Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Axit hữu cơ trong thức ăn cá pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.32 KB, 3 trang )

Axit hữu cơ trong
thức ăn cá
Bổ sung axit hữu cơ trong thức ăn chăn nuôi được coi là
một trong những biện pháp hiệu quả để phòng bệnh, thúc
đẩy tăng trưởng và giảm tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR)
của động vật nuôi khi kháng sinh được loại bỏ khỏi khẩu
phần.
Axit hữu cơ đã được sử dụng phổ
biến để bổ sung vào thức ăn của lợn hay gà, tuy nhiên sử
dụng axit hữu cơ để bổ sung vào thức ăn thủy sản thì mới
được áp dụng gần đây. Thực ra các kỹ thuật lên men chua
tự nhiên để sản sinh axit hữu cơ (axit lactic) trong bảo
quản tôm, cá đã được áp dụng từ thời cổ xưa. Vài chục
năm gần đây, axit hữu cơ như axit formic cũng đã được
áp dụng trong kỹ thuật ủ ướp cá hay phụ phẩm của cá, các
sản phẩm cá ủ ướp đã được đánh giá là nguồn thức ăn
thủy sản có giá trị dinh dưỡng cao.
Tuy nhiên đưa trực tiếp axit hữu cơ hoặc muối của axit
hữu cơ vào thức ăn thủy sản, đặc biệt thức ăn công nghiệp
thì còn là kỹ thuật hoàn toàn mới. Các axit hữu cơ hoặc
muối của axit hữu cơ bổ sung vào thức ăn thủy sản
thường bao gồm axit lactic và sodium lactate, axit acetic
và sodium acetate, axit propionic và sodium propionate,
axit formic và sodium formate hay potassium diformate
Một kết quả nghiên cứu sử dụng potassium diformate bổ
sung vào thức ăn nuôi cá rô phi trong 85 ngày ở Indonesia
cho thấy sodium diformate trộn vào thức ăn theo tỷ lệ
0,2% (2 kg/1 tấn) đã giúp cá ăn nhiều thức ăn hơn, tăng
trưởng nhanh hơn và có FCR thấp hơn so với nhóm đối
chứng ăn khẩu phần không bổ sung axit hữu cơ (tăng
trưởng cao hơn 20% và FCR giảm thấp hơn 8%).


Đặc biệt khi cá được cho nhiễm vi khuẩn Vibrio
anguillarum (vi khuẩn gây bệnh xuất huyết, đốm đỏ, lở
loét, vây bị ăn mòn) ở mức 105 CFU/ngày trong 20 ngày
thì tỷ lệ chết của cá là 20,8% ở nhóm bổ sung sodium
diformate, còn ở nhóm đối chứng cá có tỷ lệ chết tới 33%.
Hàm lượng potassium diformate càng cao thì tỷ lệ chết
càng giảm (hàm lượng potassium diformate là 0,3% và
0,5% thì tỷ lệ chết của cá là 18,4% và 11%, lần lượt) (dẫn
theo Christian Luckstadt, 2009).
Một nghiên cứu khác thực hiện trên cá rô phi lai
(Oreochromis niloticus x Oreochromis aureus) ở giai đoạn
cá hương (trọng lượng cá đầu thí nghiệm là 2,7g) trong 56
ngày đã thấy cá ăn khẩu phần chứa 0,3% potassium
diformate đã cho tăng trưởng cao hơn 11,6% so với cá ăn
khẩu phần đối chứng không bổ sung axit hữu cơ.
Tăng trưởng của cá ăn khẩu phần thức ăn chứa potassium
diformate khi so với cá ăn khẩu phần chứa kháng sinh
flavomycin (8 mg/kg thức ăn) nhưng không chứa
potassium diformate cũng cao hơn. Như vậy khả năng axit
hữu cơ thay được kháng sinh trong khẩu phần cá rô phi
được xác nhận giống như sự xác nhận khả năng này trên
lợn hay gà.
Những thí nghiệm thực hiện trên loài cá Arctic char
(Salvelinus alpinus) với khẩu phần bổ sung 1% sodium
lactate đã cho thể trọng từ 310g tăng lên 630g trong 84
ngày, trong khi cá ăn khẩu phần đối chứng chỉ cho thể
trọng 520g trong cùng thời gian thí nghiệm. Các nhà khoa
học đã nhận thấy rằng cá tra khi nuôi bằng thức ăn công
nghiệp với liều lượng cao thường thải ra phân lỏng (dấu
hiệu của rối loạn tiêu hóa do vi khuẩn), tuy nhiên nếu

những thức ăn này được bổ sung sodium lactate thì cá
không bị bệnh nữa.
Với các thí nghiệm trên cá hồi vân (Oncorhynchus
mykiss) ở giai đoạn cá hương, người ta cũng thấy tăng
trưởng và FCR của cá được cải thiện rõ rệt khi nuôi bằng
thức ăn được bổ sung từ 1,0 - 1,5% muối của axit formic
hay của axit succinic. Thức ăn bổ sung muối của các axit
hữu cơ này cũng thấy có khả năng thay thế kháng sinh
flavomycin.

×