Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy học Lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
DỰ ÁN PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC THPT – VIỆN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐHSPHN
TÀI LIỆU
TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC CHO GIÁO VIÊN
CỦA CÁC TỈNH THAM GIA DỰ ÁN
(MÔN LỊCH SỬ LỚP 11)
PGS. TS Trịnh Đình Tùng (Chủ biên)
ThS. Nguyễn Thị Thế Bình
ThS. Nguyễn Mạnh Hưởng

HÀ NỘI, 2007
MỤC LỤC
CHUYÊN ĐỀ 1 – ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN LỊCH SỬ LỚP 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. Mục tiêu
1. Về kiến thức
2. Về kĩ năng
3. Về thái độ
II. Về những điểm mới và khó của chương trình, sách giáo khoa lịch sử 11 (cơ bản và
nâng cao).
1. Phần lịch sử thế giới cận đại
2. Phần lịch sử thế giới hiện đại (1917 – 1945)
3. Phần lịch sử Việt Nam lớp 11 (từ năm 1858 đến 1918)
III. Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
1. Phát huy tích cực học tập của học sinh theo hướng đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay
2. Quá trình dạy học lịch sử ở trường phổ thông và bản chất của nó
3. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy và học môn lịch sử lớp 11
4. Thực tế việc sử dụng phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông
IV. Một số phương pháp tích cực cần được vận dụng trong dạy học lịch sử lớp 11 trung
học phổ thông


1. Sử dụng sách giáo khoa theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh
2. Phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh
trong dạy học lịch sử
3. Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử để phát triển tư
duy học sinh
V. Đổi mới soạn giáo án
CHUYÊN ĐỀ 2 - ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
I. Mục tiêu
1. Về kiến thức
2. Về kĩ năng
3. Về thái độ
II. Mấy vấn đề về ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong đổi mới phương
pháp dạy – học lịch sử
1. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học là xu thế phát triển
tất yếu của nền giáo dục hiện đại
2
2. Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông
3. Những điều kiện cần thiết để đưa công nghệ thông tin và truyền thông vào đổi
mới phương pháp dạy – học lịch sử ở trường phổ thông
4. Một số yêu cầu về phương pháp luận và lí luận dạy học khi ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông vào đổi mới phương pháp dạy – học lịch sử ở trường
phổ thông
III. Hướng dẫn thiết kế và trình diễn trực quan bài giảng điện tử trên phần mềm
PowerPoint trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1. Những khái niệm cơ bản về phần mềm PowerPoint
2. Khởi động và thoát khỏi chương trình PowerPoint
3. Quy trình thiết kế và trình diễn trực quan bài giảng điện tử trên phần mềm
PowerPoint trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông

IV Một số hình thức, phương pháp sử dụng phần mềm PowerPoint nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1. Sử dụng Power Point hỗ trợ thiết kế và trình chiếu các kênh hình, tư liệu và sự
kiện lịch sử
2. Sử dụng Power Point hỗ trợ trình chiếu băng hình, các trích đoạn phim tư liệu
trong dạy học lịch sử
3. Sử dụng Power Point hỗ trợ xây dựng và trình chiếu các niên biểu, sơ đồ, đồ thị,
biểu đồ trong dạy học lịch sử
4. Sử dụng Power Point hỗ trợ xây dựng bài tập, bài kiểm tra, đố vui lịch sử, thực
hiện các hoạt động ngoại khóa
V. Giới thiệu một số phần mềm tiện ích khi ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
1. Sử dụng phần mềm Violet trong dạy học lịch sử
2. Sử dụng phần mềm HTVideo để xử lí và biên tập các đoạn phim tư liệu trong
dạy học lịch sử
VI. Khai thác và sử dụng thông tin trên mạng Internet trong dạy học lịch sử ở trường
phổ thông
1. Tìm kiếm thông tin trên mạng
2. Lưu thông tin, hình ảnh, các đoạn phim tư liệu từ trong Web
CHUYÊN ĐỀ 3 – ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
I. Mục tiêu
1. Về kiến thức
2. Về kĩ năng
3. Về thái độ
II. Phương pháp kiểm tra đánh giá trong dạy học lịch sử lớp 11
3
CHUYÊN ĐỀ 1 - ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MÔN LỊCH SỬ LỚP 11 TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
I. Mục tiêu

Sau khi học xong chuyên đề này, giáo viên cần.
1. Về kiến thức
+/ Hiểu rõ những vấn đề lý luận về đổi mới phương pháp dạy học nói chung,
dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông.
+/ Biết được những đổi mới về cấu tạo chương trình, những nội dung mới và
khó của bộ môn lịch sử nói chung, lớp 11 nói riêng ở trường phổ thông.
+/ Đánh giá đúng thực trạng dạy học lịch sử ở trường phổ thông, nhất là dạy
học lịch sử lớp 11 ở các tỉnh miền núi hiện nay và nguyên nhân của tình hình đó.
+/ Hiểu rõ các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh, đặc biệt có khả năng vận dụng các phương pháp đó trong thực tiễn để
nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử lớp 11 ở địa phương.
2. Về kĩ năng
+/ Biết đánh giá đúng thực trạng dạy học lịch sử hiện nay, phát hiện được
những nguyên nhân của tình hình đó, xác định trách nhiệm của người giáo viên
trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
+/ Mạnh dạn và kiên trì áp dụng phương pháp dạy học tích cực, vận dụng
thành thạo các hình thức tổ chức dạy học, phương pháp và phương tiện tiên tiến.
3. Về thái độ
Có tinh thần cầu thị, ủng hộ đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Tham gia
tích cực trong đợt tập huấn. Mạnh dạn và chủ động trao đổi, thảo luận trong quá
trình học tập để đi đến những giải pháp nâng cao chất lượng dạy học lịch sử lớp
11 trường THPT.
II. Về những điểm mới và khó của chương trình, sách giáo
khoa lịch sử 11 (cơ bản và nâng cao).
1. Phần lịch sử thế giới cận đại
1.1. Những điểm mới của chương trình, nội dung phần Lịch sử thế giới
cận đại lớp 11 trung học phổ thông
Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 được học ở cả hai chương trình cơ bản và
nâng cao. Đương nhiên mức độ chênh lệch khá lớn vì nhiều nội dung của Lịch sử
thế giới cận đại chương trình cơ bản đã được học ở lớp 10.

Cụ thể, Lịch sử thế giới cận đại (nâng cao) bao gồm:
4
Chương I. Các cuộc cách mạng tư sản (giữa thế kỷ XVI - cuối thế kỷ
XVIII)
Chương II. Các nước Âu - Mĩ thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Chương III. Phong trào công nhân thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Chương IV. Các nước châu Á từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Chương V. Các nước châu Phi, Mĩ latinh thời cận đại
Chương VI. Chiến tranh thế giới thứ nhất
Ôn tập Lịch sử thế giới cận đại
Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 chương trình cơ bản chỉ có 3 chương.
Chương I. Các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ latinh từ đầu thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX
Chương II. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918)
Chương III. Những thành tựu văn hoá thời cận đại.
Ôn tập Lịch sử thế giới cận đại
Như vậy, so với chương trình lớp 11 trước đây, chương trình Lịch sử thế
giới cận đại lớp 11 Ban nâng cao có nặng hơn. Nó không chỉ bao gồm cả Lịch sử
thế giới cận đại ở lớp 10 và lớp 11 mà còn thêm nhiều nội dung mới, ví dụ cũng
bài Cách mạng tư sản Pháp, hiện nay chỉ được học 2 tiết, còn ở Ban nâng cao lớp
11 là 3 tiết; Thêm nội dung mới như: Châu Âu từ chiến tranh Napônêông đến Hội
nghị Viên, hay các nước châu Phi, Mĩ latinh thời cận đại được học trong 2 tiết
Tuy vậy, cấu tạo của các chương, bài trong sách thì có gọn hơn, hợp logic
lịch sử hơn.
Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 Ban nâng cao được chia làm 6 chương
tương ứng với các thời kỳ và nội dung cơ bản của Lịch sử thế giới cận đại như
các cuộc cách mạng tư sản, các nước đế quốc Âu Mĩ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX; Các nước châu Á, châu Phi, Mĩ latinh thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Như vậy, 3 chương đầu với học sinh lớp 11 Ban nâng cao được học toàn bộ
châu Âu và Bắc Mĩ thời cận đại với 3 nội dung lớn tương ứng với 3 chương là các

cuộc cách mạng tư sản; Các nước Âu Mĩ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và
phong trào công nhân. Điều đó giúp học sinh nhận thức lịch sử hệ thống hơn.
Chương IV, chương V, học sinh được học lịch sử một số nước và khu vực chính
ở châu Á, châu Phi và Mĩ latinh. Chương trình như vậy vừa đảm bảo tính khoa
học của sử học (học theo nước và khu vực), vừa đảm bảo tính tư tưởng (phong
trào công nhân, phong trào giải phóng dân tộc được làm nổi bật). Riêng Đông
Nam Á cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được tăng thời lượng thỏa đáng.
1.2. Những điểm mới của nội dung Lịch sử thế giới cận đại lớp 11
5
a) Về cơ bản nội dung Lịch sử thế giới cận đại ở lớp 11 Ban nâng cao - là
ổn định, không có nhiều điểm khác so với Lịch sử thế giới cận đại được học trong
các chương trình trước đây, cả quan điểm lẫn sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong
gần 350 năm từ cuộc cách mạng tư sản đầu tiên - cách mạng Nêđéclan 1566 đến
cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều biến cố
thăng trầm, chứng kiến những thay đổi lớn lao trên tất cả các mặt của đời sống xã
hội loài người. Để đảm bảo tính cơ bản, tính hệ thống, tính dân tộc, tính hiện đại,
chúng ta tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và Bắc Mĩ đưa đến
sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản. Có thể nói một nội dung lớn rất cơ
bản của Lịch sử thế giới cận đại là cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải
quyết vấn đề ai thắng ai giữa giai cấp tư sản đang lên được quần chúng nhân dân
ủng hộ với chế độ phong kiến đã lỗi thời lạc hậu. Cuộc đấu tranh này diễn ra
quyết liệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, từ kinh tế, chính trị,
quân sự, tư tưởng, văn hoá - xã hội Nó diễn ra rộng khắp châu Âu rồi Bắc Mĩ,
kéo dài từ giữa thế kỷ XVI đến nửa sau thế kỷ XIX.
Thứ hai: Cuộc cách mạng công nghiệp. Đây là nội dung lịch sử lớn và rất
quan trọng mặc dù thời lượng dành cho nó rất ít. Sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản
đối với chế độ phong kiến không phải chỉ trong các cuộc cách mạng xã hội, trong
đấu tranh giai cấp. Cuộc đấu tranh đó chỉ có thể giải quyết xong xuôi, triệt để khi
giai cấp tư sản tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp. Chính cách mạng công

nghiệp mà chủ nghĩa tư bản tiến hành không chỉ đảm bảo sự thắng thế của giai cấp
tư sản đối với chế độ phong kiến mà còn đưa xã hội loài người lên một giai đoạn
phát triển cao hơn - thời đại văn minh công nghiệp. Nội dung lịch sử này trước kia
có được đề cập đến xong vẫn bị xem nhẹ. Trong sách giáo khoa lớp 11 nâng cao
lần này, cuộc cách mạng công nghiệp, sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật, văn học
nghệ thuật được chú trọng hơn.
Thứ ba: Chủ nghĩa tư bản được thiết lập ở hầu hết các nước châu Âu và Bắc
Mĩ, giai cấp tư sản thay thế giai cấp phong kiến thống trị xã hội. Sau các cuộc cách
mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, đưa chủ nghĩa tư bản
trở thành hệ thống thế giới, chuyển dần từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc
quyền - chủ nghĩa đế quốc - gắn liền với quá trình đó là quá trình xâm lược, bành
trướng thuộc địa của các nước tư bản Âu Mĩ, biến hầu hết các nước Á - Phi, Mĩ
latinh thành thuộc địa, thị trường của chủ nghĩa đế quốc.
Thứ tư: Cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản cũng xuất
hiện. Sự bóc lột nặng nề của giai cấp tư sản đã dẫn tới cuộc đấu tranh của giai cấp
6
công nhân chống giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh này phát triển từ thấp đến cao,
từ tự phát đến tự giác, từ không có tổ chức đến tổ chức Sự ra đời của chủ nghĩa
Mác đánh dấu bằng Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản tháng 2 - 1848, đưa phong
trào công nhân thành phong trào cộng sản quốc tế.
Thứ năm: Sự xâm lược, thống trị của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc
địa, phụ thuộc ở Á, Phi, Mĩ latinh dẫn tới bùng nổ phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc. Lúc đầu, vì thiếu đường lối cách mạng đúng đắn nên phong trào lần lượt
thất bại. Sang đầu thế kỷ XX, do ảnh hưởng của cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân thế giới nói chung, cuộc cách mạng dân chủ Nga 1905 - 1907 nói riêng, đặc
biệt sự thức tỉnh ý thức dân tộc của giai cấp tư sản ở các nước thuộc địa, phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước Á, Phi, Mĩ latinh có những bước tiến bộ nhanh
chóng. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới và nhân dân các nước thuộc
địa, phụ thuộc chống chủ nghĩa thực dân, chế độ thuộc địa là nội dung quan trọng
của Lịch sử thế giới cận đại. Cuộc đấu tranh cũng trải qua nhiều thất bại, tổn thất

nặng nề. Song sự đoàn kết của nhân dân bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc đã
mang lại nhiều thắng lợi, tiêu biểu là cách mạng tháng hai và cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917.
Cuối cùng là quan hệ quốc tế, sự phát triển không đều giữa các nước đế
quốc, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa là nguyên nhân sâu
xa dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới đầu tiên trong lịch sử loài người. Kết cục
của cuộc chiến tranh và sự ra đời của nước vô sản đầu tiên trên thế giới đã kết
thúc thời cận đại.
b) Phần Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 cơ bản, trình bày các nước châu Á,
châu Phi và khu vực Mĩ latinh từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX và cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918). Đây là một vấn đề khó khi giảng dạy
Lịch sử thế giới cận đại là thiếu hệ thống, không liên tục. Vì vậy khi nghiên cứu
học tập phần này cần nhắc lại những nét chính về nội dung lịch sử trước đó có
liên quan.
Nội dung nổi bật phần này là các nước châu Á, châu Phi, khu vực Mĩ latinh
từ thế kỷ XIX đã không đứng vững trước làn sóng thôn tính ào ạt của các nước
phương Tây có trình độ kinh tế cao hơn và trang bị kỹ thuật quân sự cũng tối tân
hơn nên lần lượt trở thành thuộc địa và phụ thuộc. Riêng Nhật Bản với cuộc Duy
tân Minh trị (1868) đã vượt qua được thử thách đó, giữ vững chủ quyền, vươn lên
thành một nước tư bản và bước vào hàng ngũ đế quốc. Thành công của Nhật Bản
đã gây lên tiếng vang lớn, ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhiều nước châu Á theo khuynh hướng tư sản, Trung Quốc do sự bảo thủ của
7
triều Mãn Thanh đứng đầu là Từ Hi đã bị thất bại trong việc áp dụng kinh nghiệm
duy tân trong cuộc vận động năm Mậu Tuất (1898), đã tiến theo con đường cách
mạng với học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn, dẫn đến cuộc cách mạng Tân
Hợi (19110), nhưng phải dừng lại nửa chừng. Phong trào giải phóng dân tộc cũng
lên cao ở Inđônêxia, Philippin, Đông Dương
c) Về những nội dung khó của lịch sử thế giới cận đại trong sách giáo khoa
lịch sử lớp 11.

Nhìn chung Lịch sử thế giới cận đại dưới con mắt của các nhà sử học
mácxít được phản ánh trong sách giáo khoa lịch sử lớp 11 tương đối ổn định,
không có những xáo trộn, thay đổi cả sự kiện, hiện tượng, tư liệu cũng như quan
điểm nghiên cứu. Tuy nhiên chúng ta cũng lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Về vấn đề phân kỳ lịch sử thế giới cận đại, mốc mở đầu, kết thúc
cũng như phân chia các thời kỳ, giai đoạn của thời đại này, có nhiều ý kiến khác
nhau.
Chúng ta biết rằng lịch sử phát triển liên tục, là một hệ thống hoàn chỉnh
không thể chia cắt. Sự phân kỳ cũng chỉ có ý nghĩa tương đối mang tính chất quy
ước, song lại rất cần thiết trong nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Mỗi người có
một quan điểm khác nhau trong việc lựa chọn tiêu chí phân kỳ. Hơn thế nữa, sự
vận động lịch sử không diễn ra đồng đều với nơi này lại không phù hợp với nơi
khác và quan điểm khác nhau. Sử học của chúng ta là nền sử học mácxít, lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho nghiên cứu, giảng dạy lịch sử. Vì vậy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết về hình thái kinh tế xã hội vẫn là tiêu chí căn
bản cho việc phân kỳ các thời đại. Cách mạng Hà Lan bùng nổ năm 1566, dẫu
diễn ra dưới hình thức một cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, không có ảnh
hưởng sâu rộng như các cuộc cách mạng Anh, Mĩ, Pháp, nhưng lại là cuộc cách
mạng tư sản đầu tiên, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 kết thúc thời cận đại mở đầu thời hiện đại cũng
theo tiêu chí ý nghĩa như vậy.
Thứ hai: Các cuộc cách mạng công nghiệp, sự phát triển của khoa học kỹ
thuật thời cận đại cần được chú trọng, nhấn mạnh hơn trong giảng dạy. Nếu trước
kia chỉ đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh thì nay cần mở rộng hơn ở
Pháp, Đức, Mĩ Cần cho học sinh thấy rằng "xét cho cùng năng suất lao động là
cái đảm bảo cho thắng lợi của trật tự xã hội này đối với xã hội khác" (Lênin). Chủ
nghĩa tư bản chỉ có thể thắng được chế độ phong kiến khi nó tiến hành cách mạng
8
công nghiệp. Cũng cần thấy rằng mỗi nước có con đường tiến hành cách mạng

công nghiệp riêng của mình, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Thứ ba: Các nước tư bản Âu Mĩ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được viết
"mềm" hơn, bỏ đi những nhận định đánh giá mang tính áp đặt, giáo điều như
"Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản giẫy chết", "Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn
tột cùng của chủ nghĩa tư bản"
Thứ tư: Khác với các sách giáo khoa lịch sử trước đây, trong sách giáo
khoa lịch sử lớp 11 lần này cung cấp thêm tư liệu lịch sử, bản đồ, tranh, ảnh lịch
sử. Đây là nguồn tư liệu giúp cho thầy và trò nhận thức đầy đủ hơn, chân thực
hơn đối với các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên điều đó cũng gây không ít khó khăn
trong giảng dạy vì nhiều tư liệu, kênh hình, không phải giáo viên nào cũng hiểu
hết nội dung lịch sử, ý nghĩa của kênh hình đó.
Thứ năm: Nhìn chung nội dung Lịch sử thế giới cận đại lớp 11 Ban KHXH
- NV là khá phong phú với nhiều sự kiện hiện tượng phức tạp. Nó đòi hỏi người
giáo viên không những phải nắm vững lịch sử thời kỳ này để biết 10 dạy 1, mà
còn phải tinh thông nghề nghiệp, đủ trình độ, bản lĩnh để xác định đúng đắn nội
dung cơ bản của khoá trình.
1.3. Nội dung cơ bản cần chú ý ở các chương
Chương 1- Các cuộc cách mạng tư sản (giữa thế kỷ XVI - cuối thế kỷ
XVIII), chương này có 4 ý, trình bày các cuộc cách mạng tư bản đầu tiên, đề cập
đến quá trình ra đời và phát triển của CNTB từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX.
Mỗi cuộc cách mạng tư sản nổ ra trong thời kỳ này vì những duyên cớ trực tiếp,
diễn biến, kết quả khác nhau song đều có những nét chung như giai cấp tư sản giữ
vai trò lãnh đạo, quần chúng nhân dân lao động là lực lượng quan trọng quyết
định thắng lợi của cách mạng, đều thực hiện những nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và
mở đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển.Vì vậy, khi dạy học chương I giáo viên
lưu ý học sinh về sự phát triển hợp quy luật của lịch sử loài người qua các sự kiện
này. Ba cuộc cách mạng tư sản đầu tiên: Hà Lan, Anh, Mĩ được học trong 3 tiết,
riêng cách mạng Pháp được học trong 3 tiết. Điều đó chứng tỏ cách mạng Pháp
được chú trọng, trong chương trình bộ môn, là cuộc cách mạng tư sản điển hình,
có ảnh hưởng sâu sắc trong lịch sử thế giới ở thế kỷ XIX và cả sau này. Khi giảng

dạy 4 cuộc cách mạng này, ngoài việc cung cấp cho các em thấy được cái chung
và giải thích vì sao như vậy (đối với học sinh giỏi).
Chương II - Các nước Âu Mĩ thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được học trong 7
tiết với 4 nội dung cơ bản: Châu Âu từ chiến tranh Napônêông đến Hội nghị
Viên; Cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, các cuộc
9
cách mạng tư sản ở châu Âu và Bắc Mĩ giữa thế kỷ XIX và các nước đế quốc
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sau thắng lợi của cách mạng Pháp 1789, với sự
ảnh hưởng của nó, chủ nghĩa tư bản đã được xác lập ở nhiều nơi trên thế giới. Ở
những nước tiên tiến, cách mạng công nghiệp đã diễn ra, tạo điều kiện củng cố
thành quả của cách mạng tư sản.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dẫn đến yêu
cầu ngày càng cao về thị trường, nguyên liệu đối với các nước tư bản. Vì vậy cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với sự chuyển biến của CNTB từ tự do cạnh
tranh sang độc quyền đó là sự tăng cường xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thì
trường và bóc lột nhân dân thuộc địa.
Chương III - Phong trào công nhân giữa thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Chương này có 5 tiết, trình bày các vấn đề cơ bản sau:
- Phong trào công nhân được bắt đầu cùng với sự ra đời của giai cấp vô sản
công nghiệp, chống lại sự bóc lột của giai cấp tư sản bằng nhiều hình thức đấu
tranh phong phú.
- Vai trò của C. Mác và Ăngghen trong việc sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học, đưa phong trào công nhân phát triển lên một bước mới. Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản; Quốc tế thứ nhất.
- Cuộc khởi nghĩa ngày 18 - 3- 1871 và sự thành lập Công xã Pari.
- Phong trào công nhân cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Quốc tế thứ hai.
- V.I. Lênin và phong trào công nhân Nga. Cách mạng 1905 - 1907.
Chương IV - Các nước châu Á từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX được
học trong 7 tiết. Nhật Bản, Ấn Độ mỗi nước 1 tiết; Trung Quốc: 2 tiết, Đông Nam
Á: 3 tiết. Chương này giới thiệu cho học sinh tình hình các nước châu Á cuối thế

kỷ XIX đầu thế kỷ XX với các con đường khác nhau: Nhật Bản nhờ có Minh Trị
duy tân mà thoát khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, trở thành đế quốc hùng
mạnh duy nhất ở châu Á. Trung Quốc, Ấn Độ là 2 nước lớn nhất ở châu Á trở
thành thuộc địa, nửa thuộc địa; Các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng có
những nét riêng khác nhau. Khi giảng dạy chương này cần chú trọng những nét
chung, nét riêng, con đường của mỗi nước trước sự xâm lược của chủ nghĩa thế
giới phương Tây.
Chương V - Các nước châu Phi và Mĩ latinh thời cận đại được học trong 2
tiết, mỗi châu lục 1 tiết. Đây là nội dung lịch sử mới mà học sinh chưa được học ở
trung học cơ sở. Kiến thức của chương cũng nhiều và nặng, do đó khi dạy chương
này chỉ giúp cho học sinh nắm được những nét chính về tình hình châu Phi và Mĩ
latinh thời cận đại và một số phong trào đấu tranh giành độc lập tiêu biểu.
10
Chương VI - Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1918 được học 2 tiết.
Chương này cung cấp cho học sinh về sự kiện kết thúc thời cận đại, cũng là kết
quả phát triển của lịch sử thời kỳ này. Đó chính là nguyên nhân sâu xa, diễn biến,
tính chất và hậu quả của nó đối với nhân loại.
2. Phần lịch sử thế giới hiện đại (1917 - 1945)
2.1. Những điểm mới về nội dung, chương trình Lịch sử thế giới hiện đại
lớp 11.
a) Chương trình THPT lớp 11 mới được nâng cao hơn về nội dung và thời
lượng để đảm bảo tính hệ thống và toàn diện của chương trình và sách giáo khoa.
Tính hệ thống và tính toàn diện được thể hiện ở chỗ lịch sử phát triển của thế giới
được thể hiện ở các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá và khoa học kỹ thuật,
chứ không chỉ tập trung vào chiến tranh, cách mạng như trước đây. Các sự kiện lịch
sử được sắp xếp theo trình tự diễn biến của thời gian và đặt trong mối quan hệ, gắn
bó mật thiết với nhau. Lịch sử các quốc gia dân tộc được đặt trong mối quan hệ với
lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử thế giới. Việc đảm bảo tính hệ thống và tính
toàn diện của chương trình lịch sử thế giới sẽ tạo điều kiện để học sinh THPT có thể
nắm được những kiến thức cơ bản nhất về lịch sử thế giới tiếp cận những vấn đề này

một cách hoàn chỉnh, đáp ứng những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước hiện nay.
b) Nội dung và quá trình phát triển của Lịch sử thế giới (1917 - 1945) được
cấu tạo theo khu vực địa lý lịch sử chứ không theo hình thái kinh tế - xã hội như
trước kia (hệ thống xã hội chủ nghĩa, hệ thống tư bản chủ nghĩa, phong trào công
nhân, phong trào giải phóng dân tộc ). Với cách cấu tạo theo khu vực địa lý -
lịch sử, học sinh sẽ nhận thức được mối quan hệ gắn bó giữa các quốc gia trong
khu vực trong quá trình phát triển của lịch sử. Từ đó, học sinh sẽ có được những
nhận thức bước đầu về tính khu vực, mối quan hệ khu vực, sự cần thiết phải hội
nhập khu vực và làm thế nào để hội nhập với khu vực và thế giới một cách hiệu
quả nhất.
c) Chương trình và sách giáo khoa mới rất chú trọng đến lịch sử phát triển
kinh tế, văn hoá - xã hội, khoa học kỹ thuật Những nội dung này được thể hiện
trong từng chương, từng bài, từng tiết học để học sinh nắm được sự tiến hoá của
Lịch sử thế giới hiện đại lớp 11 trên các bình diện khác nhau. Chính sự phát triển
của văn hoá, khoa học - kỹ thuật đã làm thay đổi bộ mặt thế giới và tác động mạnh
mẽ đến tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
d) Chương trình và sách giáo khoa mới thể hiện tính cập nhật về nội dung
khoa học và về quan điểm đối với các sự kiện của lịch sử thế giới hiện đại. Khác
11
với các phần về lịch sử cổ trung đại, và cận đại, lịch sử thế giới hiện đại diễn biến
hết sức phức tạp, các sự kiện chằng chéo, đan xen lẫn nhau. Nhiều sự kiện, biến
cố lịch sử cho đến nay vẫn còn có nhiều quan điểm đánh giá khác nhau, thậm chí
trái ngược nhau. Chương trình và sách giáo khoa mới đã cố gắng thể hiện tính cập
nhật về nội dung, tuy vậy vẫn phải đảm bảo tính ổn định của vấn đề và xem xét
các sự kiện theo đúng đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng ta. Chẳng hạn như
cách nhìn nhận, đánh giá về Chính sách kinh tế mới của nước Nga Xô viết (Bài:
Liên Xô xây dựng chủ nghĩa xã hội 1921 - 1942) cũng cần thực sự khách quan,
khoa học. Về tập thể hoá nông nghiệp, cũng cần có cách nhìn mới về vấn đề này.
Trước đây, chúng ta thường coi đây là một chính sách mang ý nghĩa quy luật phổ

biến của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay đã có
nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Do vậy, giáo viên cần lưu ý đến vấn đề này
và trình bày ngắn gọn như sách giáo khoa và sách giáo viên đã nêu. Giáo viên có
thể tham khảo tư liệu đọc thêm trong sách giáo viên để nhận thức rõ hơn về
những vấn đề nêu trên.
c) Lịch sử thế giới hiện đại của cấp THCS và cấp THPT đươc cấu tạo đồng
tâm. Những nội dung được học ở THCS sẽ được tiếp tục đề cập đến trong chương
trình THPT, một số tên bài, tên chương, mục có thể giống nhau, nhưng yêu cầu
và mức độ giảng dạy rất khác nhau. Đối với THCS, yêu cầu đặt ra đối với học
sinh chỉ dừng lại ở mức nhận biết cụ thể và có hệ thống quá trình phát triển của
lịch sử. Đến cấp THPT, học sinh không chỉ dừng lại ở mức độ nhận biết lịch sử
và biết cách vận dụng trong thực tế cuộc sống. Trên cơ sở cái nền chung của lịch
sử thế giới, học sinh bước đầu đi vào một số sự kiện chính, một số quốc gia và
khu vực điển hình. Đây cũng là xu hướng khá phổ biến trong giảng dạy lịch sử
thế giới ở các nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay. Sau khi học xong đã
nắm được những nét khái quát chung về lịch sử thế giới, các em sẽ đi vào tìm
hiểu một số khu vực, quốc gia điển hình (Case, Stydy). Từ đó có khả năng tích
hợp giữa lịch sử dân tộc với khu vực và thế giới. Học sinh THPT, đặc biệt là học
sinh ban KHXH - NV cần nhận thức được một cách hệ thống tiến trình phát triển
của lịch sử thế giới, hiểu được bản chất, đặc trưng, quy luật của lịch sử thế giới.
2.2. Một số nội dung cơ bản cần lưu ý khi giảng dạy phần Lịch sử thế
giới hiện đại sách giáo khoa lớp 11THPT
Nội dung sách giáo khoa lớp 11THPT đề cập đến một thời kỳ phát triển
mới của Lịch sử thế giới (1917 - 1945), chứa đựng những sự kiện đa dạng, phức
tạp của hệ thống thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX. Trong đó nổi bật lên là 4 vấn
đề cơ bản sau đây:
12
a) Về cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN) tháng Mười Nga và công cuộc
xây dựng CNXH ở Liên Xô.
Trước hết, chúng ta cần nhận thức rằng khi giảng dạy về CNXH trong bối

cảnh hiện nay, sau khi CNXH đã đổ bể ở Liên Xô và các nước Đông Âu nhưng
cần khẳng định rằng lịch sử thế giới vẫn nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa
tư bản (CNTB) lên CNXH bắt đầu từ cách mạng XHCN tháng Mười Nga năm
1917. Có điều, thực tế lịch sử cho thấy, đúng như V.I. Lênin đã từng cảnh báo,
nếu hình dung lịch sử như một con đường thẳng tắp, trơn tru, không có những
bước gập ghềnh, khúc khuỷu, không có những thất bại tạm thời, cả những bước
lùi đối khi rất lớn, thì đó là một cách nhận thức không biện chứng, không khoa
học và không đúng về mặt lý luận. Luận chứng của chủ nghĩa Mác về tính tất yếu
của sự thay đổi CNTB bằng chủ nghĩa cộng sản là cơ sở phương pháp luận cho
việc xem xét tương lai của CNXH. CNXH có quá trình hình thành và phát triển
không ngừng trong suốt chiều dài của lịch sử. Thắng lợi của cách mạng XHCN
tháng Mười Nga đã làm cho CNXH từ lý tưởng trở thành hiện thực. Những non
yếu, sai lầm, thiếu sót của một chế độ xã hội trong quá trình hình thành là một tất
yếu của quy luật lịch sử. Nếu nhìn lại lịch sử phát triển của CNTB chúng ta sẽ
thấy, nền Cộng hoà tư sản Pháp được sinh ta từ cách mạng Pháp 1789, phải mất
82 năm mới được khôi phục. Ở Mĩ, chế độ nô lệ bị thủ tiêu vào giữa thế kỷ XIX;
phụ nữ Mĩ chỉ được quyền bầu cử vào năm 1920. Chủ nghĩa xã hội được xây
dựng với mô hình Xô Viết, còn có không ít khuyết tật do sai lầm chủ quan, nhưng
đã thể hiện được tính ưu việt của mình.
Về cuộc cách mạng XHCN tháng Mười Nga, nếu như trước đây chúng ta
thường tập trung vào cách mạng tháng Mười thì nay cần lưu ý đến cách mạng
tháng Hai 1917, kết quả của nó và sự chuyển tiếp từ cách mạng tháng Hai sang
cách mạng tháng Mười. Từ đó, học sinh sẽ nhận thức và lý giải được vì sao năm
1917 ở nước Nga lại có hai cuộc cách mạng. Về ý nghĩa của cách mạng tháng
Mười Nga, cần làm rõ ý nghĩa mở đầu và mở đường của cách mạng Nga đối với
phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù ngày nay chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên
Xô nhưng ý nghĩa mở đầu và mở đường của cách mạng Nga vẫn tiếp tục được
khẳng định. Sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở các nước Trung Quốc,
Việt Nam, Lào, Cuba, CHDCND Triều Tiên là một thực tế lịch sử không thể phủ
nhận. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, các nước Đông Âu chỉ là thất bại

của một mô hình chủ nghĩa xã hội, không phải là sụp đổ lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
càng không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuy nhiên, không phải
vì thế mà chúng ta đưa những nhận định hoặc kết luận mang tính áp đặt để học sinh
13
tiếp nhận một cách khiên cưỡng mà phải dẫn dắt học sinh tự đi đến những nhận xét
của mình.
Về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cần lưu ý rằng đây là
quá trình khai phá một con đường hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử.
Hơn nữa, xuất phát điểm của Liên Xô khi bắt đầu quá trình này rất khó khăn: là
nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế còn thấp, lại nằm trong vòng
vây thù địch của chủ nghĩa tư bản và luôn luôn bị đe doạ trước sự tấn công về
quân sự của các thế lực thù địch Vì vậy, muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trước
tiên Liên Xô phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và củng cố quốc phòng
vững mạnh. Trong bối cảnh đó, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trọng tâm và mở đầu cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cần làm rõ tính ưu việt của CNXH ngay trong thời kỳ đầu của chế độ mới.
Dưới chế độ Xô viết, người lao động đươc giải phóng khỏi mọi ách áp bức, bóc
lột và sáng tạo ra những thành tựu vĩ đại trên mọi lĩnh vực, biến nước Nga vẫn
được Lênin gọi là nước "tiểu nông lạc hậu" thành một cường quốc công nghiệp
đứng thứ hai trên thế giới chỉ trong khoảng chưa đầy nửa thế kỷ, và đóng vai trò
quyết định trong cuộc chiến tranh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cứu loài người
thoát khỏi thảm hoạ của chủ nghĩa phát xít.
CNXH đã đóng vai trò là thành trì của phong trào cách mạng thế giới, chỗ
dựa vững chắc cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình thế giới.
Bên cạnh những thành tựu to lớn, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ này cũng đã bộc lộ một số thiếu sót, sai lầm (như tư tưởng nóng vội,
muốn đốt cháy giai đoạn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, những biểu
hiện thiếu dân chủ, xử trí oan cho mọi người ). Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, giáo viên cũng chưa cần thiết nêu ra ở đây. Nội dung này
sẽ đề cập ở lớp 12 THPT.

b) Về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, chúng ta đều biết rằng CNTB đã
có lịch sử phát triển trên 400 năm. CNTB đã tạo ra những lực lượng sản xuất đồ
sộ, những máy móc tinh vi với những nguồn vật liệu và năng lượng mới Với nền
sản xuất đại công nghiệp, CNTB đã tạo ra thị trường thế giới, thay cho tình trạng
biệt lập trước đó của các khu vực, các dân tộc, quốc gia theo kiểu tự cung, tự cấp.
Do xâm chiếm, bóc lột thuộc địa, bóp nặn thị trường thế giới, chủ nghĩa tư bản đã
làm cho nền sản xuất và tiêu dùng của tất cả các quốc gia mang tính chất thế giới.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ 1918 - 1945,
chủ nghĩa tư bản đã trải qua những bước phát triển thăng trầm, đầy kịch tính. Yêu
cầu đặt ra trong khi giảng dạy về CNTB thời kỳ này là chúng ta cần dẫn dắt học
14
sinh để các em tiếp cận được những nội dung cơ bản nhất trong sự phát triển của
CNTB trải qua 3 giai đoạn phát triển chính sau đây:
- 5 năm đầu sau chiến tranh (1918 - 1923): khủng hoảng kinh tế, chính trị
sau chiến tranh, cao trào cách mạng bùng nổ ở châu Âu.
- 5 năm tiếp theo (1924 - 1929): phục hồi và phát triển nhanh chóng về
kinh tế, ổn định về chính trị.
- 10 năm cuối (1929 - 1939): đại khủng hoảng kinh tế dẫn tới sự xuất hiện
của chủ nghĩa phát xít và sự bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 bùng nổ đã chấm dứt thời kỳ ổn
định ngắn ngủi, đe doạ sự tồn tại và tác động mạnh mẽ đến xu hướng phát triển
của CNTB. Để cứu vãn tình thế, các nước tư bản chủ nghĩa phải xem xét lại con
đường phát triển của mình. Nếu như các nước Anh, Pháp và điển hình là Mĩ đã
tiến hành những cải cách kinh tế - xã hội để thích nghi với tình hình mới, tạo điều
kiện cho sự phát triển lâu dài của chủ nghĩa tư bản thì các nước Đức, Italia và
Nhật Bản lại đi theo con đường phát xít hoá chế độ chính trị để đàn áp phong trào
cách mạng trong nước và gây chiến tranh xâm lược thuộc địa. Để làm rõ những
nội dung cơ bản đó, sau khi học khái quát về châu Âu, học sinh sẽ đi vào tìm hiểu
về Mĩ và Nhật, với tư cách là hai nước tư bản chủ nghĩa điển hình hai xu hướng
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ này.

Trong bối cảnh hiện nay, khi giảng dạy về chủ nghĩa tư bản, cần trình bày
một cách khách quan, khoa học về những thành tựu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ
thuật mà chủ nghĩa tư bản đạt được. Tuy nhiên, cũng cần chỉ rõ những mâu thuẫn
thuộc về bản chất, những mặt trái không thể khắc phục được của chủ nghĩa tư
bản. Cần làm rõ tính chất phản động của chủ nghĩa phát xít và những tội ác mà
chủ nghĩa phát xít gây ra đối với nhân loại.
c) Về phong trào độc lập dân tộc ở châu Á trong những năm 1918 - 1939,
cần lưu ý rằng, đây là thời kỳ diễn ra những chuyển biến lớn của phong trào dưới
ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và sự kết thúc cuộc Chiến tranh thế
giới thứ nhất. Phong trào lên cao, lan rộng toàn châu lục theo gương cách mạng
Nga ở nhiều nước, các Đảng Cộng sản được thành lập và gánh vác trách nhiệm
lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc như: Trung Quốc, Việt Nam, Mông
Cổ Trong khi đó, phong trào dân tộc tư sản cũng tiếp tục phát triển và có những
bước tiến mới so với thời kỳ trước. Ở một số nước, giai cấp tư sản nắm vai trò
lãnh đạo phong trào độc lập dân tộc như: Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, một nước ở Đông
Nam Á.
15
Trên cơ sở những nét khai quát về phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á
nói chung, học sinh sẽ được giáo viên hướng dẫn tìm hiểu về phong trào cách
mạng ở Trung Quốc và khu vực Đông Nam Á thời kỳ 1918 - 1939. Đây là những
nước và khu vực có mối quan hệ và ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Về phong
trào cách mạng Trung Quốc, trong thời kỳ này đã diễn ra nhiều sự kiện phức tạp,
nhưng đối với học sinh lớp 11 THPT, giáo viên chỉ đi vào một sự kiện cơ bản
nhất để học sinh bước đầu tiếp cận với lịch sử cách mạng dân chủ mới ở Trung
Quốc, không nên đi sâu vào chi tiết, diễn biến sự kiện.
So với chương trình và sách giáo khoa đã sử dụng trước đây, phần lịch sử
Đông Nam Á trong chương trình và sách giáo khoa mới được đặc biệt chú trọng,
bởi vì việc dành cho lịch sử khu vực mà chúng ta đã và đang hội nhập, là hết sức
cần thiết. Chúng ta đã trở thành thành viên của ASEAN từ tháng 7 - 1995, việc
tăng cường hiểu biết về lịch sử Đông Nam Á là rất cấp bách. Trong khi giảng dạy

lịch sử Đông Nam Á, chúng ta cần lưu ý đến tính khu vực của Đông Nam Á và
nhìn nhận các nước trong một tổng thể để thấy được những nét chung, thấy được
sự thống nhất trong đa dạng của Đông Nam Á. Trên cơ sở những điểm chung,
chúng ta sẽ đi vào một số nước điển hình như: các nước Đông Dương trong cuộc
đấu tranh chống Pháp (trường hợp điển hình cho khu vực Đông Nam Á lục địa)
và Inđônêxia chống thực dân Hà Lan (điển hình cho khu vực Đông Nam Á hải
đảo). Đây là thời kỳ mà phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á diễn ra
những chuyển biến quan trọng, đặc biệt là sự xuất hiện xu hướng vô sản trong
phong trào giải phóng dân tộc. Như vậy phong trào giải phóng dân tộc ở Đông
Nam Á đã xuất hiện và phát triển song song hai xu hướng: tư sản và vô sản. Sự
lựa chọn xu hướng nào là phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử cụ thể và so sánh lực
lượng giai cấp xã hội ở mỗi nước. Cho đến khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á chĩa mũi nhọn vào
chủ nghĩa phát xít nhật.
d) Về chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)
Cuộc chiến tranh lớn nhất, khốc liệt nhất trong lịch sử nhân loại. Đây
không phải là vấn đề mới, nhưng vấn đề đặt ra ở đây là cần đổi mới cách tiếp cận
vấn đề về chiến tranh. Nếu như trước đây chúng ta thường tập trung nhiều vào
diễn biến chiến tranh, tường thuật các trận đánh, số người tham chiến, số thương
vong thì nay cần có cách nhìn khác. Chiến tranh và hoà bình ngày nay đã trở
thành một trong những vấn đề chính trị quan trọng nhất của thời đại, do vậy
chúng ta cần giúp học sinh nhận thức được vì sao chiến tranh bùng nổ (nói cách
khác là con đường dẫn đến chiến tranh), chiến tranh diễn ra như thế nào (phác hoạ
16
toàn cảnh những nội dung chính) và chiến tranh đã tác động đến tình hình thế giới
như thế nào. Từ đó, học sinh sẽ có nhận thức đúng đắn về chiến tranh, hậu quả
của nó đối với lịch sử nhân loại và tự giác suy nghĩ, hành động để góp phần ngăn
chặn chiến tranh, bảo vệ hoà bình. Giảng dạy về chiến tranh thế giới thứ hai trong
bối cảnh 60 năm đã trôi qua, chúng ta cần dẫn dắt học sinh nhận thức rõ vai trò
của những lực lượng tham gia vào cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít: vai

trò của Liên Xô, của các nước đồng minh Anh - Mĩ, của cuộc kháng chiến của nội
dung các nước bị phát xít chiếm đóng và các lực lượng hoà bình, dân chủ trên thế
giới. Đồng thời, trên cơ sở những kiến thức của lịch sử thế giới, cần lưu ý đến
những sự kiện của chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra tại Đông Dương và khu vực
Đông Nam Á. Sự tích hợp giữa kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử khu vực với lịch
sử dân tộc là yêu cầu cần thiết trong dạy học lịch sử trong bối cảnh khu vực hoá
và toàn cầu hoá hiện nay.
3. Phần Lịch sử Việt Nam lớp 11 (từ năm 1858 đến 1918)
3.1. Nhận thức chung
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo chung, nội dung phần Lịch sử Việt Nam trong
sách có nhiệm vụ phát triển tiềm lực, phát huy năng khiếu sử học của học sinh.
Có nghĩa là, cho dù sách được viết cho học sinh theo chuyên ban nào đi chăng
nữa thì cũng đều phải đảm bảo cung cấp những tri thức cơ bản cập nhật, hiện đại,
tương đối ổn định về lịch sử dân tộc giai đoạn 1858 - 1918, giúp các em phát triển
vốn hiểu biết, các kỹ năng học tập và hình thành những thái độ ứng xử đúng đắn.
Việc phân kỳ lịch sử ở đây dựa trên những nguyên tắc đã được thống nhất
và tương đối ổn định trong thời gian qua, nghĩa là tuy vẫn dựa trên nền tảng của
phân kỳ lịch sử thế giới là chủ yếu (sự thay đổi của các phương thức sản xuất)
nhưng lại được vận dụng linh hoạt vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt
Nam.
Căn cứ vào yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp dạy học bộ môn,
phần viết cho Ban nâng cao và Ban cơ bản được cấu tạo có một số điểm khác
nhau, không chỉ ở thời lượng, dung lượng kiến thức mà còn ở cách trình bày, cách
đặt câu hỏi và bài tập.
Đối với Ban nâng cao, ngoài việc tạo điều kiện cho học sinh tái tạo và nắm
vững các tri thức lịch sử được học, nội dung sách giáo khoa lớp 11 cung cấp thêm
các tri thức mới, sâu hơn, rộng hơn chương trình lớp trước, đồng thời giúp cho
các em phát triển năng lực tư duy, khă năng tự học, tự làm giàu kiến thức, khả
năng đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
17

Với tinh thần đó, sách giáo khoa được viết ra trên cơ sở lựa chọn những tri
thức phù hợp về mặt khoa học và giáo dục, phục vụ tốt các mục tiêu chính trị,
kinh tế - xã hội cũng như những yêu cầu đổi mới của đất nước trong giai đoạn
này.
3.2. Đặc điểm chương trình
Khoá trình Lịch sử Việt Nam lớp 11 được phân thành 2 chương (chương 1
và chương 2) gồm 7 bài, 16 tiết - đối với Ban nâng cao; và 3 chương 6 bài, 10 tiết
- đối với Ban cơ bản. Trong sách giáo khoa Ban nâng cao các chương này nằm ở
phần C, còn Ban cơ bản nằm trong phần ba.
Nội dung cơ bản cần đạt được của chương trình là cung cấp những kiến
thức có liên quan đến tiến trình lịch sử dân tộc trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ
XIX và 2 thập niên đầu thế kỷ XX, lý giải một số sự kiện, hiện tượng Lịch sử
Việt Nam, đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế.
Chương 1 phân thành 3 bài phản ánh nội dung cơ bản về cuộc kháng chiến
chống xâm lược của nhân dân ta ở thế kỷ XIX. Chương 2 trình bày về những biến
đổi trong đời sống kinh tế xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và những nét mới của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta từ đầu thế kỷ XX đến hết Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914 - 1918).
Việc phân bổ chương trình theo 2 ban và cách viết tập trung vào các nội
dung cốt lõi, then chốt, có ý nghĩa nhất đối với môn học, lược bớt phần chữ, tăng
thêm kênh hình, cải tiến cách viết, cách đặt vấn đề, cách đặt câu hỏi và ra bài tập -
đó cũng chính là những điểm mới của SGK lịch sử 11 nói chung và phần viết về
Lịch sử Việt Nam nói riêng.
3.3 Những nội dung mới và khó của phần Lịch sử Việt Nam trong sách
giáo khoa Lịch sử 11
Chương 1 của sách giáo khoa giới thiệu hai mảng vấn đề chính đó là cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược của
nhân dân Việt Nam (trong sách dành cho Ban cơ bản hai mảng vấn đề này được
trình bày trong hai bài khác nhau). Trong đó, cuộc xâm lược của tư bản phương
Tây được hiểu như một hiện tượng chung trong thế kỷ XIX, xuất phát từ bản chất

tham lam, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân.
Về cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp, sách giáo khoa cung cấp những tri
thức giúp người học hiểu được sự kiện quan trọng, mà dưới sự tác động của sự
kiện đó, đời sống kinh tế xã hội nước ta bị thay đổi, sự phát triển tự nhiên của lịch
sử nước nhà bị ảnh hưởng. Người học cần nhận thức đây là một tai hoạ mà nhân
dân ta cũng như nhân dân nhiều nước phương Đông khác lúc đó phải gánh chịu.
18
Ngoài phần viết về âm mưu, thủ đoạn, các bước tiến hành chiến tranh của Pháp,
chương sách còn cung cấp một số ý kiến thức về lịch sử chính trị, kinh tế, văn hoá
cũng như những khái niệm và thuật ngữ mới như: chiến tranh xâm lược, kháng
chiến chống xâm lược, chính nghĩa, phi nghĩa, bản chất, hiện tượng, nguyên nhân,
nguyên cớ, trực tiếp, gián tiếp và các thuật ngữ khác. Các khái niệm, thuật ngữ
này không xuất hiện tức thời, mà nảy sinh dần trong quá trình dạy, học lịch sử, cần
được nghiên cứu để nắm vững.
Cho dù về thời lượng và cách bố cục có đôi chút khác nhau, song về phần
nội dung kiến thức thì cả 2 ban Khoa học xã hội - nhân văn và ban Khoa học tự
nhiên đều phải đảm bảo cung cấp những sự kiện chính xác thông qua phương pháp
chuyển tải đa dạng để học sinh có thể hiểu sâu, hiểu đúng vấn đề.
Trong quá trình dạy học, người thầy giáo cần nắm một số tư tưởng chủ đạo
để từ đó định hướng cho toàn bộ khoá trình, cũng như cho từng tiết học. Ví dụ ở
các bài viết về Việt Nam trong thế kỉ XIX (trước và trong cuộc kháng chiến chống
Pháp). Bài học căn cứ vào các đặc trưng bộ môn, giới thiệu những đặc điểm cơ bản
kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam trong đêm trước cuộc chiến tranh xâm lược của
thực dân Pháp, trong đó có 2 ý cần nhấn mạnh: Trước tháng 9/1858 - Việt Nam là
một quốc gia có chủ quyền (về dân tộc, lãnh thổ) đã đạt được những tiến bộ nhất
định về kinh tế, văn hoá (mở rộng thêm các kiến thức này trên cơ sở tái hiện những
tri thức đã học ở các lớp trước).
Tuy vậy chế độ phong kiến Việt Nam thời kỳ này đã bộc lộ những dấu hiệu
của sự khủng hoảng, suy yếu.
Đây là một trong những lý do khiến cho Việt Nam bị thất bại trong cuộc

kháng chiến chống xâm lược.
Ngoài việc đưa ra những chứng cớ của sự khủng hoảng suy yếu, bài học
cũng trình bày ở mục 2: Tình thế Việt Nam trong bối cảnh các nước xung quanh
bị thôn tính.
- Câu hỏi đặt ra là: Phải làm thế nào để tránh được hoạ mất nước.
+ Trong khi suy nghĩ để trả lời câu hỏi Làm thế nào để giữ nước thì mục 3
tiết học đưa ngay ra những tình huống mà Nhà nước phong kiến và nhân dân ta
phải lựa chọn: Đối phó với cuộc xâm lược vũ trang của Pháp.
Mục này giáo viên cần chú ý lý giải những nguyên nhân khiến thực dân
Pháp nổ súng đánh chiếm Việt Nam năm 1858.
Trong khi dạy, cần giải thích các khái niệm như:
- Nguyên nhân sâu xa.
- Nguyên nhân trực tiếp.
19
- Nguyên nhân bên trong, bên ngoài.
- Nguyên nhân, nguyên cớ
+ Trong các bài từ bài 34 trở đi, có nhiều chi tiết cụ thể viết về cuộc kháng
chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam. Song cần đi đến những khái quát
về 2 nội dung:
* Triều đình Nguyễn với cuộc kháng chiến chống xâm lược thế kỷ XIX.
* Trận tuyến nhân dân và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1858 -
cuối thế kỷ XIX.
Đây là những vấn đề tương đối khó, giáo viên cần tìm hiểu, đọc thêm tài
liệu tham khảo để nắm vững.
Xin nêu khái quát một số điểm:
Thứ nhất: Trước cuộc xâm lược Pháp, triều đình Huế đã có những chủ
trương gì để đối phó với chúng (quân sự, kinh tế, ngoại giao?)
- Có những liên hệ với lực lượng kháng chiến của nhân dân không?
- Có tìm kiếm bạn đồng minh bên ngoài không? ai? như thế nào?
- Thực lực kinh tế, quân sự (hệ quả của chế độ và các chính sách).

Cách đối phó như vậy đưa đến kết quả như thế nào?
- Đường lối
- Cách thức tiến hành kháng chiến, nghệ thuật kháng chiến?
- Bạn đồng minh kháng chiến bên trong, bên ngoài.
* Về phía kẻ thù: Lực lượng quân Pháp có những ưu thế nổi trội; thế lực
TBCN đang lan tràn.
Tổng hợp nguyên nhân, trách nhiệm trong việc để mất nước.
+ Nhà Nguyễn kháng chiến đến lúc nào?
- Năm 1884 hay đến cuối thế kỷ XIX?
Vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng về cơ bản đến 1884, khi hiệp
ước Patơnốt được ký kết, nhà nước phong kiến Việt Nam, và giai cấp phong kiến
Việt Nam nói chung đã cộng tác với Pháp, một số sĩ phu, văn thân, quan lại
phong kiến chỉ là những trường hợp cá biệt mà thôi.
* Về trận tuyến nhân dân kháng chiến - có mấy thời điểm.
+ Phối hợp với triều đình, tạm gác mâu thuẫn giai cấp (1858 - 1860).
+ Ngọn cờ kháng chiến dần dần chuyển qua tay nhân dân: 1862, 1874,
1884, 1896.
+ Về tính chất, đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX:
• Mục tiêu
• Lãnh đạo
20
• Lực lượng tham gia
• Phương hướng
• Cách thức tiến hành
- Diễn biến chính: + Thời gian
+ Phương thức tiến hành
+ Những đặc điểm chủ yếu
- Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thất bại
3.3.1. Về cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân ta cuối thế kỷ XIX
+ Phần này đã được học trong chương trình lớp 8 THCS.

Ở chương trình Lịch sử THPT, phần này được viết sâu hơn, chi tiết hơn,
phản ánh những nội dung phức tạp của trận tuyến chống xâm lược trong giai đoạn
này, nhất là về các mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
Phần giới thiệu về tình hình Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1802 - 1858)
chỉ nhắc qua với vai trò tiếp nối các tri thức của lớp 10, nhưng rất cần thiết giúp
học sinh hiểu được tính liên tục và lôgic lịch sử. Kiến thức cần nắm ở đây là Thực
trạng kinh tế, xã hội, khả năng quốc phòng của nước Việt Nam phong kiến giữa
thế kỷ XIX trước cuộc xâm lược của Pháp. Trong bối cảnh đó, nhân dân ta bước
vào cuộc kháng chiến trong một trạng thái không cân sức, phải chống lại một kẻ
thù có trình độ khoa học tiên tiến hơn.
+ Để chiến thắng giặc ngoại xâm, hoá giải được những âm mưu và thủ
đoạn của thực dân Pháp cần phải có quyết tâm và những điều kiện vật chất đảm
bảo, nhất là phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn.
Vấn đề này sách giáo khoa không trình bày một cách cụ thể, chỉ cung cấp dữ
kiện, phải thông qua hệ thống câu hỏi gợi ý của thầy để học sinh hiểu bài.
+ Để thấy rõ vấn đề, giáo viên có thể cho học sinh tham khảo phần Lịch sử
thế giới, các mục nói về đối sách của các quốc gia trước nạn xâm lăng của tư bản
phương Tây.
Đặt vấn đề với trường hợp Việt Nam.
(Các giải pháp đó có thể là:
- Không kháng cự, chấp nhận sự bảo hộ ngay từ đầu.
- Áp dụng cách thức của người Nhật, người Xiêm.
- Kháng chiến bằng quân sự.
- Kết hợp kháng chiến với kiến quốc? vừa đánh, vừa đàm, chống giặc trên
nhiều mặt trận )
Người dạy cần suy nghĩ, hướng dẫn để học sinh đưa ra đáp án phù hợp.
21
Về kết quả cuộc kháng chiến: Cần lưu ý rằng, do có nhiều lý do chi phối,
nên cuộc kháng chiến của nhân dân ta cuối cùng đã thất bạị. Thực dân Pháp đã áp
đặt được nền thống trị của chúng lên đất nước ta từ 1884.

Chú ý cần rút ra những bài học cần thiết về việc mất nước cuối thế kỷ XIX.
3.3.2. Về hai giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta ở thế kỷ XIX trải qua hai
giai đoạn rõ rệt: trước 1884 và từ 1885 về sau; trong đó có thể quan niệm giai
đoạn trước 1884 là cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc (dưới chế độ
quân chủ) còn từ 1885 trở đi là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong giai đoạn 1, quân dân ta đã anh dũng đứng lên chống ngoại xâm.
Đặc điểm cuộc kháng chiến giai đoạn này: Nhạy bén, thống nhất, kịp thời,
dũng cảm, sáng tạo, bất khuất, với tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự do cao độ.
Cuộc kháng chiến từ 1885 - 1896 có hai loại hình: Cần vương và tự phát.
Đối với phong trào Cần vương thì lãnh đạo lúc này không còn là giai cấp
phong kiến cầm quyền nữa, mà chỉ là bộ phận chủ chiến trong triều đình Huế
cùng các văn thân, sĩ phu ở các địa phương. Mục đích chiến đấu của họ là chống
Pháp, đòi lại chủ quyền dân tộc dưới chế độ dân chủ, nhưng tiếng gọi của họ phần
nào phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân nên nhận được sự hưởng
ứng nhiệt liệt. Cũng chính vì vậy mà tính chất nổi bật của phong trào Cần vương
là yêu nước, chống Pháp, dưới ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến.
Phong trào Cần vương tiếp nối truyền thống yêu nước bất khuất, không
chịu khuất phục của nhân dân ta. Tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu về tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ địa và hoạt động tác
chiến.
Từ trong phong trào cũng bộc lộ những hạn chế của các sĩ phu, văn thân và
tính bất cập của hệ tư tưởng phong kiến trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
cuối thế kỷ XIX.
+ Biểu hiện rõ nhất trong những hạn chế của ngọn cờ phong kiến có thể
minh chứng bằng phong trào đấu tranh tự phát của nông dân và của đồng bào các
dân tộc miền núi, nổ ra đồng thời với phong trào Cần vương nhưng lại không chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Cần vương; có cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn và kéo dài
mãi về sau khi phong trào Cần vương đã thất bại.
Hiện tượng trên chứng tỏ sự bất cập của con đường phong kiến và sự bất

lực của giai cấp phong kiến, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự khủng hoảng sâu
sắc về lãnh đạo, về đường lối trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam
giai đoạn này.
22
Từ việc phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan, trực tiếp, gián tiếp
đưa đến sự thât bại của phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp cuối thế kỷ
XIX, dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh sẽ rút ra những kết luận cần thiết.
Kết thúc chương 1, cần nhắc lại một số sự kiện tiêu biểu trong tiến trình
lịch sử nước ta từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nhấn mạnh hậu quả cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp và trạng thái chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trước khi chuyển sang giai đoạn mới.
3.3.3. Về phần Lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến hết Chiến tranh
thế giới thứ nhất, được trình bày trong chương 2 (bài 36, 37, 38) còn trong SGK
Ban cơ bản được phân thành 2 chương 2 và 3 (các bài 20, 21, 22).
Phần kiến thức chủ yếu của giai đoạn lịch sử này đề cập đến sự chuyển biến
của xã hội Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, sự
ra đời và phát triển của trào lưu giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư
sản (cả nước và trong Chiến tranh thế giới thứ nhất); sự khởi đầu của một khuynh
hướng cứu nước mới gắn liền với các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1911
đến 1918 (ban KHXH - NV).
Trong sách giáo khoa hiện hành, phần này được viết khá dài trong 3
chương: III, IV và V, trong đó chương III nói về xã hội Việt Nam trong cuộc
KTTĐ lần thứ nhất của thực dân Pháp; hai khuynh hướng: Bạo động và cải cách
trong phong trào yêu nước trong chiến tranh (chương V). Như vậy các nội dung
lịch sử của sách giáo khoa Ban cơ bản tương đương như sách giáo khoa cũ nhưng
được viết cô đọng, giảm tải, tập trung vào 2 vấn đề chính: Nét mới trong kinh tế
xã hội Việt Nam và những biến chuyển mới trong phong trào giải phóng dân tộc
Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những kiến thức
khác có thể được đề cập nhưng phải phục vụ tốt cho các nội dung cơ bản này.
Riêng đối với Ban nâng cao, bài 36 đề cập đến những hoạt động bước đầu của

Nguyễn Ái Quốc, điều này là cần thiết, phù hợp với tiến trình lịch sử và có tác
dụng gợi mở một số vấn đề mới trước khi học sinh chuyển sang học chương trình
lịch sử lớp 12 (từ 1919 trở đi).
III. Những vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học lịch sử lớp 11 ở trường
phổ thông nói riêng là một vấn đề lớn thu hút sự quan tâm không chỉ những người
làm công tác dạy học mà ngay cả các ngành, các cấp ở trung ương và địa
23
phương. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để biến tư tưởng đổi mới đó vào thực tiễn
dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ môn ở trường phổ thông?
1. Phát huy tích cực học tập của học sinh theo phương hướng đổi mới
phương pháp dạy học hiện nay.
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phát huy tích cực của học
sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng. Vì vậy cần thống nhất
quan niệm để xác định các phương pháp dạy học cho phù hợp.
Những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện ngày càng nhiều tiết dạy tốt,
học tốt theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động tích cực, tự chiếm lĩnh tri thức
mới. Tuy nhiên, tình trạng phổ biến vẫn là thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ
vấn đáp, giải thích, minh hoạ bằng phương tiện trực quan. Việc chống lối dạy học
thụ động, thày đọc, trò chép đã đặt ra từ lâu. Ngay từ năm1963, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khuyên người học" phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là
một nhiệm vụ phải hoàn thành cho được. Do đó mà tích cực chủ động hoàn
thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó. cố gắng không lùi bước trước
bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập. Tại hội nghị tổng kết phong trào thi đua"
Dạy tốt, học tốt" của ngành Giáo dục( năm 1963 ) , Bác Hồ lại căn dặn : " Về giảng
dạy tránh lối học vẹt" " Các cháu, không nên học gạo, không nên học vẹt Học
phải suy nghĩ, phải có liên hệ thực tiễn, phải có thí nghiệm và thực hành. Học,
hành phải kết hợp với nhau"
Tích cực suy nghĩ một cách độc lập, tức là thấm nhuần quan điểm dựa vào
sức mình là chính trong học tập, là một biểu hiện cao của ý thực tự nguyện, tự

giác học tập cũng là một phương pháp có hiệu lực để chống lối học vẹt, vì vậy
Bác Hồ đã nói" phải nêu cao phong cách độc lập suy nghĩ và tụ do tư tưởng. Đọc
tài liệu thì phải đào sâu, hiểu kỹ từng câu, từng chữ trong sách, có vấn đề nào
chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với vấn đề gì đều
phải đặt câu hỏi," vì sao" đều phải suy nghĩ kỹ xem có phù hợp với thực tế không,
có đúng lý không. Tuyết đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách
xuôi chiều, phải suy nghĩ chín chắn”. Cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng cũng khẳng
định:" Phương pháp dạy học mà các đồng chí nêu ra, nói gọn là lấy người học
làm trung tâm , nói cho cùng, phương pháp dạy học này tích cực, sự tích cực
này là biểu hiện chiều sâu. Nó tạo ra cho người học, tức là trung tâm phát huy
được trí tuệ, tư duy, óc thông minh của mình Điều thứ hai của phương pháp
này là giáo dục người ta phương pháp tự học, lòng ham học đó là đáng quý nhất.
Ở trường học, bất kỳ là trường gì, cũng chỉ cung cấp cho con người khối lượng tri
thức giới hạn. Trong khi đó, khả năng hiểu biết, sự mong muốn của con người
24
trong cả cuộc đời là vô cùng, cần đào tạo con người mới vươn lên mãi mãi trong
quá trình cuộc sống”.
Nghị quyết trung ương II, khoá VIII đã khẳng định, " phải đổi mới phương
pháp giáo dục - và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người đọc. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự
học, tự đào tạo, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học phát triển
mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên, và rộng trong khắp toàn dân,
nhất là thanh niên”.
Định hướng trên đã được pháp chế hoá trong “Luật giáo dục" “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Vậy tính tích cực của học sinh trong học tập là gì? nó được biểu hiện như

thế nào?
Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức, song đó là quá trình nhận
thức một đặc thù" một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và thực hiện
dưới sự chỉ đạo của giáo viên". Vì vậy, nói đến tích cực học tập, thực chất là nói
đến tích cực của sự nhận thức. Nó là một hiện tượng sư phạm biểu hiện sự cố
gắng cao về nhiều mặt trong hoạt động học tập.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
nhận thức của học sinh biểu hiện trong khát vọng học tập. Cố gắng trí tuệ và nghị
lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức, khác với quá trình nhận thức trong
nghiên cứu khoa học, quá trình nhận thức trong học tập không nhằm phát hiện
những điều loài người chưa biết về bản chất, quy luật của các hiện tượng khách
quan mà nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích luỹ được trong quá trình
học tập. Học sinh cũng phải khám phá ra những điều mới đối với bản thân
mình ,dù đó chỉ là khám phá lại những điều loài người đã biết .Con người chỉ
thực sự nắm vững cái mà chính mình đã giành được bằng hoạt động của bản
thân . Học sinh sẽ ghi nhớ nắm vững được những gì đã trải qua trong hoạt động
nhận thức tích cực của mình , trong đó các em đã phải có những cố gắng trí tuệ và
khát vọng học tập .
Trong quá trình dạy học , chúng ta có thể nhận biết thái độ , tình cảm của
học sinh trước một hiện tượng , một tri thức mới . Những biểu hiện đó thường
khác nhau, hoặc thờ ơ , vô cảm, hoặc sôi nổi, nhiệt tình, tập trung chú ý hay tỏ vẻ
25

×