi học tập của nhân dân ở gần hai nghìn xã nghèo nhất.
Trong những năm trước mắt, đẩy mạnh việc chấn hưng giáo dục, nhanh chóng giải quyết dứt điểm
những vấn đề bức xúc: tinh giản chương trình đào tạo cho phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý của
học sinh và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá về nguồn nhân lực; cải tiến chế độ
thi cử, khắc phục khuynh hướng "thương mại hoá" giáo dục, ngăn chặn những tiêu cực trong giáo
dục; khắc phục tình trạng làm và sử dụng bằng giả; có cơ chế chặt chẽ trong việc cấp bằng, cơng
nhận học hàm, học vị; chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước đối với toàn bộ hệ thống giáo dục, hệ
thống nhà trường cả cơng lập và ngồi cơng lập.
Tăng dần ngân sách nhà nước cho việc đưa những người giỏi đi học ở những nước có nền khoa học
và cơng nghệ tiên tiến. Có quy hoạch và chính sách tuyển chọn người giỏi, đặc biệt chú ý con em
công nhân và nông dân, để đào tạo thành những chuyên gia đầu ngành bằng ngân sách quốc gia,
nguồn vốn của dân, nguồn tài trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
2- Phát triển khoa học - công nghệ cùng với phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là

10


nền tảng và động lực cho cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.

Bằng nguồn lực của nhà nước và các doanh nghiệp, tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi
mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường; xây dựng năng lực cơng
nghệ quốc gia. Có chính sách phát huy thế mạnh về trí tuệ của người Việt Nam, tiếp thu một cách
sáng tạo những công nghệ nhập khẩu, từng bước tạo ra công nghệ mới, đẩy mạnh việc hợp tác về
công nghệ với các nước. Tạo thị trường cho tiến bộ cơng nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm
khuyến khích sáng tạo và ràng buộc việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ. Coi trọng chất lượng đào
tạo nghề nghiệp để đáp ứng nhu cầu nhân lực, đặc biệt là chất lượng của đội ngũ công nhân, kỹ sư
thực hành, những nhà kinh doanh và nhà quản lý. Ưu tiên đào tạo phục vụ một số ngành mũi nhọn,
nhất là cơng nghệ phần mềm, phục vụ cơng nghiệp hố nơng nghiệp và phát triển nơng thơn. Sử
dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ.
Phát triển khoa học xã hội và nhân văn, hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, tạo
cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng con người; khai thác và phát huy những di sản văn hoá dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hoá
mới của Việt Nam. Xây dựng quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học xã hội và
nhân văn.
Khoa học và công nghệ đóng góp trực tiếp và ngày càng lớn vào quá trình đất nước tăng trưởng
nhanh và bền vững. Ưu tiên phát triển nghiên cứu, triển khai các công nghệ ứng dụng, đồng thời
tiếp tục coi trọng nghiên cứu khoa học cơ bản. Hồn thành xây dựng những khu cơng nghệ cao và
hệ thống phịng thí nghiệm trọng điểm quốc gia.
Có chính sách ưu đãi đối với nhà khoa học có cơng trình nghiên cứu, ứng dụng xuất sắc trong sản
xuất và đời sống, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao, những cán bộ khoa học và công nghệ công
tác tại các vùng khó khăn, vùng nơng thơn. Có chính sách động viên đội ngũ trí thức bám sát cơ sở
sản xuất, hướng dẫn nhân dân nắm bắt và làm chủ những cơng nghệ mới.
3- Phát triển văn hố.
Văn hố là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa và phát triển nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết
dân tộc, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp văn hoá là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn
hoá lành mạnh trong xã hội,
trước hết trong tổ chức đảng và nhà nước, trong các đoàn thể nhân dân và trong từng gia đình.
Đầu tư cho văn hố là đầu tư cho sự phát triển của xã hội và con người. Tạo điều kiện để nhân dân
trở thành những chủ thể sáng tạo văn hoá đồng thời là người hưởng thụ ngày càng nhiều các thành
quả văn hoá. Đẩy mạnh xây dựng thư viện, nhà văn hố, nhà thơng tin, câu lạc bộ sức khoẻ, sân bãi
thể dục thể thao, khu vui chơi giải trí...
Khai thác, bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá dân tộc, các di tích lịch sử, văn hố và danh lam
thắng cảnh, các kho tàng văn hố Hán Nơm, các giá trị văn hố, nghệ thuật, ngơn ngữ, chữ viết và
thuần phong mỹ tục của các dân tộc. Tiếp thu tinh hoa văn hoá của thế giới, làm giàu đẹp thêm nền
văn hoá Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại.
Nêu cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi
dưỡng các thành viên của mình có lối sống lành mạnh, trung thực, nhân ái, thuỷ chung, tôn trọng kỷ

11


cương phép nước, cần cù lao động và học tập. Xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc và có văn hố,
làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh
phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá".
Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ nêu cao trách
nhiệm trước nhân dân, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng
và nghệ thuật cao, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người, xứng đáng với đất nước đổi mới và dân
tộc anh hùng. Văn nghệ miêu tả, cổ vũ cái đúng, cái tốt trong quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với xã hội, với thiên nhiên; phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp
hèn. Khơng ngừng nâng cao trình độ thẩm mỹ và thưởng thức nghệ thuật của cơng chúng. Phát huy
vai trị thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận của phê bình văn học nghệ thuật. Tiếp tục đấu tranh
chống các khuynh hướng sáng tác suy đồi, trái với đường lối văn hố, văn nghệ của Đảng. Chăm
sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn nghệ sĩ. Chú trọng bồi
dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả.


Bài 10: Công tác vận động nhân dân của người đảng viên

Những quan điểm, tư tưởng, lời dạy của Người đến ngày hơm nay vẫn cịn ngun giá trị đối với
việc bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (xem Hồ Chí Minh tồn tập, t.5, NXBCTQG) sau khi phân
tích “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc
tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chỉ ra
những nguyên nhân yếu kém, thiếu đoàn kết, thống nhất của cán bộ, đảng viên là do chủ quan và
hẹp hòi, một trong những nguồn gốc của căn bệnh ấy là không thấy hết vai trò của quần chúng nhân
dân. Người phê phán: “Họ quên rằng: so với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm
người dân mới có một người đảng viên. Nếu khơng có nhân dân giúp sức, thì Đảng khơng làm được
việc gì hết”. Người nhắc nhở: “Ta phải liên hệ mật thiết với dân chúng. Không được xa rời dân
chúng. Rời xa dân chúng là cô độc. Cơ độc thì nhất định thất bại”. Người căn dặn: “Chúng ta phải
ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì, khó khăn mấy họ cũng làm
được, hy sinh mấy họ cũng khơng sợ”, “dân chúng đồng lịng việc gì cũng làm được. Dân chúng
khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên”. Nhận thức sâu sắc về vị trí và vai trò to lớn của quần
chúng nhân dân, Người cũng chỉ ra vai trị của Đảng và Chính phủ với nhân dân: “Chính phủ và
Đảng chỉ mưu giải phóng cho nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm
và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Người cũng chỉ ra những hạn chế của cán bộ, đảng viên khi
tiếp xúc và làm việc với nhân dân là thiếu phương pháp làm việc đúng đắn: “Cán bộ, đảng viên
không hiểu rõ hai lẽ: vì ai mà làm, đối ai phụ trách, khi gặp mỗi cơng việc khơng biết tìm đủ cách
giải thích cho dân hiểu”. Người dạy cán bộ, đảng viên khi tiến hành công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân, trước hết cần phải chịu khó tìm đủ mọi cách để giải thích, tuyên truyền cho nhân dân hiểu
được rằng: Những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, để có đường lối, chính sách đúng, phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân, tồn Đảng nói chung và mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng phải ln gắn bó mật
thiết với quần chúng nhân dân, hiểu tâm tư và nguyện vọng của quần chúng thông qua việc học hỏi
quần chúng. Để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên hiểu và làm được điều đó, tháng 10-1949,

Người viết bài “Dân vận” nêu rõ: “Việc dân vận rất quan trọng... dân vận khéo thì việc gì cũng
thành cơng”. Người chỉ ra: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để
sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân” mà “lực lượng toàn dân là sức mạnh vô địch”.

12


Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ ra cho mọi cán bộ làm cơng tác dân vận là: “Ĩc nghĩ, mắt trơng, tai
nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Lời dạy của Người rất dễ hiểu, dễ nhớ nhưng rất sâu sắc, chí lý,
chí tình. Điều đó có nghĩa là muốn làm cơng tác dân vận tốt phải có đường lối, nghị quyết, phải xác
định đúng đắn mục đích chính trị, có phương châm và phương pháp tiến hành phù hợp.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Dân chúng rất khơn
khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng ta phải học dân chúng”. Thông qua ý kiến của dân
chúng mà định ra đường lối, chủ trương, chính sách và cũng thông qua dân chúng để kiểm tra việc
tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách và đánh giá đúng về phẩm chất, trình độ năng
lực của tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người chỉ ra:
“Chúng ta phải kiên quyết thực hành theo nguyên tắc sau đây: 1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn
bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. 2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng
thảo luận và tìm cách giải quyết... 3. Dựa vào tình hình thiết thực của dân chúng để tổ chức và đưa
họ ra tranh đấu. 4. Tuyệt đối không theo đuôi quần chúng, nhưng phải khéo tập trung ý kiến của
nhân dân, hóa nó thành đường lối lãnh đạo... 5. Phải đưa chính trị vào giữa dân gian...”. Người
khẳng định: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải trong quần chúng mà ra,
trở lại nơi quần chúng”. Người cũng thẳng thắn phê phán những tư tưởng, việc làm chưa đúng, chỉ
rõ những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên, những
thói hư, tật xấu cần khắc phục, cần sửa chữa như: thói ba hoa, bệnh hẹp hòi, tham lam, lười biếng,
kiêu ngạo, địa phương, cá nhân chủ nghĩa, xa rời quần chúng... Người nêu ví dụ, biểu hiện của bệnh
cá nhân là “gặp dân chúng thì khơng điều tra, khơng hỏi han, khơng tun truyền, khơng giải thích.
Xem như dân chúng khơng có quan hệ gì với mình. Thấy những việc có hại cho dân chúng cũng
mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản”. Biểu hiện của thói ba hoa là: dài dịng, rỗng tuếch, cầu
kỳ, khô khan, lúng túng, cẩu thả, sáo rỗng, khi tun truyền, vận động nhân dân thì kém chuẩn bị,

nói mênh mơng, nói khơng ai hiểu... Khi tun truyền, vận động nhân dân thì phải: “Học cách nói
của quần chúng, chớ nói như cách giảng sách. Mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết phải tỏ rõ cái
tư tưởng và lịng ước ao của quần chúng. Phải ln dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết
thực và dễ hiểu. Khi viết, khi nói phải ln làm thế nào cho ai cũng hiểu được... Bao giờ cũng phải
tự hỏi “Ta viết cho ai xem? Nói cho ai nghe? Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ, chớ nói,
chớ viết””...
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng di sản tinh thần của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta là cực kỳ to lớn và quý báu. Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã
xuất hiện những điều kiện thuận lợi và cả những vấn đề mới, thách thức mới. Để làm tốt hơn công
tác dân vận cần phải không ngừng nâng cao năng lực, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp
vận động quần chúng cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Vấn đề cốt lõi là các cấp ủy đảng,
mọi cán bộ, đảng viên phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là: bất kỳ việc gì cũng vì hạnh phúc nhân dân. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân là quan hệ gắn
bó máu thịt. Các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gần gũi, tiếp xúc, lắng nghe ý kiến
của nhân dân, tích cực học tập, nghiên cứu để nâng cao kiến thức mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động là
đợt sinh hoạt chính trị lớn có nhiều ý nghĩa quan trọng, trong đó việc quán triệt về đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, nghiên cứu tư tưởng, đạo đức, tác phong và những lời dạy của Người
về cơng tác dân vận càng có ý nghĩa thiết thực, qua đó giúp cho mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên
khơng ngừng đổi mới và hồn thiện phương pháp, tác phong công tác để làm tốt chức trách, nhiệm
vụ được giao, xứng đáng với sự tin cậy và yêu mến của nhân dân. Làm tốt công tác dân vận chính là
góp phần giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Đảng.

Bài 7:
Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

13


Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các

quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển. Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững mơi trường hồ
bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng
thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và
vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo các
ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất
đồng và tranh chấp bằng thương lượng hồ bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức
ép, áp đặt và cường quyền. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường.
Chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch
hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ
động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp và nền kinh tế. Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước láng giềng. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước ASEAN,
cùng xây dựng Đơng Nam á thành một khu vực hồ bình, khơng có vũ khí hạt nhân, ổn định, hợp
tác cùng phát triển. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập
dân tộc, các nước đang phát triển ở châu á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ la-tinh, các nước trong
Phong trào Không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng phát triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhau. Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt
động ở các diễn đàn đa phương. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. ủng hộ và cùng
nhân dân thế giới đấu tranh nhằm loại trừ hồn tồn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và mọi phương
tiện chiến tranh hiện đại khác giết người hàng loạt, bảo vệ hồ bình, chống nguy cơ chiến tranh và
chạy đua vũ trang; tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ và quyền tự lựa chọn con đường
phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ,
cơng bằng. Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công

nhân, với các đảng cánh tả, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách
mạng và tiến bộ trên thế giới. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Mở rộng hơn nữa
công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các tổ chức nhân
dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, góp
phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân
các nước trong khu vực và trên thế giới. Đẩy mạnh công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, làm tốt
cơng tác dự báo tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có những chủ trương, chính sách đối ngoại
thích hợp khi tình hình thay đổi. Tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hố đối
ngoại. Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại, kể cả kinh tế đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Nhà nước,
hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại nhân dân. Hoàn thiện cơ chế quản lý thống
nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ cơng tác
đối ngoại, làm cho thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con người, công cuộc đổi mới của Việt Nam,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày
càng rộng rãi của thế giới

14


Bài 6:
Tăng cường quốc phòng, an ninh, bải vệ Tổ quốc.
Việc xây dựng, tăng cường sức mạnh quốc phòng trong thời kỳ mới có vị trí, vai trị rất
quan trọng, góp phần ngăn ngừa, làm thất bại âm mưu phá hoại, chiến tranh xâm lược của
kẻ thù; phòng, chống, làm giảm tác hại của thiên tai và môi trường, giữ vững hịa bình, ổn
định để xây dựng, phát triển tiềm lực đất nước.
Xây dựng sức mạnh quốc phòng trong thời kỳ mới cần tiến hành toàn diện cả sức mạnh vật chất
và sức mạnh tinh thần. Trước hết, phải chăm lo xây dựng lực lượng quốc phòng. Các cấp, ngành,
từ trung ương đến cơ sở cần tổ chức, động viên tồn dân tham gia xây dựng, củng cố nền quốc
phịng toàn dân ngày càng vững mạnh. Xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân có lực
lượng thường trực mạnh, lực lượng dự bị hùng hậu, thực sự là nòng cốt, sẵn sàng đối phó thắng

lợi với các tình huống quốc phịng trong thời bình, cũng như khi chiến tranh xảy ra. Xây dựng
LLVT trong thời kỳ mới cần có cơ cấu, tổ chức phù hợp với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. LLVT có biên chế gọn, tổ chức mạnh, được trang bị các phương tiện ngày càng hiện đại,
phải được tuyển chọn có chất lượng ngày càng cao về thể chất, trí tuệ; được huấn luyện, diễn tập
và duy trì ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao.
Cần tập trung xây dựng, củng cố ngày càng vững chắc thế trận của nền quốc phịng tồn dân, trên
mọi vùng, miền của đất nước, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm. Chú trọng xây dựng
thế trận phối hợp đấu tranh trên các mặt trận của lực lượng chính trị và tác chiến của LLVT trong
thời bình cũng như khi có chiến tranh xảy ra, nịng cốt là các khu vực phòng thủ, cốt lõi là thế
trận lòng dân. Xây dựng thế trận lòng dân trong thời kỳ mới cả ở trong và ngoài nước, đối với cả
người Việt Nam sinh sống, làm việc ở nước ngoài, cũng như người nước ngoài sinh sống, làm
việc tại Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng tăng cường tình đồn kết dân tộc, tạo sự ủng hộ và
giúp đỡ quốc tế để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đấu tranh thắng lợi với các tình huống.
Đẩy mạnh xây dựng tiềm lực của nền quốc phịng tồn dân, thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh
tế, văn hóa, khoa học và cơng nghệ… Sự gắn kết đó phải được tiến hành ngay từ bước quy hoạch
đầu tư phát triển, trong kế hoạch thực hiện các dự án, đến quá trình xây dựng, sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm, nâng cao đời sống nhân dân, tạo nguồn hàng xuất khẩu, tăng thu nhập và tạo ra nguồn
dự trữ quốc gia ngày càng lớn, tăng tiềm lực quốc phòng. Chiến lược xây dựng và củng cố quốc
phòng, kế hoạch và phương án đấu tranh quốc phòng được xây dựng trên cơ sở đánh giá và dự
báo đúng tình hình trong nước và quốc tế có tác động đến quốc phịng nước ta. Đây là cơ sở rất
quan trọng để đề ra chủ trương, phương thức xây dựng và đấu tranh, giành quyền chủ động tăng

15


cường sức mạnh quốc phịng, đối phó thắng lợi với các tình huống phi vũ trang và vũ trang.
Cần khơng ngừng đổi mới phương pháp giáo dục, nâng cao nhận thức về QP-AN, tinh thần cảnh
giác cách mạng cho toàn dân, nhất là LLVT nhân dân; lựa chọn nội dung, vận dụng nhiều phương
pháp, phát huy thế mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng, lựa chọn thời điểm thích ứng
với từng đối tượng để đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, để mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ âm

mưu, thủ đoạn chống phá nước ta của các thế lực thù địch. Các cấp, các ngành đẩy mạnh tuyên
truyền, xây dựng quyết tâm thực hiện CNH-HĐH, đưa đất nước đi lên CNXH.
Cùng với xây dựng, phải đẩy mạnh đấu tranh trên nhiều lĩnh vực, nhất là QP-AN, kinh tế và đối
ngoại... cả trong thời bình cũng như khi có chiến tranh. Trong đấu tranh, cần vận dụng sáng tạo
nhiều hình thức, biện pháp, trước hết lấy đấu tranh phi vũ trang là chính, làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá nước ta, nhất là chiến lược diễn biến hịa bình, bạo loạn lật đổ, xâm lấn
lãnh thổ, lãnh hải... bảo vệ vững chắc chế độ và Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để xây dựng, củng cố sức mạnh quốc phòng trong thời kỳ mới, phải giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, điều hành thống nhất của Nhà nước. Đây là nhân tố quan trọng, góp phần
quyết định thành công trong xây dựng sức mạnh quốc phòng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
được thể hiện trong xây dựng đường lối, xác định chủ trương, phương hướng, phương thức xây
dựng và đấu tranh quốc phòng... Sự điều hành thống nhất của Nhà nước, được thể hiện trong xây
dựng hệ thống các văn bản pháp quy, trong hoạch định chiến lược, sách lược, trong quy hoạch, kế
hoạch chỉ đạo và điều hành, tạo sự kết hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, gắn chặt xây dựng
với đấu tranh...
Xây dựng sức mạnh quốc phòng là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Sức mạnh quốc phòng trong
thời kỳ mới, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, nhất là sức mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học, đối ngoại, an ninh, quân sự...; được xây dựng bằng sự nỗ lực của toàn quân, toàn dân
kết hợp sự ủng hộ, hợp tác quốc tế. Sức mạnh quốc phòng phải bảo đảm ngăn ngừa, đẩy lùi, đối
phó thắng lợi với các nguy cơ và tình huống chiến lược, cả trong thời bình và khi có chiến tranh.
Đây là cơ sở giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, xây dựng phát triển tiềm lực mọi mặt của
đất nước.

Bài 3:
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện
và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội
phát triển tiên tiến.
Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở
nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân

chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép,
còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển
tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn
định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng
đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai mặt dân chủ và pháp luật

16


trong Nhà nước pháp quyền gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của Nhà
nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại. C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đánh giá cao giá trị
nhân văn của học thuyết Nhà nước pháp quyền mà cách mạng tư sản đã cống hiến cho nhân loại.
Ở nước ta để bảo đảm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh thì một trong những vấn đề chiến lược là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do vậy, cần làm sáng tỏ về bản chất, nội dung cũng
như những đặc trưng của nó, tạo thành hệ thống quan điểm lý luận định hướng cho việc hoàn thiện
nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội để từng bước xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, có sắc
thái riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, truyền thống, văn hóa của Việt Nam. Cần
nhận thức rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là quá trình lâu dài, phải được tiến
hành từng bước, chia thành nhiều giai đoạn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi giai đoạn tương
ứng với một mức độ phát triển của xã hội và của nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cần qn triệt những vấn đề có tính
ngun tắc sau:
1 - Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để
phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là Nhà nước trong đó bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là thống nhất, khơng tam quyền phân lập

nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực
nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ
được các quyền tự do dân chủ, đặc biệt là quyền tự do kinh doanh và lợi ích hợp pháp của nhân dân,
ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện lạm quyền từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, đồng
thời ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, thiếu kỷ cương. Đó là Nhà nước mà mọi tổ
chức (kể cả tổ chức đảng), hoạt động phải dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách
nhiệm trước cơng dân về mọi hoạt động của mình. Vì vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa có quan hệ khăng khít với xây dựng xã hội công dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
huy động nội lực của toàn thể nhân dân, của tất cả các thành phần kinh tế vào sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba
hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, là bảo đảm và kết quả của cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2 - Hiến pháp và pháp luật nước ta ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý
xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện
vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo
chí, quyền khiếu nại, tố cáo, v.v.. Các quyền và sự tự do đó trong nhiều trường hợp là điều kiện để
nhân dân kiểm tra hoạt động của Nhà nước, nhưng trước hết đó là một trong những phương thức
quan trọng để thực hiện dân chủ. Vì vậy, cần chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mọi người; tơn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã ký kết hoặc tham gia. Đổi mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cán bộ,
công chức trong việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước thống nhất. Sự thống nhất đó là ở mục tiêu
chung phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân tộc. Xét theo cơ chế tổ chức thì quyền
lực nhà nước tối cao, tức là những chức năng và thẩm quyền cao nhất thuộc về những cơ quan đại
diện cho nhân dân. Ở nước ta, đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội có thẩm
quyền lập hiến và lập pháp; quyền giám sát tối cao; quyền quyết định kế hoạch phát triển đất nước;


17


quyền lập ra các cơ quan và chức vụ quốc gia cao nhất. Hội đồng nhân dân các cấp là những cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
3 - Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và phối hợp trong việc thực hiện ba quyền:
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có thể hiểu rằng, sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối
hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động lập pháp đang đứng trước những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp
của việc điều chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Lập pháp phải bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng pháp luật vào cuộc sống. Hoạt động lập pháp phải
vừa bảo đảm chất lượng, vừa theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Muốn vậy, cần tổ chức tốt hơn nữa
quy trình lập pháp. Quy trình đó phải vừa bảo đảm phản ánh được sự phát triển sống động của đời
sống xã hội trong các lĩnh vực, lại vừa bảo đảm tính chun mơn pháp lý của các quy định để có sự
phối hợp chặt chẽ giữa khâu làm luật với việc ban hành các văn bản dưới luật, tổ chức thực hiện
pháp luật.
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách nhưng tổ chức và hoạt động của bộ máy hành pháp
của nước ta còn nhiều nhược điểm, còn nhiều mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu phát triển
của đất nước. Tổ chức hành pháp chưa thơng suốt, cịn yếu trong việc xử lý những mối liên kết dọc
và ngang, thậm chí cịn có hiện tượng cục bộ. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch,
làm trầm trọng thêm tác phong làm việc quan liêu và dựa dẫm. Thẩm quyền và trách nhiệm cá nhân
chưa được quy định chặt chẽ. Thái độ làm việc và trách nhiệm trước dân của đội ngũ cán bộ, cơng
chức vẫn cịn là vấn đề đáng nói hiện nay.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta trước sau như một đều
khẳng định các u cầu về bình đẳng, cơng bằng, về sự độc lập của toà án khi xét xử, bảo đảm mọi
vi phạm đều bị xử lý, tăng cường bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người

dân. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động tư pháp đã trở thành một hoạt động hết sức quan trọng của
Nhà nước ta, thể hiện vai trò mới, những đòi hỏi và những nhiệm vụ mới của lĩnh vực hoạt động đó.
Trên cơ sở những thành tựu và kinh nghiệm đã có, cần đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết
08 của Bộ Chính trị (khóa IX) mà những nội dung cơ bản phải là cải cách hoạt động xét xử và cải
cách các thủ tục tố tụng, nâng cao năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm chính
trị - pháp lý của cán bộ tư pháp.
4 - Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực nhà nước và
cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa trung ương và địa phương. Sự phân cơng, phân
cấp ấy phải nhằm khuyến khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Việc phân công và phân cấp giữa trung ương và địa phương phải dựa trên nền tảng của một hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh, có tính chun nghiệp cao và đủ sức giải quyết mọi vấn đề do thực
tiễn đặt ra. Đây đang là một khâu yếu.
5 - Đề cao pháp luật, tăng cường pháp chế phải đi liền với việc đưa pháp luật vào cuộc sống, tạo thói
quen và nếp sống tôn trọng pháp luật trong cán bộ và mọi tầng lớp nhân dân. Cho nên, xây dựng
pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống phải thực sự là hai mặt của một nhiệm vụ. Đổi mới và
hoàn thiện pháp luật phải đi liền với đổi mới và hoàn thiện thực tiễn áp dụng pháp luật. Tăng cường
hoạt động xây dựng pháp luật phải đi liền với việc khuyến khích và tạo điều kiện cho các hoạt động
của các tổ chức và công dân nhằm sử dụng đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của họ, sự
khuyến khích tính tích cực pháp lý phải đi liền với việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý, đổi mới và

18


cải cách hành chính và hệ thống tư pháp. Đồng thời, đề cao pháp luật và pháp chế còn đặt ra nhiệm
vụ phải bằng mọi cách nâng cao sự hiểu biết pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm và tội
phạm, kiên quyết chống quan liêu và tham nhũng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
6 - Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật là những hoạt động luôn luôn cần đến sự kiểm tra, giám
sát đầy đủ và hữu hiệu. Các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải thực sự được coi trọng và
hoàn thiện ở mức cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước luôn nằm trong quỹ đạo phục vụ nhân

dân và đất nước, pháp luật luôn luôn được tôn trọng, pháp chế và kỷ cương được giữ vững. Đối với
các cơ quan nhà nước, kiểm tra, giám sát là cách tốt nhất để các cơ quan đó thực hiện đúng chức
trách và thẩm quyền của mình, đồng thời là điều kiện phối hợp các hoạt động một cách có hiệu quả.
Đến lượt mình, các hoạt động, các hình thức và cơ chế kiểm tra, giám sát phải có sự phân cơng, phối
hợp đầy đủ và hồn thiện hơn.
7 - Nhà nước pháp quyền của chế độ ta thể hiện những tư tưởng, quan điểm tích cực, tiến bộ, phản
ánh mơ ước và khát vọng của nhân dân đối với cơng lý, tự do, bình đẳng. Trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay, về mặt nhận thức, cần khẳng
định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của Nhà nước pháp quyền với hệ
thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo; với phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân
cơng, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với
việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo
đảm một xã hội trật tự, kỷ cương.
Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền không mâu thuẫn với hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo.
Vấn đề là ở chỗ, bản chất của đảng cầm quyền thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích
chung của dân tộc, vì con người hay khơng và do đó có sẵn sàng tuân theo những quy định của pháp
luật hay khơng; có đủ phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to lớn mà một đảng
cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng gặp phải hay khơng và nó có đặt ra và thực hiện được những
kỷ luật nghiêm khắc cho chính mình hay không, v.v..
Thực tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Hơn 74 năm qua, Đảng thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của tồn dân tộc. Đường lối
của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất
nước. Đó chính là căn cứ, là điều kiện cần thiết để chúng ta hoàn thiện pháp luật. Hiến pháp của
nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng phù hợp với những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, căn cứ vào kinh nghiệm thực
tiễn và yêu cầu của xã hội, cần cụ thể hóa hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo của Đảng, mà cụ thể là các
tổ chức đảng và cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo Đảng với các cơ quan nhà nước và các chức vụ nhà
nước các cấp. Hoàn thiện những cơ sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được những biểu hiện bao biện, làm
thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng vào cơng việc chính quyền
mà có thời kỳ nhiều nơi mắc phải.

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, phát huy tối đa vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và của các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong vai
trò phản biện và trong giám sát hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của
Đảng được tăng cường không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực
lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và
khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ
chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ
chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng nhất, cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

19



×