Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đất nước Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.77 KB, 33 trang )

TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
I. MỞ BÀI – KẾT BÀI
1. Mở bài mẫu 1
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp
đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hồng Cầm; gặp gỡ đất nước
đang đổi mới ngày qua ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước
được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải
qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ
tinh tế, phóng khống của Nguyễn Khoa Điềm. Tác giả nhìn đất nước từ nhiều
khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng
liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiều ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
2. Mở bài mẫu 2
Đất nước đã nghiêng vào trong thơ ca, nghệ thuật như một điểm hẹn về
tâm hồn của rất nhiều văn nghệ sĩ. Xuân Diệu đã từng viết:
“Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ra đó mũi Cà Mau”
Hay Chế Lan Viên đã khơng kìm lịng mình mà thốt lên rằng:
“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Chưa đâu và cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoa thành văn”
Thì Nguyễn Khoa Điềm – Một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống
Mĩ đã gặp gỡ đề tài này bằng tập thơ “Trường ca Mặt đường khát vọng” trong
đó chương V là chương trung tâm kết nối tác phẩm bằng hình tượng nghệ thuật
trung tâm là Đất Nước. Bằng là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn
Khoa Điềm lơi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể
hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân


dân, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cho mình điểm nhìn gần gũi, quen thuộc, bình
dị, khác hẳn với những nhà thơ cùng thời để miêu tả về Đất Nước và để thể hiện
quan niệm vô cùng mới mẻ và sâu sắc.
3. Mở bài mẫu 3:
1


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Có người từng nói rằng: “Một cuộc thảm hiểm thật sự không phải ở chỗ
cần một vùng đất mới mẽ mà cần một đôi mắt mới”. Văn học cũng vậy, cùng
một chủ đề nhưng dưới ngịi bút của mình, mỗi nhà văn lại khiến trang viết của
mình chạm đến cảm xúc của người đọc theo một cách riêng. Đất nước có thể
nói là một chủ đề “truyền thống" của nền văn hoá nước nhà. Đến với tác phẩm
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điểm người đọc có thể cảm nhận được một đất
nước bình dị, gần gũi với cuộc sống của mỗi người. [Trích dẫn đề].
4. Mở bài mẫu 4
Đất Nước là tiếng ca bay vút lên từ thẳm sâu tình yêu con người, là giọt
đàn bầu thon thả gọi về điệu hồn dân tộc. Ta đã từng bắt gặp một Đất Nước hoá
thân trong mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm màu sắc dân gian mà quằn quại dưới
gót giày xâm lược trong Bên kia sơng Đuống – Hồng Cầm; một Đất Nước tươi
đẹp và đau thương trong thơ Nguyễn Đình Thi... thì hơm nay ta lại bắt gặp Đất
Nước bình dị thân thương ấy trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm với bao ý tỉnh
tươi đẹp, mà mỗi dòng thơ như dòng suối ngọt ngào chảy vào hồn ta đầy thương
mến. (Trích dẫn đề).
5. Mở bài mẫu 5:
Bàn về cá tính sáng tạo của nhà văn, đại văn hào người Nga Lê-ơ-nít Lêơ-nốp từng khẳng định: “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và
khám phá về nội dung”, cũng bàn về điều này, nhà thơ Lê Đạt lại đặt bút viết:
“Mỗi cơng dân có một dạng vân tay
Mỗi người nghệ sĩ thứ thiệt có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn.”
Cùng viết về đề tài Đất Nước, đã có bao hồn thơ được chắp cánh khơi nguồn.
Chúng ta đã từng bắt gặp một Đất Nước hoá thân trong mảnh hồn quê Kinh Bắc
đậm đà sắc màu văn hoá dân gian của Hoàng Cầm, Đất Nước tươi đẹp mà đau
thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lịa” của Nguyễn Đình
Thi. Song, từ chiến trường Trị-Thiên khói lửa, “Trường ca mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm xứng đáng trở thành “một vân chữ không trộn
lẫn”, là tiếng ca sôi nổi của trái tim tuổi trẻ để khắc tạo một Đất Nước là những
gì bình dị, gần gũi, thân thuộc nhất.
6. Kết bài mẫu:
Dòng thời gian nghiệt ngã có thể cuốn trơi vạn vật trên đời, phá huỷ mọi
thành quách lâu đài. Song, đại văn hào người Nga Ai-ma tốp từng khẳng định:
“Tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”, “Đất Nước”
2


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

của Nguyễn Khoa Điềm cũng là một tác phẩm như thế, sẽ không bao giờ kết
thúc ở trang cuối cùng khi mả nó là mạch suối nguồn trong trẻo ni dưỡng tâm
hồn bạn đọc về tình yêu quê hương Đất Nước con người.

II. GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ, cùng thời với Phạm Tiến Duật, Bằng Việt và Xuân Quỳnh. Ông từng
hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên đấu tranh ở đô thị miền Nam. Với
phong cách viết riêng biệt tạo nên bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
tư sâu lắng, thơ ơng ln có sự thu hút đối với độc giảCó thể nói, chưa bao giờ
trường ca lại nở rộ đến thế như trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, và Nguyễn
Khoa Điềm cũng có riêng cho mình một trường ca mang tên “Mặt đường khát

vọng”. “Đất Nước” được trích từ chương V của trường ca này. Tác phẩm được
ra đời năm 1971, vào lúc thời kì kháng chiến của đất nước đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Lúc này tác giả đang ở khu Trị - Thiên. Với tình u nước nồng nàn và
trách nhiệm cơng dân, ông đã nhận ra được một bộ phận tuổi trẻ dạng xa vời với
hiện thực của tổ quốc, ông viết tác phẩm như để thức tỉnh họ quay về với lời tự
tình dân tộc.

III. PHÂN TÍCH
ĐOẠN TRÍCH:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi...
Đất Nước có từ ngày đó…”

Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa
để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có
tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả
một đất nước tự nhiên, bình dị mà khơng kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình
ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ
thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập
quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia
đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục
tập qn quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của
cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều
3


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống
hàng ngày của con người.

Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn
lên Đất Nước đã có rồi”. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất
nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp
qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn
lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói
“Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của
đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh
ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước
có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện
diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu
văn hóa, phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt
đầu” là những từ ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”
mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ
thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ…
Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có từ trước khi những câu
truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của
ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền
văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền
thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta cịn nằm nơi là
nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ để lớn lên ta biết yêu
thương đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con
người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”

(Truyện cổ nước mình)

4


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Khơng chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn
xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những
người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với
miếng trầu bây giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một
miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hồn tồn
hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví
khơng có những dịng suối nhỏ sao trở thành dịng sơng, ví như khơng có những
dịng sơng sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc đến “miếng trầu” chắc
hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự
tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu
cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu
dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu.
Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng
tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời.
Hồng Cầm trong bài thơ “Bên kia sơng Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc
trưng ấy:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”
Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống
quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên
khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ
“Đất Nước lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước.

Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết
xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên
Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng
khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
5


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi
đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến
đấu bảo vệ giống nịi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc
vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn
Ơn, Nguyễn Văn Trỗi...
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên
mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con
người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, u chuộng hồ bình
nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang
bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”,
bởi:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác
thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người
mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người
phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối lòng anh”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú,
lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tơn tạo mảnh đất thân u. Ở
đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những
câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:

6


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

“Muối ba năm muối đang cịn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy cịn cay
Đơi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu

thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy
chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu
năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau
lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi
dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng.
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi
nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà
sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được
mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngơi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đồn tụ bên nhau;
siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo,
cái Cột cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta cịn có truyền thống lao động
cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần
sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hơi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta
những ngày long đong, lận đận trong đời sống nơng nghiệp lạc hậu. Đó là
truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn
hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay
giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn
của giai cấp nông dân bao đời nay.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất
Nước có từ ngày đó. “Ngày đó” là ngày nào ta khơng rõ nhưng chắc chắn ngày
đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa
nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ
quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa
của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa

7


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào
biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu
văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc,
truyền thống nơng nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ,
thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà khơng gian văn hóa người
Việt. Ngơn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình
nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.

ĐOẠN TRÍCH:
“Đất là nơi anh đến trường...
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã có cách định nghĩa “Đất
Nước” thật mới lạ,khơng miêu tả Đất Nước một cách chung chung, cũng không
dùng những từ ngữ khoa học để lý giải định nghĩa này. Mà ông nhiều lần phân
tách, rồi lại tổng hợp, dùng lối viết chiết tự để cụ thể hóa khái niệm Đất Nước,
để khám phá Đất Nước trong nhiều phương diện, từ chiều dài lịch sử, chiều
rộng địa lý và đến đây Đất Nước là không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân
thuộc qua những câu thơ:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Hai câu thơ với cấu trúc “Đất là…” và “Nước là..” cùng những hình ảnh bình dị

“nơi anh đến trường” và “nơi em tắm” đã cho ta thấy Đất gắn liền với những kỉ
niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường hàng ngày đến trường với bao
trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè là tượng trưng cho vẻ đẹp rắn rỏi, khỏe
khoắn của người con trai. Còn nước "là nơi em tắm". Nó cũng gắn với kỉ niệm
tuổi thơ em, một kỉ niệm êm dịu và nhẹ nhàng như những dịng sơng em thường
tắm mát là tượng trưng cho vẻ đẹp mềm mại, nữ tính của người con gái. Những
kỉ niệm ấy, tất cả hợp lại thành Đất Nước, thành "nơi ta hị hẹn". Khi cả anh và
em cũng trưởng thành, tình yêu gắn kết giữa anh và em thành một mối khăng
khít, khơng tách rời. Và đến đây, Đất Nước khơng còn tách riêng mà hòa hợp
8


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

với nhau. Và điểm hẹn hò giữa anh và em cũng chính là ở bắt đầu của tình u
Đất Nước. Tình yêu cá nhân, tình yêu thiêng liêng giữa anh và em đã to lớn và
nó hồ vào tình u Đất Nước. Hay Đất Nước bắt nguồn từ tình yêu nam nữ.
Tiếp tục mạch thơ ấy, câu thơ: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm” gợi ta nhớ tới bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai/Khăn
rơi xuống đất/Khăn thương nhớ ai/Khăn vắt lên vai/Khăn thương nhớ ai/Khăn
chùi nước mắt” gợi nỗi nhớ thầm kín, da diết của em, đó là nỗi nhớ gắn kết tình
yêu giữa “anh” và “em”, để tình yêu ấy lớn dần lên và hòa vào Đất Nước, gắn
kết Đất Nước thành một mối khăng khít bền chặt. Lúc này, trong chúng ta hiện
diện nỗi nhớ của tình yêu, cũng là nỗi nhớ Đất Nước.
Nguyễn Khoa Điềm đã đưa khái niệm Đất Nước từ sự kết hợp của tình
cảm cá nhân nam nữ riêng tư, từ sự tách riêng để đi đến cái khái quát, nâng lên
rộng hơn:
“Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi””
Quả thật không phải ngẫu nhiên mà giáo sư Trần Đăng Xuyền cho rằng cả

chương 5 của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi khơng
khí của văn hóa dân gian, bởi chỉ trong hai câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy
ý từ những câu hị Bình Trị Thiên để miêu tả Đất Nước. Hình ảnh “con chim
phượng hồng bay về hịn núi bạc” và “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
được lấy từ nguyên văn câu hị:"Con chim phượng hồng bay ngang hịn núi
bạc; Con cá ngư ơng móng nước ngồi khơi; Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời;
Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh", gắn Đất
Nước với những lời ca dao tục ngữ gắn liền với đời sống văn hóa của nhân dân.
Tiếp đó, tác giả đã mở ra một không gian, thời gian kéo dài từ q khứ nghìn
xưa:
“Thời gian đằng đẵng
Khơng gian mênh mông”
Hai câu thơ ngắn gọn, cô đọng kết hợp với hai từ láy “Đằng đẵng”, mênh mông,
tác giả đã bao quát được chiều dài của thời gian và chiều rộng của không gian,
Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời gian dài hình thành nên sự trù phú của thiên
nhiên, làm giàu cho Đất Nước. Để từ những tình cảm riêng tư đó, tác giả đã
định nghĩa “Đất Nước là nơi dân mình đồn tụ” tức là từ những cái riêng của
“anh” và “em”, tình cảm ấy đã đi đến cái chung, cái lớn hơn bao trùm lên tất cả
đó chính là “dân mình” là đồng bào người Việt mang trong mình dịng máu Lạc
Hồng đã, đang và sẽ mãi chảy trong huyết quản.Thật vậy, trong thời kỳ kháng
chiến giành độc lập cho dân tộc, đã có biết bao những đôi trai gái phải tạm gác
9


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

lại những tình cảm cá nhân để cống hiến cho quê hương Tổ quốc, trong
“Trường Sơn đông Trường sơn Tây”, Phạm Tiến Duật có viết:
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm”

Hay trong bài thơ “Núi đơi” Vũ Cao có viết:
“Bỗng cuối mùa chiêm qn giặc tới
Ngơ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thơi, đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.”
Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm cịn ngầm chỉ rõ yếu tố tạo nên sự gắn kết
giữa các cá nhân, từ những con người đơn lẻ gắn kết lại thành nhân dân. Sự gắn
kết ấy, sợi dây vơ hình ấy chính là tinh thần đồn kết của nhân dân ta. Nó tạo
nên sức mạnh kì diệu, liên kết mọi người lại, từ cái tơi đã hồ vào thành cái "ta"
chung, cái "ta" của dân tộc, của Đất Nước trên cả hai phương diện địa lý và lịch
sử.
Và rồi những câu thơ sau trở lại với kết cấu:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nếu Nguyễn Trãi phát hiện ra Đất Nước qua các triều đại phong kiến hùng
mạnh:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một
phương”
Hay Chế Lan Viên từng nhắc tới các anh hùng lưu danh sử sách:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều Đất Nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng.”
10


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH


Thì Nguyễn Khoa Điềm lại đưa ta trở về với cội nguồn rất xa xôi của dân tộc
qua huyền thoại chim về rồng ở. Đất Nước lúc này đã trở thành Đất Nước rồng
tiên. Tách riêng từng yếu tố để chứa đựng một huyền thoại xưa. Hình ảnh “chim
về” chính là nơi sinh sống của người mẹ u Cơ với 50 người con trên rừng. Còn
nước lại là nơi Lạc Long Quân sinh sống cùng 50 người con. Nó kết lại thành
câu chuyện truyền thuyết "Lạc Long Quân và u Cơ" đẻ ra đồng bào ta trong
bọc trứng. Hay nói cách khác là nguồn gốc của dân tộc ta là con Rồng cháu
Tiên. Tất cả các anh em dân tộc sinh sống trên mảnh đất Việt Nam đều là anh
em với nhau, đều do một mẹ sinh ra. Lần thứ ba Nguyễn Khoa Điềm sử dụng
biện pháp chiết tự, tách đôi khái niệm Đất Nước thành hai vật thể hữu hình để
nói về tổ tiên người Việt, khẳng định những truyền thống văn hóa tốt đẹp của
dân tộc. Và chính những truyền thống văn hóa ấy chính là mạch suối ngầm chảy
từ quá khứ nối liền với hiện tại và tương lai.
Trên cơ sở đó, nhà thơ đã thức dậy lòng yêu nước, niềm tự hào về dòng
máu Lạc Hồng, dòng máu con rồng cháu tiên để nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết kế
tục truyền thống của cha ông, của Đất Nước:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
Những câu thơ tự nhiên mà vơ cùng xao động lịng người đem đến những nhận
thức về mối liên hệ vô cùng chặt chẽ, giữa các thế hệ người Việt Nam qua hàng
nghìn năm lịch sử. Bao đời nay, người Việt luôn ý thức sâu sắc việc giữ gìn, kế
thừa và phát huy những truyền thống văn hóa mà cha ơng để lại. “Những người
đã khuất” là bao thế hệ cha ông đã một đi khơng trở về, ra đi vì hồi bão lý
tưởng cứu nước như trong “Khúc bảy” Thanh Thảo từng viết:
“Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình
Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc?”
Vì lẽ đó mà “những ai bây giờ”, có nghĩa là những người trong thế hệ nối tiếp,
phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện những lý tưởng đó, khơng chỉ trong giữ
nước mà cịn cả trong xây dựng và phát triển Đất Nước. Nhà thơ nhắc nhở trách
nhiệm công dân đối với Đất Nước, dân tộc của mỗi người Việt Nam. Ông cha ta
suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để lại cho con cháu non sông
11


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

gấm vóc hơm nay. Chúng ta khơng chỉ hưởng thụ mà cịn có nhiệm vụ bảo vệ
và xây dựng để Đất Nước ngày càng tươi đẹp.
Đến hai câu thơ cuối cùng, tác giả nhắc ta phải luôn nhớ tới đạo lí “uống nước
nhớ nguồn” của dân tộc:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng, chạm vào tình
cảm cội nguồn, khơi dậy trong lịng người truyền thuyết vua Hùng dựng nước.
“Tổ” là cội nguồn, giống nòi của dân tộc, là tổ tiên là nhân dân thuở trước. Xúc
động và đáng trân trọng biết bao thái độ thành kính của nhà thơ hướng về quá
khứ, cội nguồn của dân tộc.
Với lời thơ tự do ngọt ngào, đằm thắm lối viết chính luận nhưng mềm
mại như lời tâm tình trị chuyện giữa “anh” và “em”, với vốn kiến thức phong
phú và khả năng sáng tạo các yếu tố văn hóa văn học dân gian, kết hợp với các
biện pháp lặp “Đất là”, “Nước là”, Đất Nước là” Nguyễn Khoa Điềm đã làm
sáng tỏ câu hỏi “Đất Nước là gì?” bằng quan điểm và cái nhìn thật mới mẻ, sâu
sắc: Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại. Đây là tư tưởng
khẳng định Đất Nước thuộc về quyền sở hữu của nhân dân. Đất Nước là một
hình tượng lớn nhưng ở mỗi thời đại, mỗi con người lại có một quan niệm khác

nhau. Ở thời trung đại, Đất Nước được quan niệm là của vua, của Đế vương:
“Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
Thời cận đại, quan điểm của nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu về Đất Nước
rất nhân văn: “Dân là dân nước, nước là nước dân” tuy nhiêm cụ Phan Bội Châu
lúc bấy giờ vẫn mang nặng ý thức của thế hệ nhà thơ phong kiến phương Đông
và hệ tư tưởng tư sản. Ở thời hiện đại, nước Nga vĩ đại có một Lênin khẳng định
tư tưởng Đất Nước thuộc về nhân dân, đặc biệt là nhân dân mọi tầng lớp bất kể
giàu nghèo quyền lực hay màu da. Sau này kế thừa và sáng tạo hai bản Tuyên
ngôn của Pháp và Mỹ, Bác Hồ Đã viết nên bản Tuyên Ngôn Độc lập với lời lẽ
sắt đá: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc
nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
Đến thời đại Hồ Chí Minh, các nhà thơ mới ý thức sâu sắc, thấm thía tư
tưởng Đất Nước nghĩa là Đất Nước của quảng đại đa số đơng quần chúng, Đất
Nước của dân vì dân.
“Ôm Đất Nước những người áo vải
12


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Nguyễn Đình Thi)
hay một Huy Cận với Đất Nước là những hình ảnh giàu chất sử thi huyền thoại:
“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”
Song, trong đoạn trích trên, Nguyễn Khoa Điềm đã thơng qua những khám phá
về Đất Nước qua lịch sử, qua những vật hữu hình để biến Đất Nước vơ hình
thành hữu hình. Đặc biệt nhà thơ đã có cơng đưa “Đất Nước” từ trời cao thượng
đế, từ ngai vàng phong kiến xuống “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi ta

hò hẹn”. Từ đó khẳng định tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Đặt bài thơ vào hồn cảnh ra đời, có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm muốn
nhắc nhở người đọc, đặc biệt là thế hệ trẻ phải ghi nhớ từng tấc đất tấc vàng là
máu thịt của cha ơng là hố thân của nhân dân vì thế ta phải có ý thức bảo vệ
giữ gìn. Đọc đoạn trích đã cho và bài thơ “Đất Nước” ta lại càng thêm hiểu về
cảnh sắc thiên nhiên, địa lý lịch sử, truyền thống văn hoá của Đất Nước. Hiểu
thêm về Đất Nước, ta thêm yêu con người Việt Nam cần cù tài hoa dũng cảm,
thêm tự hào về Tổ Quốc nguy nga tráng lệ nhưng rất đỗi gần gũi quen thuộc.
Tâm hồn ta như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy bừng sáng và trở nên giàu
có khi ý thức được Đất Nước của nhân dân. Ngày nay, chúng ta tin rằng một
Đất Nước với những con người miệt mài lao động ngày đêm cống hiến cho Tổ
Quốc, một Đất Nước với người dân đoàn kết chống địch một Đất Nước với
người dân đoàn kết chống địch, một Đất Nước có người chiến sĩ cứu hoả sẵn
sàng hi sinh để cứu một mạng người, có anh chàng ngoại quốc vì u mến văn
hố mà hứa sẽ gắn bó cả cuộc đời thì sẽ ln có thể phát triển vững mạnh. Ta tự
nhắc nhở bản thân, hãy vững vàng để trở thành “cơng dân tồn cầu” sống xứng
đáng với dòng máu Lạc Hồng chảy trong huyết quản, với nhịp trống đồng Đông
Sơn đập trong lồng ngực, xứng đáng với hai chữ Việt Nam.

ĐOẠN TRÍCH:
“Trong anh và em hôm nay...
Làm nên Đất Nước muôn đời”

“Lật thuyền mới biết dân như nước” là cái nhìn về quan hệ giữa nhân dân
và đất nước của nhà chính trị kiệt xuất thế kỷ XV – Nguyễn Trãi. Càng về sau,
13


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH


quan niệm nhân dân làm ra đất nước và đất nước này là đất nước của nhân dân
càng thể hiện rõ. Đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, tinh
thần quật cường của toàn thể nhân dân trỗi dậy tạo thành một làn sóng dữ dội
thì niềm tin về nhân dân càng được củng cố. Một nhà thơ đồng thời cũng là
người làm cơng tác chính trị như Nguyễn Khoa Điềm hiểu rõ về vai trò của
nhân dân đối với đất nước. Trong Trường ca mặt đường khát vọng, ơng đã định
nghĩa Đất Nước theo góc nhìn của nhân dân. Đặc biệt là chương Đất Nước sau
khi lý giải nguồn cội, cắt nghĩa về Đất Nước, nhà thơ tiếp tục chỉ ra mối quan hệ
sâu sắc này đồng thời nhắn nhủ trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với Đất Nước
trong 13 câu từ câu 30 đến câu 42.
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ cùng thời với thế hệ nhà thơ trẻ trưởng
thành trong giai đoạn chống Mỹ ác liệt: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Lâm
Thị Mỹ Dạ...Thơ Nguyễn Khoa Điềm có cái nồng nàn, lãng mạn của người
người nghệ sĩ, có cái sắc sảo của trí tuệ được tơi luyện từ đời sống và có cả tính
chính luận của người làm chính trịThế nên đọc thơ ông, ta luôn được dẫn đường
bằng cảm xúc dồi dào và vỡ oà khi khám phá một ý tưởng nào đó sâu sắc.
Thơ của Nguyễn Khoa Điềm chuyển mình trong sự vận động từ cái gần
gũi, bình thường đến cái lớn lao, trừu tượng. Nhưng dù là nói về vấn đề lớn lao,
tầm vóc, nhà thơ vẫn lấy cái đời thường, bình dị làm nền tảng. Ở một trường ca
có dung lượng lớn, nói về vấn đề mang tính thời đại nhưng Mặt đường khát
vọng vẫn là khúc hát của nhân dân. Đặc biệt ở đoạn trích Đất Nước thuộc
chương 5 trong trường ca có khả năng lay động con người về cả tình cảm lẫn lý
trí khi nhà thơ nói đến mối quan hệ bản chất giữa nhân dân và Đất Nước cũng
như ý thức trách nhiệm mà mỗi người dân cần phát huy
Sử dụng lối hoá thân vào hai nhân vật “anh”, “em”, nhà thơ đã bộc lộ mối
quan hệ hữu cơ giữa người với người cũng như giữa con người với Đất Nước.
Đó là một mối quan hệ gắn kết, san sẻ không thể tách rời của cá thể và tổng thể.
“Trong anh và em hôm nay
[...]
Đến những tháng ngày mơ mộng”

Đoạn thơ có cấu trúc vận động từ hôm nay đến tương lai, tử mỗi cá nhân đến
tập thể, cộng đồng, từ thế hệ người đi trước đến thế hệ mai sau. Trong lời đồng
vọng ấy, nhà thơ tiếp tục đặt hình tượng Đất Nước thành một phép điệp xuất
hiện với tần suất cao, thêm vào đấy là hai chủ thể “anh”, “em” có lúc tần suất
cao, thêm vào đấy là hai chủ thể “anh”, “em” có lúc tách rời có lúc hồ vào
“chúng ta”, “hai đứa”, đã tạo nên điệp khúc dồn dập theo sự tăng tiến của cảm
14


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

xúc. Vì Đất Nước là ca dao, cổ tích là nơi hò hẹn, nơi anh đến trường, nơi em
tắm...nên Đất Nước đã hiện hữu trong cả anh và em.
“Trong anh và em hơm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Hãy nhớ rằng Đất Nước không tồn tại trong “anh” hoặc trong “em” riêng lẻ mà
chỉ có trong cả “hai ta”, “chúng ta”. Và điều đáng nói hơn nữa là chúng ta
khơng phải có hồn tồn Đất Nước với ngun vẹn hình hài mà là “một phần”.
Có phải nhà thơ muốn nói rằng Đất Nước đậu của riêng ai và cũng chẳng ai có
thể tự mình làm ra Đất Nước. Đất Nước là kết quả của sự hy sinh biết bao thế
hệ, là tình u, đồn kết, niềm hy vọng của triệu con người.
Đoạn thơ nổi bật với điệp từ “khi” chỉ thời điểm khơng xác định ở thời
gian tuyến tính nhưng rất rõ ràng ở thời gian cảm tính. “Khi” chính là lúc “anh”
và “em” cầm tay nhau và “khi” cũng là lúc hai đứa cầm tay mọi người. Vậy
“khi” còn có ý nghĩa như con đường kết nối quy luật tất yếu của sự vận động
này. Từ cá nhân “anh”và “em” kết hợp lại trong cái nắm tay đầy tình thương.
Từ tình thương cá nhân, “hai đứa” phát triển thành tình thương u, gắn kết với
mọi người. Vịng tay lớn mở rộng ra là lúc Đất Nước “vẹn tròn, to lớn”.
“Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà”

(Nối vòng tay lớn – Trịnh Cơng Sơn)
Cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là từ hình ảnh “cầm tay” cụ thể nhà
thơ đã khái quát về một giai đoạn lịch sử hào hùng khi mà nhân dân cả nước
cùng đồng lòng chung sức hướng hướng về miền Nam máu thịt, cùng kề vai sát
cánh để giành lấy hịa bình. Hình tượng thơ mang chiều sâu tư tưởng, cái nắm
tay đâu chỉ của chúng ta ở thời điểm hiện tại mà còn là sự kết nối giữa các thời
đại trên cùng mảnh đất quê hương. Để từ đó chiến thắng hơm nay cịn mang âm
vang kiêu hùng của ông cha hô to dưới lá cờ Sát Thát.
“Anh” và “em”, “mọi người” đều là nhân dân. Nhân dân là người làm ra
Đất Nước. Nhìn sâu trong Đất Nước sẽ thấy dáng hình của nhân dân và nhìn sâu
vào đời sống tâm thức của nhân dân mình sẽ nhận ra hình hài non sơng, gấm
vóc. Từ sự khẳng định ấy, nhà thơ gửi vào “chúng ta” những con người của thế
hệ này một ước mơ, một tương lai hạnh phúc.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
15


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Đến những tháng ngày mơ mộng"
Nhà thơ dùng cách nói quen thuộc của dân gian “mai này” cũng là cách nói
tượng trưng cho tương mai mai sau. Câu thơ với giọng điệu tha thiết của một
niềm tin vững chắc vào thế hệ sau. “Con ta” có thể hiểu là những đứa con được
ra đời trong tình yêu giữa anh và em trong sự kỳ vọng lớn lao của người đi
trước. “Con ta” cũng là cách nói ẩn dụ cho niềm tin, khát vọng, cho những mơ
ước ngày một lớn hơn và cũng là đứa con tinh thần sinh ra từ tình yêu Đất
Nước. Nếu hiểu như vậy thì đoạn thơ muốn khẳng định một chân lý khi chúng
ta rời khỏi vỏ bọc cá nhân để cùng nhau san sẻ, yêu thương thì tình thương sẽ
tạo nên sức mạnh ngày càng to lớn, ngày càng vững chãi. Chính sức mạnh được

ươm mầm từ tình yêu và trách nhiệm với Tổ quốc sẽ là động lực lớn lao để Đất
Nước mình vươn tầm thế giới. Thế nên “tháng ngày mơ mộng” là cách nói
tượng trưng cho kỷ nguyên độc lập, tự do, cho nguyện ước ơng cha đã chờ đợi
bấy lâu.
Để có được tháng ngày mơ mộng ấy, để Đất Nước ngày càng đi tới
những vì sao thì mỗi chúng ta cần có trách nhiệm gánh vác trên vai Đất Nước
mình.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
Đi từ những định nghĩa về Đất Nước để từ đấy nhà thơ làm sống dậy hình ảnh
Đất Nước hiện hữu trong mỗi con người. Như tiềm thức như ký ức và cũng là
như tâm hồn con người, Đất Nước còn như một phần máu thịt không thể tách
rời. “Em ơi em Đất Nước mà máu xương của mình”. Cách so sánh này cụ thể
hố tình cảm mà nhân dân dành cho Đất Nước, cũng như tầm quan trọng của
Đất Nước trong sự sống nhân dân. Hình ảnh này làm ta nhớ đến nhà thơ Giang
Nam đã từng bộc lộ tình yêu quê hương bắt nguồn từ tình yêu đối với sự hy sinh
của những người thân thuộc.
“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tơi”
Mảnh đất này, con đường này là dấu chân ông cha đi mở cõi, là mồ hôi đã rơi,
máu đã chảy. Là nơi chôn nhau cắt rốn cũng là nơi giữ lại nắm tro tàn cịn sót
của một đời lam lũ. “Máu xương” của đồng bào mình đã đổ xuống nơi đây cũng
là “máu xương” của thế hệ mình. Từ ý thức bảo vệ cuộc sống, bảo vệ chính
16


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH


mình, “anh” và “em” sẽ có nghĩa vụ bảo vệ Đất Nước bằng những việc làm thiết
thực “gắn bó và san sẻ”, “hóa thân cho dáng hình xứ sở”.
“Phải biết” lặp lại hai lần ở đầu mỗi câu thơ như một mệnh lệnh xuất phát
từ tình yêu Tổ quốc từ tấm lịng nhiệt thành dành cho dân tộc mình. Lời hiệu
triệu ấy sẽ hoà vào tiếng trống thúc quân, tiếng súng lệnh cho một cuộc trỗi dậy
có ý thức của thế hệ thanh niên thành thị. “Gắn bó, san sẻ” là những điều chúng
ta có thể thực hiện. Chỉ cần dẹp bỏ lớp vỏ bọc cá nhân mang tính tiểu tư sản
hướng đến cái ta, cái chung để mà đoàn kết, u thương sẽ nhìn ra sức mạnh
vốn có của bản thân. Cũng nhờ sự gắn bó và san sẻ ấy mới có được một Đất
Nước vẹn trịn, mới có thể làm nên sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Đâu chỉ “gắn bó và san sẻ”, chúng ta cịn phải biết “hố thân”. Có thể nói
quan niệm “hố thân” mà Nguyễn Khoa Điềm đề cập đến là thái độ sống tích
cực được thừa hưởng từ truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Ấy cũng
là kết tinh trong tư tưởng Đất Nước của nhân dân. “Hoá thân” là sự hy sinh của
mỗi cá nhân vì cộng đồng vì lợi ích chung của Đất Nước. Sự “hố thân” này
dựa trên tinh thần tự nguyện, trên tình yêu tha thiết với non sông và thái độ sống
trách nhiệm, nung nấu từ lý tưởng sống tuyệt vời. Cô gái mở đường trong
những năm bom đạn đã đem tuổi thanh xuân cứu con đường, mở lối xe ra trận.
Dù cô đã hy sinh nhưng gương mặt cơ đã hố vào gương mặt quê hương
“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy luồng bom...”
(Khoảng trời – hố bom- Lâm Thị Mỹ Dạ)
Và bao thế hệ con người cũng đã chọn hy sinh để được sống trọn vẹn với nhiệt
huyết tuổi đôi mươi, sống ngẩng đầu khi đã hoàn thành trọng trách mà lịch sử
đặt trên vai.
Cụm từ “dáng hình xứ sở” giàu sức gợi tả về mọi miền Đất Nước ta. Nhà
thơ đã dùng con chữ để vẽ tấm bản đồ Đất Nước. Trên tấm bản đồ ấy Đất Nước

ta có hình chữ S bắt đầu cho sức sống, san sẻ, sinh sôi. Và trong tâm tưởng của
mỗi con người, Đất Nước chính là tổng thể của hàng triệu mảnh ghép nhân dân.
Chính vì Đất Nước của chúng ta, vì chúng ta, do chúng ta nên Đất Nước sẽ
muôn đời, trường tồn như sự sống cứ sinh sôi, niềm hy vọng cứ ngày một lớn.
Câu thơ đặc biệt khi kết thúc bằng một dấu ba chấm như lời của nhà thơ còn
17


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

chưa thể nói hết, tình cảm mà nhà thơ dành cho Đất Nước mình cũng đâu dễ
diễn tả bằng lời. Câu thơ tạo dư âm, dư ba trong tâm hồn mỗi chúng ta. Khi mà
đơi mắt chúng ta cịn nhìn Đất Nước của hiện tại thì trái tim mình đã đập những
nhịp hy vọng về một Đất Nước ở tương lai, Đất Nước của “muôn đời”.
Đoạn thơ lấy cảm hứng từ cuộc tâm tình của “anh” và “em” cùng nhiều
phép điệp và hình ảnh tượng trưng giàu suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ
tình cảm riêng tư thành tình yêu rộng lớn đối với Đất Nước. Qua đó nhà thơ trải
lòng với những suy ngẫm về trách nhiệm đối với Đất Nước mình. Hơn hết, đoạn
thơ đã bộc lộ được khát vọng và mơ ước mãnh liệt là được cống hiến, được hoá
thân để làm nên Đất Nước trường tồn. Tình cảm ấy, thái độ sống ấy mới đáng
trân trọng.
Nhân dân và Đất Nước được đặt trong một vòng tròn ấn tượng. Vòng tròn
ấy được nhà thơ nhắc đến trong cái nắm tay trong tình u thương, đồn kết.
Vịng trịn khơng điểm đầu, điểm cuối cũng như sự tồn tại hiển nhiên của Đất
Nước trong tâm thức mỗi con người. Đoạn trích Đất Nước nói chung và đoạn
thơ này nói riêng đã nhắc nhở thế hệ hơm nay cần chìa tay ra với lịng chân
thành nhất để nối thêm vào những vịng trịn hy vọng.

ĐOẠN TRÍCH:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho

Đất Nước những núi Vọng Phu...
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta”.

Đất nước Việt Nam đã trải qua ba mươi năm của cuộc chiến tranh trường kì
gian khổ. Trong ba mươi năm ấy, người dân Việt Nam phải đội hàng triệu tấn
bom để hái mặt trời hồng.
“Cha ơng ta đã bố trí những trận binh đồn
Trên vai đỉnh Trường Sơn dọc bờ Đông hải
Tên Tổ quốc vang vang ngoài bờ cõi
Ta đội triệu tấn bom để hải mặt trời hồng”
Vì lẽ đó mà đất nước đã nghiêng vào văn chương và trở thành nguồn cảm hứng
bất tận của thi ca, của người nghệ sĩ. Đất nước hiện về trong những ngày “giặc
kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn". Đất nước có trong những cánh cị trắng bay
18


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

trên cánh đồng làng vào buổi chiều quê yên ả. Rồi ta gặp đất nước trong “lưng
đeo gươm tay mềm mại bút hoa của Huy Cận, một đất nước “rũ bùn đứng dậy
sáng lòa”, đất nước của mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đình Thi và rồi
khi đọc “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm – nhà thơ thời chống
Mĩ, ta lại tìm thấy vẻ đẹp đất nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang
đậm dấu ấn tư tưởng đất nước của nhân dân. Tư tưởng “Đất Nước của nhân
dân” trước hết được thể hiện qua sự biết ơn sâu nặng của nhà thơ đối với nhân
dân đã “góp” cuộc đời mình, tuổi tên của mình, số phận mình để hóa thân thành
những địa danh, thắng cảnh. Những địa danh, thắng cảnh ấy gắn với cuộc sống,
số phận, tính cách của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu...

Những người dân nào đã góp tên
Ơng Đốc, Ơng Trang, Bà Đen, Bà Điểm…”
Ngay từ thời xa xưa, các nhà thơ trung đại đã đề cao vai trị của nhân dân trong
cơng cuộc xây dựng và bảo về Tổ quốc: Trần Hưng Đạo dâng kế sách cho vua,
muốn thắng giặc thì phải khoan thư sức dân, phải sâu rễ bền gốc trong dân.
Nguyễn Trãi khẳng định “lật thuyền mới biết sức dân mạnh”. Phan Bội Châu
khẳng định “dân là dân nước, nước là nước dân”. Trong thời đại Hồ Chí Minh,
Bác ln nhắc nhở: lấy dân làm gốc. Như vậy, trong lịch sử, vai trị của nhan
dân ln được đề cao, là lực lượng gánh vác trọng trách nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ đất nước trong suốt hành trình lịch sử. Thấm nhuần tư tưởng cao đẹp ấy,
Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn ngắm đất nước mình qua các danh lam thắng cảnh
trải dọc theo khắp chiều dài đất nước, từ miền ngược đến miền xuôi, từ rừng
xanh đến biển cả, từ biên giới Lạng Sơn đến vùng đồng bằng Nam bộ. Điểm đặc
biệt, trường ca được viết năm 1971, khi đất nước bị chi cắt hai miền nam bắc
nhưng trong tư duy thơ của Nguyễn Khoa Điềm đất nước lại là một chỉnh thể
thống nhất và trọn vẹn.
Để trả lời cho câu hỏi: Ai là người dựng nên đất nước? Ai kiến tạo?Ai dựng
xây? Nguyễn Khoa Điềm đã có câu trả lời:
“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước mình những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống Mái”
Trước hết, ta có thể thấy, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật liệt kê (liệt kê những
địa danh), sử dụng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh của nhân dân hóa thân
thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho Đất Nước. Các danh thắng ấy
được nhà thơ liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng nhân dân.
19


TAI LIEU TU SUU TAM VA SOAN LAI CUA THUY LINH

Ở miền Bắc, danh thắng ấy hiện lên với núi Vọng Phu, hòn Trống Mái biểu

tượng cho vẻ đẹp của tình yêu thủy chung bền vững.
Hai câu thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh của xứ Thanh, xứ Lạng:
hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái. Những địa danh vốn là những thắng cảnh quen
thuộc đối với những người dân Việt Nam nhưng vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt mĩ ấy
cũng là sự hóa thân của những cuộc đời, những số phận nhân dân. Hòn Vọng
Phu – cuộc đời của người phụ nữ bế con đứng chờ chồng, chân cứng đá mịn
hóa thân thành bức tượng nàng tơ Thị, bức tượng mang đến cho xứ Lạng vẻ đẹp
từ văn hóa vật thể đến tinh thần, có lẽ nói đến đây trong mỗi chúng ta đều nhớ
đến câu ca dao:
“Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tơ Thị có chùa Tam Thanh
Hình ảnh “hịn Trống Mái” ở Sầm Sơn, Thanh Hóa, một câu chuyện tình
buồn,đẹp, thủy chung của đơi lứa u nhau (trong sự tích Con chim Quy). Đơi
trai gái đã giữ vừng lời nguyện thề, họ đã chết để ở bên nhau mãi mãi. Như vậy,
điều kì diệu ở đây là những tên núi, tên sông không phải là sản phẩm của tạo
hóa vơ tri vơ giác mà cịn nó được nảy mầm trong tâm hồn, số phận nhân dân.
Điều dễ nhận thấy, bao trùm trong mỗi di tích, địa danh là một huyền thoại đẹp
về con người hay sự kiện lịch sử.
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua
cịn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp phần
dựng đất Tổ Hùng Vương”
Thời gian trôi qua, những vẻ đẹp thủy chung, nghĩa tình đã bất tử. Đó cịn là vẻ
đẹp người anh hùng làng Gióng với chứng tích “ao đầm ” hình móng chân ngựa
mọc đầy quanh chân núi Sóc Sơn (Hà Nội). Gót ngựa của Thánh Gióng một lần
nữa lại khiến ta tự hào về một người con của dân tộc: 3 tuổi khơng biết nói,
khơng biết cười thế nhưng tiếng nói đầu tiên trong đời là địi đi đánh giặc. Cũng
với ngựa của triều đình và búi tre đằng ngà của nhân dân, Thánh Gióng đã thắng
giặc Ân, rồi bay thẳng về trời thành huyền thoại bất tử. Những ao đầm bên núi
Sóc Sơn là những chứng tích rất đỗi tự hào và truyền thống yêu nước bất khuất

của dân tộc. Hình sơng thế núi nước ta, hữu duyên hay vô ý mà tạo nên mạch
địa linh nhân kiệt. Đó là quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao
quanh núi Hi Cương (Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị. Mảnh đất Châu
Phong nơi vua Hùng đóng đơ, thật kì lạ sao ta khám phá được 99 con voi quay
về chầu phục thể hiện lịng thành kính, linh thiêng.
20



×